Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky

K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tê Dại - Xuân Thụ
Một câu chuyện về tuổi trẻ, tình yêu và những khát khao nổi loạn. Vô Xuân Lực là một cô gái trẻ, đầy mộng mơ với những khát khao khám phá về cuộc sống và con người xung quanh. Với cô, thế giới là âm nhạc, là những người bạn và bạn trai, là ca sĩ, là thơ ca, là Internet, là những điên rồ của tuổi trẻ. Câu chuyện của Vô Xuân Lực và những người bạn trẻ đầy điên rồ và bốc đồng của cô sẽ giúp người đọc như quay về một phần nào tuổi xuân tươi trẻ và bốc đồng của chính mình. “Tôi chưa từng nghĩ tới việc kết hôn, tôi chỉ muốn có một chiến hữu. Anh ấy trẻ trung giống như tôi, kiên định giống tôi, đứng bên cạnh tôi, không muốn tôi trưởng thành, ghim cơ thể tôi vào tường thời gian. Tôi muốn nghe anh nói anh yêu em, tôi muốn chúng tôi bị bắn trong chăn hàng trăm phát, chết như vậy mới có ý thơ chứ.” “Tình yêu không đáng một cắc, trừ phi đối phương dùng hành động chứng minh tất cả. Nếu bạn nhận được thông điệp cuối cùng, là một chiêu bài hay một cái hạn để chết, có lẽ bạn cũng nên nằm mơ giống tôi, chờ đợi một người yêu mình vừa có tiền vừa đẹp trai.” – trích tác phẩm. *** Tác giả Xuân Thụ sinh năm 1983, tại Bắc Kinh. Tất cả các phẩm của cô đều rất ăn khách ở Trung Quốc, hầu hết đều miêu tả tình cảm mãnh liệt bộc phát của lứa tuổi thanh thiếu niên. Được giới phê bình đánh giá là nội dung sâu sắc và ngôn từ sống động. Búp bê Bắc Kinh đã được bán bản quyền trên 20 quốc gia và khu vực: Anh, Mỹ, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia, Phần Lan, Na Uy, Nhật, Việt Nam… *** Mùa hè bắt đầu từ khi quen biết Lý Tiểu Thương. Đó là nơi kết thúc của một buổi diễn. Không, vẫn chưa diễn xong thì tôi đã quen biết anh ấy rồi. Tôi đã quen anh ấy vào mùa hè đó. Ngày hôm đó tôi khát khô cổ, ngồi nôn trên lan can sắt. Thôi Thần Thủy chạy tới giúp tôi. Anh mua cho tôi một chai nước khoáng, vừa đưa giấy ăn cho tôi vừa quan tâm hỏi han: “Xuân Vô Lực, em không sao chứ?” “Không sao.” Hầu như bất cứ lúc nào tôi cũng đều nói, “không sao”. Bởi tôi không biết rốt cuộc có việc gì không, không biết có việc gì đương nhiên là không sao. Tôi nôn tới mức không mấy tỉnh táo, chỉ biết Thôi Thần Thủy quan tâm tới mình, lo lắng cho mình. Nhìn đường ray phía trước lan can sắt, nụ cười mơ hồ dần xuất hiện. Đúng lúc đó Lý Tiểu Thương đi về phía tôi. Theo trí nhớ từ lâu đã mơ hồ của tôi, tôi nhớ rằng Lý Tiểu Thương đang cầm một chai bia (ở đây bia được viết đơn độc mà không có ý nghĩa gì). Đầu tiên anh ta cười với Thôi Thần Thủy, sau đó nhìn tôi, nói với Thôi Thần Thủy (mà không phải tôi): “Cô ấy chắc không sao chứ?” Do ánh mắt của anh ấy ẩn hiện vẻ tinh anh và sự soi mói thật sự nên tôi không hề coi hành động và lời nói của anh ấy là sự quan tâm. Mọi thứ tiếp đó giống như một đoạn phim, không những thế lại là thể loại phim câm. Mặc dầu buổi biểu diễn vẫn chưa kết thúc, nhưng đã có một nhóm người hỗn tạp tập hợp bên ngoài quán Bar “Lạc Lạc Lạc”. Tôi bám vào lan can và vai Thôi Thần Thủy đứng dậy, cả người lắc lư. Mới đi tới hòn đá trước cửa quán bar liền ngồi xuống, bên cạnh đều là những người xa lạ. Nếu trước đây gặp phải tình huống tương tự, chắc chắn tôi sẽ ngượng ngập vô cùng nhưng với men rượu cùng sự động viên khuyến khích của nó, tôi đã không còn quá nhiều cảm xúc nữa. Tôi không hề thấy lúng túng khó xử. Tôi còn muốn ăn kem. Được rượu an ủi, tôi trở nên mạnh dạn vô cùng, dám làm một số chuyện mà khi không uống rượu không bao giờ dám làm. Có người đang cầm một que kem đứng dưới cột sắt nói chuyện phiếm. Tôi không nhìn rõ mặt anh ta. Tôi bước tới, cất giọng lè nhè: “Cho tôi ăn một miếng.” Anh ta nhìn tôi một cái rồi đưa cho tôi. Tôi cắn một miếng, vui mừng hớn hở. ... Mời các bạn đón đọc Tê Dại của tác giả Xuân Thụ.
Những Bầy Mèo Vô Sinh - Mạc Can
Một câu chuyện viễn tưởng chỉ nói về chuyện bồ câu và lũ mèo hoang, hình ảnh con người gần như mờ nhạt, nhưng Những Bầy Mèo Vô Sinh lại có thể khiến thế-giới-người phải giật mình. Bởi thoát ra khỏi thế giới bồ câu biết nói tiếng người và những con mèo hoang được nhân bản vô tính biết chụp vi ảnh để tàn sát loài người, thì câu chuyện chính là hai mặt giữa thiện và ác; giữa bình yên vô lo và đầy rẫy những mưu mô toan tính. Đó là hai mặt tồn tại song song, chỉ có trong thế-giới-người. "Những Bầy Mèo Vô Sinh" là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Trẻ Mạc Can. Bằng những chi tiết đắt giá, lồng ghép trong khung cảnh hiện thực huyền ảo, Mạc Can đã dẫn dắt bạn đọc đi từ mối quan hệ gần gũi giữa ông SuDa– người chạy xe ôm và ông Già Ba– nhà văn, nhà nghiên cứu về mèo và những biến động của đời sống thông qua sự xuất hiện của những bầy mèo vô sinh. Ước vọng và nỗi xót đau không phải chỉ của riêng nhân vật trong tiểu thuyết. Người viết gần như đã gửi vào đó những đau đáu trở trăn khi “thời gian không trôi qua như bóng chim mà cuốn tròn trở lại”; những xót xa ngậm ngùi khi không thể phủ nhận rằng “nhà viết tiểu thuyết nào cũng bi quan về mình, nhưng họ lại viết khác. Cuộc đời khác trên trang giấy mới đáng sống”; và những cay đắng bất lực trước những chuyện không thể thay đổi của cuộc đời “Mọi sự qua mau không thể tưởng. Không kịp tiếc nuối”. Chỉ có bầy mèo vô sinh là sống bền bỉ lâu dài... "Ông SuDa nhìn về hướng con sông, tìm xóm cũ. Ngay sáng hôm sau và suốt buổi chiều cho đến tối mịt hôm nay, ông chỉ thấy có lửa. ông quay về nhưng cây cầu đã sập. Con sông đỏ rực ánh lửa. lũ mèo lội qua sông đen ngòm. Một số đông vây quanh xóm Bồ Câu, một số đã vô được bên trong. Chúng đi hai chân, nhiều con chạy xổng lưng, tràn vào nhà ông Kính, ngoạm cổ bầy Bồ Câu con. Con Bồ Câu trống nhà trên ông Hiền Khô chạy quanh. Dựng lông cổ gáy gù gù chống cự quyết liệt với mèo, bảo vệ vợ con." *** Mạc Can tên thật là Lê Trung Can, sinh năm 1945, trong một gia đình nghèo, lại đông anh em. Các anh em ông mỗi người mỗi cảnh, vất vả mưu sinh bằng trăm thứ nghề và người nào cũng nghèo rớt. Ông là một nghệ sỹ, nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là một nghệ sỹ đa tài, tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Tháng 3/2011, “nhà văn trẻ” Mạc Can trở về Sài Gòn sau gần 2 năm sống ở Mỹ để lấy cảm hứng viết cuốn sách dạng hồi ký mang tên Nhớ (NXB Trẻ và Tủ sách Tuổi trẻ ấn hành). Có thông tin cho biết, khoảng đầu năm 1980, có một đoàn làm phim của Nhật đến Sài Gòn ghi hình. Mạc Can được mời vào vai người đi chợ để giới thiệu các sản vật Việt Nam. Khởi đầu sự nghiệp viết văn ở tuổi 60 bằng tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”, cứ ngỡ Mạc Can chỉ ghé qua khu vườn văn chương thoáng chốc rồi đi. Thế nhưng 9 năm qua, ông đã lần lượt cho ra đời nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn được bạn đọc yêu thích. Ông được giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005, ông cũng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM. *** Tác phẩm tiêu biểu: Truyện, tập truyện: Món nợ kịch trường (1999) Tờ 100 đôla âm phủ (2004) Cuộc hành lễ buổi sáng (2005) Người nói tiếng bồ câu (2006) Ba…ngàn lẻ một đêm (2010) Nhớ (2011) Mạc Can – Truyện ngắn chọn lọc (2013) Tiểu thuyết: Tấm ván phóng dao (2004) Phóng viên mồ côi (2007) Những bầy mèo vô sinh (2008) Quỷ với bụt và thần chết (2010 Tạp bút: Tạp bút Mạc Can (2006) Mời các bạn đón đọc Những Bầy Mèo Vô Sinh của tác giả Mạc Can.
Lọ Lem đường phố - Quái Vương
Cô gái Lã Thiên Ân có một thân phận không khác cô bé lọ lem quen thuộc trong truyện cổ tích là mấy. Cũng bố mất, cũng cảnh con chồng dì ghẻ, chị em cùng cha khác mẹ. Nhưng lọ lem của thế kỷ 21 không nhu mỳ, chẳng đảm đang, chưa bao giờ tháo vát. Một lọ lem tin vào những điều kì diệu nhưng không tin vào bà tiên. Ông trời thử thách cô? - Cô sẽ thách thức ngược lại. Làm tổn thương cô? - Cô sẽ đạp bẹp tất cả tổn thương. Một lọ lem không cho phép ai đứng trên đầu mình mà sai bảo. Mẹ kế? Em kế? Muốn hành hạ sao? - Cửa sổ cũng không có. Bước vào Lọ Lem Đường Phố chúng ta sẽ như được bước vào thế giới cổ tích với biết bao điều kỳ diệu xảy ra, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác nhưng nó không đem lại cho bạn đọc cái cảm giác quen thuộc là thương cảm, và thấy may mắn khi cô bé lọ lem được bà tiên giúp đỡ mà là cảm giác thú vị, nể với những điều kỳ diệu do chính cô bé lọ lem Lã Thiên Ân tạo ra cho mình. Một cô bé tên Lã Thiên Ân thông minh, tài năng, cứng rắn, mạnh mẽ ngay cả trong ngày bố mất cũng không rơi một giọt nước mắt và luôn có cho mình một thế giới riêng. Với những ý nghĩ khác người đổ ảnh thờ của bố mẹ, thay vì hai bức ảnh chân dung trên bàn thờ thì cô thay bằng một bức ảnh cưới có mặt hai người. Bố mất để lại một di chúc giống như trò chơi cuối cùng ông dành cho cô và mẹ con nhà Nguyễn Ánh Mai và Lã Nguyên Đan. Bí mật về tài sản trong di chúc sau ba năm ông mất mới được công bố.    *** Suốt những ngày mùng Thiện đều đến cô nhi viện Mái Ấm và ở đó cho đến tối mặc cho Ân thờ ơ, lạnh nhạt. Cô không nói chuyện với cậu, cậu nói chuyện với bọn trẻ. Cô đuổi cậu, cậu mua chuộc bọn trẻ để năn nỉ cho cậu ở lại. Tóm lại, Thiện đã “không từ thủ đoạn” để được bên cạnh Ân. Hôm mùng sáu, Thiện đến thì đã thấy Hy đang ở trong nhà trò chuyện cùng Ân, Linh và Phụng. Thấy đông vui, Thiện liền đề nghị mọi người đánh bài cát tê. Sở dĩ Thiện rủ chơi cát tê là vì đây là món bài tủ của cậu. Cậu đoán bài khá chuẩn. Trưng hay cúp đều không trùng nước. Cuối cùng khi kết thúc, mọi người ngồi nhẩm lại thì Ân là người ăn nhiều nhất rồi đến Hy, Linh cũng ăn nhưng không nhiều còn Phụng thì huề, chỉ có Thiện là thua lớn. Cậu nghĩ mãi nghĩ thế nào cũng không ra tại sao bình thường bài cậu rất mạnh nhưng hôm nay lại “hai ba bước đều”. Thua không gỡ được lấy một ván. Trong nét mặt ngây ngô của Thiện, Hy phán rằng: “Đỏ tình đen bạc”. Thiện nghiêng đầu ngẫm nghĩ một hồi không lâu liền quay sang Ân phụng phịu: “Tại cậu đấy!” Trong một buổi trưa mùa xuân, Linh, Phụng và Hy được một trận cười lớn. Mời các bạn đón đọc Lọ Lem đường phố của tác giả Quái Vương.
Là Điều Anh Muốn - Lynn Kurland
Giống như những nhân vật anh hùng trong tác phẩm của Lynn Kurland, Là điều anh muốn kể câu chuyện về kị sĩ Christopher - một chiến binh được mệnh danh là "con rồng xứ Blackmour”. Trong một cuộc tấn công từ kẻ thù, anh bị mù. Sau khi mất đi ánh sáng, Christopher chẳng quan tâm tới bất cứ điều gì. Anh lảng tránh tất cả mọi người, thu mình trong lâu đài và vẽ lên những câu chuyện ma quái về bản tính lạnh lùng, tàn bạo và khắc nghiệt của mình. Tuy vậy, Christopher vẫn thực hiện lời hứa với William - người bạn thân thiết từng đồng cam cộng khổ - rằng anh sẽ cưới cô em gái đáng thương của bạn. Gillian Warewick - em gái của William - suốt bao năm vẫn ẩn mình sau sự bảo vệ của anh trai. Nhưng William lại ra đi quá sớm, bỏ lại cô một mình với người cha ác độc cùng sự tự ti về vẻ bề ngoài mà theo lời cha cô nói, thì thật xấu xí. Những ngày đầu sống cùng Christopher, Gillian luôn nép mình vào sợ hãi và tìm cách bỏ trốn, bởi những lời đồn đại về bản tính ác quỷ trong con người chồng mình. Sự che giấu vụng về song vẫn chứa đựng quan tâm của Christopher đã khiến Gillian nhận ra rằng, lâu đài và vòng tay của kẻ được coi là "tai họa của nước Anh” kia là chốn an toàn duy nhất cho cô. Cũng chính từ đó, cuộc sống của hai con người mang trong mình những mặc cảm và vết thương khó lành dần có sự thay đổi… Là điều anh muốn kể câu chuyện cảm động giữa hai linh hồn mang nhiều tổn thương. Cả hai tưởng rằng trái tim họ sẽ không bao giờ lành lại, nhưng chính sự sắp đặt của số phận đã mang họ đến bên nhau, nhóm lên ngọn lửa của niềm tin và tình yêu. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện tình lãng mạn, mà ẩn chứa trong những trang viết là một niềm tin về giá trị chân thực của tình yêu, thứ duy nhất có thể chữa lành mọi thương đau và đưa hai linh hồn lạc lối về bên nhau. Là điều anh muốn là một trong 29 cuốn tiểu thuyết của Lynn Kurland. Trong gia tài đó, nhiều tác phẩm của nữ nhà văn nằm trong danh sách bán chạy của New York Times, USA Today, Amazon Top 100... *** Lynn Kurland bắt đầu sự nghiệp văn chương từ khi mới lên năm tại Hawaii với series tiểu thuyết ngắn có nhan đề Clinton’s Troubles, xoay quanh vị anh hùng bất đắc dĩ nhận ra bản thân mình đang vướng vào một đống rắc rối. Sau khi trở về đất liền, bà tạm gác niềm say mê sáng tác sang một bên để tập trung vào âm nhạc cổ điển. Những năm tháng học đại học đã mang đến cho Kurland cơ hội được tiếp cận với những kệ sách chất đầy tiểu thuyết lãng mạn trong thư viện trường, chúng không chỉ khiến bà mê mẩn mà còn tiếp thêm can đảm cho bà để đặt bút viết những trang sách của riêng mình. Năm 1996, bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Stardust of Yesterday, và giành được hai giải RITA cho Tiểu thuyết đầu tay hay nhất và Tiểu thuyết huyền bí hay nhất. Tính đến nay, bà đã xuất bản hai mươi chín cuốn tiểu thuyết dài với lịch trình đều đặn, một tác phẩm giả tưởng Nine Kingdoms vào tháng Giêng và một tác phẩm huyền bí/xuyên không vào tháng Tư. Bà cũng đã xuất bản tám tiểu thuyết ngắn, trong đó To Kiss in the Shadows đã giành giải RITA cho Tiểu thuyết lãng mạn ngắn hay nhất. Nhân vật trong phần lớn các tác phẩm của bà đều xuất thân từ ba dòng họ truyền thống: MacLeod, McKinnon và de Piaget, và thường có mối quan hệ đan kết chặt chẽ với nhau. Tiểu thuyết của Kurland luôn nằm trong danh sách bán chạy nhất của tạp chí New York Times, USA Today, Amazon Top 100, Barnes & Noble, Walden và B. Dalton. Tháng 8 năm 1997, Lynn Kurland xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ tư, Là điều anh muốn (This is All I Ask). Tác phẩm thuộc series De Piaget và được viết theo thể loại lãng mạn lịch sử pha giả tưởng. Cuốn sách đã đoạt giải Care Finalist của Romantic Times Bookstores cho Tiểu thuyết lịch sử hay nhất. Hai tác phẩm khác, The More I See You (series De Piaget) và A Garden in the Rain (series The MacLeods), cũng sẽ được BachvietBooks giới thiệu đến độc giả trong thời gian tới. BachvietBooks *** Những nhánh củi khô nổ lách tách trong lò sưởi, mang theo cụm hoa lửa bùng sáng trên mặt đá lạnh lẽo. Chất lỏng màu nâu sóng sánh bên trong chiếc vạc sôi ùng ục dâng cao đến mép rìa như chực tràn ra ngoài, tựa hồ một người trẻ tuổi đang chằm chằm nhìn vào vực sâu tội lỗi và đùa giỡn với ý nghĩ nảy ra trong đầu. “Magda, để mắt cái vạc đun kìa!” Người phụ nữ già nua nhăn nheo nhảy dựng lên như giẫm phải đinh, hất mái tóc bạc khỏi gương mặt mình bằng bàn tay béo múp rồi thổi bùng ngọn lửa. “Ôi Đức mẹ Mary, ta nghĩ ta lại đun quá lửa rồi!”, Magda thút thít. “Bằng Ngọn lửa Địa ngục à, ta rất ghét khi ngươi cứ gọi những tên Thánh linh thiêng ấy”, người thứ hai lên tiếng, bước tới lấy cái muỗng. Bà ta nếm thử rồi chửi rủa, “Thánh thần thiên địa ơi, mọi thứ cứ luôn phải qua tay ta mới được hay sao?”. “Nemain ơi, chúng ta phải làm sao bây giờ?”, Magda kêu lên, siết chặt đôi tay. “Ta không chịu đựng nổi nếu thấy họ đánh mất cơ hội này khi số phận đến lúc này vẫn an bài thật viên mãn và thuận lợi theo mong muốn của chúng ta!” Nemain càu nhàu khi kéo cái vạc ra khỏi lò. “Berengaria, đến nếm thử mà xem. Ta phải nói rằng đây là thứ tình dược tệ nhất Magda từng phối chế.” Berengaria không trả lời. Bà đang bận nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, quan sát quá khứ mở lối cho tương lai. Đó là một món quà bà sở hữu: Tiên tri. Bà thích thú khi đắm chìm trong quá khứ để xem tương lai diễn ra thế nào, hiểu được các bậc đế vương vì sao chết và những lãnh địa do đâu mà thất thủ. Khả năng này cũng tỏ ra hữu ích khi cần biết lúc nào lâu đài bà đang sống gần đó sẽ bị bao vây, giúp bà có đủ thời gian gói ghém hành lý và tìm chỗ ở mới trước khi bọn cướp tới. Nhưng nhiệm vụ bày ra trước mắt bà bây giờ mới là điều quan trọng nhất: Mang hai linh hồn bất đắc dĩ, thẳng thắn và hơi quá quắt đến được với nhau. Vâng, điều này quả xứng với sự khéo léo khiêm tốn của bà. Bà nhận thấy Magda kiễng chân, nghe được Nemain cự nự khi bà ta giậm đôi ủng phù thủy mòn cũ xuống sàn, nhưng bà không thèm chú ý đến họ. Thành bại chỉ trong hơi thở. Nếu Lãnh chúa Blackmour không có chút danh dự nào, hắn sẽ bỏ mặc lời thề bảo vệ một người phụ nữ hắn hầu như chẳng quen biết. Có lẽ, cuối cùng thì danh dự cũng không hẳn là một đức tính hoang phí. Berengaria để hiện tại trôi qua tầm mắt, nhìn gã Rồng tăm tối hung bạo xứ Blackmour gửi đi thông điệp của hắn. Bà nghiền ngẫm kỹ lưỡng người chiến binh được trận mạc trui rèn nọ, hài lòng thấy rằng hắn sẽ không chùn bước cho đến khi đạt được mục đích. Hắn không thể, hoặc sẽ mất tất cả. Chẳng còn cơ hội nào khác cho hắn. “Magda, ôi mũi tôi, mùi đó thật khủng khiếp”, Nemain bịt mũi và thụt lùi tuốt về phía bên kia căn lều. “Đổ nó đi, làm lại. Và lần này hãy cẩn thận! Phải mất hàng chục năm mới tìm được xương ngón tay của một pháp sư, ngươi thì đã dùng gần hết rồi. Ta không có ý định mạo hiểm đến Scotland lần nữa để tìm thêm mẩu xương khác đâu!” “Đừng la lối nữa”, Magda khịt mũi. “Ta chỉ ở đây vài năm thôi.” “Ta dám khẳng định ngay cả linh mục hèn mọn nhất cũng có thể nói vậy. Hắn sẽ sớm nghĩ ngươi giống một nữ tu hơn là một phù thủy.” ... Mời các bạn đón đọc Là Điều Anh Muốn của tác giả Lynn Kurland.