Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Con Xa Lạ

Đứa con xa lạ là tiểu thuyết của nhà văn Anh - Rachel Abbott. Tác phẩm vừa được Nguyễn Xuân Hồng dịch, Nhà xuất bản Văn học và Văn Việt Books phát hành. Câu chuyện mở đầu bằng một vụ tai nạn khó hiểu trong một đêm không trăng. Caroline Joseph lái xe đưa con gái sáu tuổi Natasha về nhà sau bữa tối cùng họ hàng thì nhận một cuộc điện thoại bí ẩn. Sau cuộc điện thoại, chiếc xe của cô bị trượt trên đường và lật ngửa. Caroline qua đời còn con gái cô - Natasha - biến mất không dấu vết. Sáu năm sau, Natasha đột ngột xuất hiện trong nhà như một bóng ma bí ẩn. Bố cô là David lúc này đã đi bước nữa với Emma và có cậu con trai nhỏ tên Olive. Natasha đối xử với bố và dì như những kẻ thù với sự lạnh lùng, tàn nhẫn mà khó ai ngờ một đứa trẻ 12 tuổi có thể làm được. Cô bé cũng không hé một lời về sáu năm qua của mình và vì sao cô có thể quay trở về. Cuộc điều tra của cảnh sát dần hé lộ thân phận của Natasha. Ngoài sự căm hận với bố, Natasha còn phải đứng trước lựa chọn hoặc làm theo hoặc bị những kẻ điều hành giết. Trong thời gian đó, chính Natasha bị cảm hóa bởi sự kết nối lạ lùng với người mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ.Trong khi David cố tìm cách để kết nối lại với con gái, vợ anh là Emma cảm thấy bất an trước sự xuất hiện lạ lùng của Natasha. Khi Emma ra ngoài để tránh sự ngột ngạt trong gia đình, con trai cô Olive đã bị Natasha giao cho những kẻ bí ẩn. Tác phẩm cũng dần hé lộ người liên quan tới vụ tai nạn của Caroline Joseph năm nào. Sâu xa của vụ việc là những mối quan hệ làm ăn bí hiểm, những lựa chọn, đấu tranh để giữ gìn hạnh phúc... *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Thêm mười phút nữa, và cô sẽ an toàn ở nhà. Caroline Joseph rùng mình khoan khoái vì chuyến đi dài đằng đẵng sắp kết thúc. Chưa bao giờ cô thích việc lái xe ban đêm và cô luôn cảm thấy hơi mất kiểm soát. Từng cặp đèn pha tiến đến gần dường như đều hút cô về phía chúng, thứ ánh sáng màu trắng của chúng soi tỏ không gian trong xe, trong khi cô nắm chặt vô lăng, cố hướng chiếc xe thẳng về phía trước. Nhưng giờ thì không còn lâu nữa. Cô mong được đem Natasha đi tắm nước ấm, uống một cốc sô cô la nóng, và ủ con bé trên giường. Sau đó cô có thể dành nốt thời gian còn lại của buổi tối cho David. Anh đang gặp chuyện gì đó bực bội, và Caroline nghĩ rằng nếu họ có thể ngồi trước đống lửa cùng với một ly rượu vang khi Natasha đã say ngủ thì cô có thể thuyết phục được anh nói ra mọi chuyện. Chắc chắn phải là chuyện gì đó liên quan đến công việc. Cô liếc nhìn cô con gái quý báu của mình qua gương chiếu hậu. Tasha đã sáu tuổi - hay sáu ba phần tư, như cách cô vẫn thích đem khoe - mặc dù thân hình mảnh khảnh của con bé khiến nó trông nhỏ tuổi hơn. Mái tóc vàng nhạt của nó buông thành những lọn quăn mềm mại trên vai, và những đường nét thanh tú của nó thỉnh thoảng lại sáng bừng lên trong thứ ánh sáng vàng khi họ đi qua những ngọn đèn đường. Mắt con bé nhắm chặt, và Caroline mỉm cười trước vẻ bình an của con bé. Hôm nay Tasha thể hiện tính cách dịu dàng như thường lệ, chơi rất vui vẻ với anh chị em họ trong khi đám người lớn bận rộn làm theo lệnh bố của Caroline. Ông cụ đã đưa ra một “chỉ dụ” - lần này tuyên bố rằng Caroline, cùng với các anh chị em và gia đình của họ, phải đến dự một bữa tối trước dịp Giáng sinh. Bình thường, tất cả mọi người đều vâng lời. Tất cả mọi người có nghĩa là trừ David ra. Đường rẽ vào những con hẻm dẫn tới nhà họ vùn vụt tiến lại gần, Caroline liếc nhìn Natasha lần chót. Khi họ rời khỏi đường chính và xa dần những khung cửa sổ của các cửa hiệu đèn đuốc sáng choang, quầng sáng màu hổ phách của những ngọn đèn đường cao vút, khoang sau xe chìm vào bóng tối. Con bé ngủ suốt cả chuyến đi, nhưng lúc này bắt đầu cựa quậy. “Con ổn chứ, Tasha?” Caroline hỏi. Đứa bé chỉ làu bàu đáp lại, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn để trả lời trong lúc đưa mu bàn tay dụi dụi mắt. Caroline mỉm cười. Cô đạp nhẹ phanh và chuyển số để rẽ. Tất cả những gì cô phải làm là chạy nốt vài dặm đường cuối cùng của chuyến đi này, dọc theo những ngõ phố hẹp có hàng giậu hai bên, chìm sâu trong bóng tối, và rồi cô có thể nghỉ ngơi. Cô chợt thấy lo lắng về David. Anh biết cô rất ghét lái xe buổi tối, và lẽ ra anh có thể cố gắng - vì Natasha, nếu không phải vì cô. Hôm nay cả hai người đều nhớ anh. Có một chuyển động đột ngột bên trái thu hút ánh mắt của Caroline, và cô xoay đầu về phía đó, tim cô đập nhanh trong lồng ngực. Một con cú xà thấp xuống hàng giậu, phần ngực trắng xóa của nó bắt trọn quầng ánh sáng từ đèn pha của cô, sáng rỡ trên nền trời đen. Cô thở phào. Trời không có trăng, và mặt đường đen kịt trên các ngõ phố dẫn tới ngôi nhà của họ lấp loáng những hạt sương. Mọi thứ xung quanh cô dường như yên tĩnh hoàn toàn, như thể cả thế giới vừa dừng lại, và giờ nếu con cú bay đi thì cô là vật duy nhất vẫn còn chuyển động. Caroline biết, nếu cô mở cửa sổ, sẽ chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng động cơ xe ầm ì khe khẽ. Phía trước hay đằng sau đều chẳng có ánh sáng, và trong phút chốc, nỗi sợ bóng tối rất tự nhiên của cô nhăm nhe ụp xuống. Cô rướn người về phía trước, bật radio với âm lượng nhỏ, cảm thấy bình tâm nhờ sự vui tươi của những ca khúc dịp lễ. Chẳng mấy cô sẽ phát ngán với những âm thanh này nhưng ngay lúc này, sắc thái vui vẻ thường lệ của chúng khiến cô thấy thư thái. Cô mỉm cười khi điện thoại trên ghế ngồi cạnh mình bắt đầu reo. Chắc chắn rằng đó là David muốn hỏi khi nào cô về, cô chỉ hơi liếc nhìn màn hình, nhưng đúng khoảnh khắc cuối cùng cô nhận ra, cuộc gọi đến từ một số đã được ẩn. Cô chạm vào màn hình và hủy cuộc gọi. Dù là ai thì cũng cứ đợi tới lúc cô về đến nhà đã. Cô đánh lái bằng một tay để cua nhanh trong lúc đặt điện thoại trở lại ghế ngồi, khiến chiếc xe hơi trượt đi trên mặt đường lạnh lẽo. Cô cảm thấy hơi hoảng. Nhưng chiếc xe vẫn vững, và cô lại thở bình thường. Caroline ngoặt thật cẩn thận ở những chỗ tiếp theo, nhưng đôi vai căng cứng của cô trùng xuống khi cô chạy đến một đoạn đường thẳng có bờ giậu cao che chắn, cùng những đường rãnh sâu dọc hai bên. Caroline rướn sát vào kính chắn gió, đăm đăm nhìn sâu vào màn đêm. Đèn pha xe cô đang rọi vào một khoảng tối thẫm hơn - có gì đó trong ngõ phố phía trước. Cô hơi đạp phanh và ve một số, chạy chậm lại vẻ phòng xa. Cô chuyển tiếp về số hai để tiến gần vật cản, hãi hùng nhận ra đó là một chiếc xe hơi, xoay nghiêng chắn ngang đường, hai bánh trước của nó vùi xuống rãnh bên mé phải đường. Cô nghĩ mình nhìn thấy một bóng đen trong xe, như thể có ai đó đổ gục trên vô lăng. Khi Caroline chầm chậm tiến về phía chiếc xe, tim cô bỗng đập rộn, cô nhấn nút để hạ kính cửa sổ. Trông như có người cần được giúp đỡ. Điện thoại lại reo vang. Ý nghĩ đầu tiên của cô là mặc kệ, nhưng nếu đã xảy ra một vụ tai nạn thì cô có thể cần gọi thêm hỗ trợ. Cô vớ lấy điện thoại trên ghế và trả lời cuộc gọi, nhận ra tay mình đang run bắn. “A lô?” “Caroline, em về nhà chưa?” Đó là một giọng nói cô mơ hồ nhận ra, nhưng không sao xác định rõ được. Mắt cô không rời vật cản phía trước trong lúc cô dừng lại và mở dây an toàn. “Vẫn chưa. Nhưng sao? Ai đấy?” “Nghe anh này. Cho dù em làm gì, em cũng đừng dừng xe lại. Cho dù có chuyện gì xảy ra, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng dừng xe lại.” Người đàn ông nói nhỏ và nhanh. “Về nhà. Về thẳng nhà. Em nghe anh nói không?” Vẻ hoảng hốt của giọng nói trong điện thoại tương ứng với tâm trạng lo lắng dần tăng của chính Caroline. Cô ngập ngừng. “Nhưng có một chiếc xe nằm ngang đường, và trông như có người bên trong. Có thể họ bị bệnh, hoặc họ vừa gặp tai nạn. Tại sao tôi không thể dừng lại? Có chuyện gì vậy?” “Cứ làm như lời anh đang bảo, Caroline. Đừng ra khỏi xe. Đạp chân xuống ngay và chạy qua chiếc xe đó, đừng có dừng lại vì bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì. Cứ làm đi.” Giọng nói khẩn trương, gấp gáp. Caroline cảm thấy nỗi sợ dâng lên trong cổ họng. Chuyện này là sao? Cô liếc nhìn gương chiếu hậu, và quyết định. Cô ném điện thoại di động lên ghế cạnh mình, nắm lấy vô lăng bằng cả hai tay. Chiếc xe nằm bẹp kia dài và thấp, choán hầu hết bề rộng mặt đường với hai bánh sau hơi hẫng khỏi mặt đất vì ca-pô chếch xuống rãnh. Không có nhiều chỗ để vòng qua phần thùng sau của chiếc xe, nhưng cô có thể làm được. Cô phải làm được. Cô đạp mạnh chân xuống sàn. Lốp xe trượt trên mặt đường lạnh lẽo, nhưng vẫn bám được, và cô đánh xe sang trái. Bánh xe bên trái cô leo lên bờ đường bên dưới hàng giậu và chiếc xe lượn một góc khá nguy hiểm. Cô xoay vô lăng trở lại bên phải và chiếc xe của cô nện mạnh xuống, hướng thẳng mé bên kia đường. Caroline lại đánh lái sang trái để chỉnh thẳng hướng, động cơ rồ lên khi cô tăng tốc. Đột nhiên cô cảm thấy mình bắt đầu trượt đi. Cô cuống cuồng xoáy vô lăng hết hướng này lại hướng khác, nhưng cho dù cô làm gì, chiếc xe vẫn chẳng nghe lời. Băng phủ mặt đường, và cô đang đi quá nhanh. Cô nhớ đã được dặn cách lái xe ở chế độ trượt, nhưng cách đó cũng không ổn. Trong đầu cô vụt lóe lến một cái tên. Cô đột nhiên nhận ra ai vừa gọi cho mình. Nhưng tại sao lại là anh ta? Cô gọi to tên anh ta, nhưng cô biết rằng lúc này anh ta chẳng thể làm được gì. Mắt cô bị hút về phía gương, về phía khoang sau tối om của chiếc xe, nơi tất cả những gì cô nhìn thấy là màu trắng trong đôi mắt mở to, hãi hùng của Natasha. Cô đạp mạnh chân phanh, nhưng chẳng ăn thua. Chiếc xe trượt nghiêng, va vào bờ đường lần nữa, chồm lên một góc và bật tung, lăn lông lốc, va mạnh qua hàng giậu và đâm sầm xuống rãnh, cơ thể gãy rời của Caroline văng đi rồi nằm yên nửa trong nửa ngoài ô cửa sổ để ngỏ. Viên cảnh sát lái xe dọc theo những ngõ phố hẹp, tận hưởng khoảnh khắc bình yên hiếm hoi trong thời khắc sắp đến Giáng sinh. Một người giấu tên gọi đến báo có một chiếc xe hơi văng khỏi đường ở đâu đó quanh đây, nhưng theo nhân viên điều phối, người gọi đến không cung cấp thêm được chi tiết nào nữa. Viên cảnh sát hy vọng vụ này chỉ là một gã đần nào đó phá xe vì bị cạn xăng hoặc trục trặc. Anh đã phải xử lý quá đủ đám say xỉn vào cái mùa tiệc tùng này rồi, và một chiếc xe xinh xắn bị bỏ lại sẽ lại khiến anh phải rời khỏi đường một lúc - thậm chí có khi đến hết ca trực luôn. Dần dần anh nhận ra rằng không thể tìm được sự lạc quan ấy của mình. Những ánh đèn khiến anh phải tin. Không ai vứt bỏ xe của mình mà đèn vẫn sáng cả, và đằng trước anh còn nhìn thấy một ngọn đèn trắng đứng yên, chiếu sáng quắc, soi tỏ những hàng cây trơ trụi bên đường. Lúc anh lại gần hơn, quầng ánh sáng chói chang từ cặp đèn pha khiến anh lóa mắt. Anh dùng mu bàn tay che bớt mắt, hết sức thận trọng tiến lại gần phòng trường hợp có người nằm trên đường mà anh không thể nhìn thấy. Anh tiến đến cách chiếc xe khoảng hai mươi mét và tắt động cơ. Ngay lập tức anh thấy rằng tình hình rất tệ. Chiếc xe bị lật ngửa, phần trước ghếch lên một bên bờ hẻm. Nhưng chính tiếng động mới khiến anh rùng mình sởn tóc gáy. Xen lẫn với tiếng nổ đều đều êm ả của động cơ xe đắt tiền vang lên trong không gian thôn dã tĩnh mịch xung quanh, chính là nhạc nền rất huyền ảo không lẫn đi đâu được của bài White Christmas của Bing Crosby. Tiếng nhạc thư thái tuôn vào không khí buổi đêm lạnh lẽo qua một ô cửa để ngỏ, nơi đầu của một người phụ nữ thò ra ở một góc rất khó tin khiến viên cảnh sát không cần đến gần chiếc xe cũng biết cô ấy đã chết. Anh chầm chậm tiến lại phía chiếc xe dựng ngược để tắt động cơ, và cả tiếng nhạc. Anh đã có thể hít thở trở lại. Giờ thì đây chỉ là một vụ tai nạn giao thông trên đường với duy nhất một chiếc xe gặp nạn, mặc dù rất thảm khốc. Anh với lấy bộ đàm. Trong lúc đợi nhân viên cấp cứu đến, biết rõ rằng họ chẳng thể làm gì hơn là xác nhận những gì anh đã biết, viên cảnh sát tiến hành chặn đường, gọi nhóm chuyên gia đến điều tra vụ tai nạn và đề nghị kiểm tra trên hệ thống máy tính cảnh sát toàn quốc về chiếc xe để xác định chủ sở hữu. Anh vớ lấy một chiếc đèn pin cực mạnh trong ngăn hành lý của mình và rọi quanh ngõ phố, rọi xuống hào, dọc theo bờ đường, cố tìm kiếm xem có ai từng tìm cách bò ra khỏi chiếc xe, có thể bị thương, hoặc thứ gì đó trên đường có thể là nguyên nhân khiến chiếc xe bị mất lái không. Chẳng có gì cả. Con đường trống trơn. Viên cảnh sát thấy nhẹ người khi không khí yên ắng bị phá vỡ bởi những tiếng còi rúc càng lúc càng gần, và chỉ vài phút sau xe cứu thương vụt đến, ánh đèn của xe làm hiện ra một người đi xe đạp một mình đang ngập ngừng tiến lại hiện trường. Người đàn ông nhảy xuống xe và đứng cách một quãng. Viên cảnh sát tiến lại phía anh ta. “Xin lỗi, thưa ông - ông cần lùi lại.” “Vâng, thưa ngài sĩ quan. Tôi chỉ đang trên đường về nhà thôi.” “Tôi hiểu, nhưng tôi không thể để ông đi qua đoạn đường này vào lúc này, thưa ông. Tôi tin chắc ông thông cảm chuyện đó.” “Có người bị thương à? Trông như xe của Caroline Joseph. Tôi nói có đúng không?” Người đi xe đạp hỏi. “Lúc này tôi chưa khẳng định được, thưa ông.” Người đàn ông ngó qua viên cảnh sát để nhìn chiếc xe rõ hơn. “Tôi nhìn thấy kia là cô ấy thì phải? Ôi lạy Chúa. Cô ấy chết rồi, phải không?” Anh ta nhìn viên cảnh sát, miệng há ra vì sốc. “David tội nghiệp. Đó là chồng cô ấy. Anh ấy sẽ suy sụp mất.” Viên cảnh sát không nói gì. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ người đàn ông cách hiện trường vụ tai nạn càng xa càng tốt cho tới khi lực lượng hỗ trợ đến, nhưng ngay cả từ khoảng cách này, vẫn nhìn thấy rất rõ phần đầu của người phụ nữ. “Không có Natasha đi cùng cô ấy sao?” Người đi xe đạp hỏi, giọng anh ta run lên. “Cô gái bé bỏng của cô ấy? Đứa bé đáng yêu nhất.” Viên cảnh sát lắc đầu, có phần nhẹ người. “Không, thưa ông. Ghế cho trẻ con có ở phía sau nhưng thật may là trống không. Không có ai khác ở trong xe.” Mời các bạn đón đọc Đứa Con Xa Lạ của tác giả Rachel Abbott.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mạng Sống Mong Manh - Tess Gerritsen
Tess Gerritsen (12/7/1953): là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới.    Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York.    Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity.    Tess Gerritsen sống tại Maine cùng chồng và hai con trai. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ: www.tessgerritsen.com *** Dao mổ là một vật đẹp. Bác sĩ Stanley Mackie trước giờ chưa nhận ra được điều đó, nhưng lúc ông đứng cúi đầu, bên dưới những ngọn đèn phòng mổ, ông chợt tự hỏi bằng cách nào ánh phản chiếu từ lưỡi dao giống như ánh sáng do những viên kim cương phát ra. Đó là một tác phẩm nghệ thuật, cái vật hình trăng lưỡi liềm sắc như dao cạo bằng thép không gỉ ấy. Thực vậy, nó đẹp đến nỗi ông chỉ hơi dám nhấc nó lên vì sợ, bằng cách nào đó, sẽ làm cho vật có đầy ma lực lôi cuốn ấy bị mờ xỉn đi. Trên bề mặt nó, những màu sắc cầu vồng, các thành phần tinh khiết tạo thành do sự khúc xạ ánh sáng. - Bác sĩ Mackie? Có chuyện gì sai không? Ông ta nhìn lên và thấy cô y tá, đang rửa tay, cau mày nhìn ông, phía trên chiếc khẩu trang phẫu thuật. Trước giờ ông chưa từng thấy hai mắt cô ấy xanh như thế. Hình như ông đang nhìn thấy, thực sự nhìn thấy quá nhiều việc lần đầu tiên. Màu kem nước da cô y tá. Sợi gân máu chạy dọc theo thái dương. Nốt ruồi ngay phía trên chân mày cô. Hay nó có phải là một nốt ruồi không? Ông nhìn chăm chú. Nó đang cử động, bò như một con sâu về phía cuối mắt cô… - Stan? – Bác sĩ Rudman, chuyên viên gây mê, đang gọi ông, giọng ông ta cắt ngang sự suy nghĩ điên khùng của bác sĩ Mackie. – Anh có ổn không? Mackie lắc đầu. Con côn trùng biến mất. Nó lại trở thành một chiếc nốt ruồi, một đốm nhỏ sắc tố đen trên làn da nhợt nhạt của cô y tá. Ông thở thật sâu vào và nhặt con dao mổ trên khay dụng cụ lên. Ông nhìn xuống người đàn bà nằm dài phía dưới. Chùm ánh sáng phía trên đầu đã được chiếu tập trung xuống vùng bụng dưới của bà ta. Những tấm đắp xanh phẫu thuật, được xếp vào vị trí, làm thành một vùng da trần hình chữ nhật. Đó là một chiếc bụng thon nhỏ dễ thương, có vết sạm nắng do chiếc quần tắm bikini để lại, nối liền hai bờ mông lại – một hình ảnh đáng ngạc nhiên ở giữa mùa bão tuyết này, với những hình ảnh nhợt nhạt mùa đông. Thật xấu hổ cho ông phải dùng dao cắt vào chỗ đó. Một vết sẹo do thủ thuật cắt bỏ ruột thừa để lại, chắc chắn sẽ làm hỏng bất cứ làn da rám nắng nào của vùng biển Caribe. Ông đặt mũi dao lên làn da, tập trung mũi cắt của ông vào điểm McBurney, giữa rốn và chỗ xương hông nhô ra. Vị trí gần đúng của ruột thừa. Với con dao mổ đang ở trong tư thế sẵn sàng để cắt, ông đột nhiên dừng lại. Hai bàn tay ông run lên. Ông không hiểu được điều đó. Việc ấy trước giờ chưa hề xảy ra. Stanley Mackie thường có hai bàn tay vững chắc như đá. Bây giờ ông cần phải nỗ lực thật nhiều để giữ chặt cán dao. Ông nuốt nước bọt và nhấc lưỡi dao lên khỏi làn da. Dễ mà. Hãy thở thật sâu vào vài lần. Việc này sẽ qua thôi. - Stan? Mackie nhìn lên và thấy Bác sĩ Rudman đang cau mày. Cả hai cô y tá cũng thế. Mackie có thể đọc được câu hỏi trong ánh mắt họ, như câu hỏi người ta đã thì thầm về ông mấy tuần nay. Liệu Bác sĩ Mackie già có còn đủ khả năng không? Ở vào cái tuổi bảy mươi tư, ông ta có còn được phép hành nghề bác sĩ phẫu thuật không? Ông không để ý đến cái nhìn của họ. Ông đã tự bảo vệ mình trước Ủy ban Bảo đảm Chất lượng, đã giải thích, trước sự hài lòng của họ, trường hợp cái chết của bệnh nhân vừa rồi của ông. Phẫu thuật, nói cho cùng, không phải là một việc làm không có rủi ro. Khi máu chảy ra quá nhiều trong bụng, rất dễ nhầm lẫn vùng đã được đánh dấu, để cắt một nhát cắt sai lầm. Ủy ban, với sự sáng suốt của họ, đã miễn trách nhiệm cho ông. Tuy vậy, sự nghi ngờ bắt đầu lan truyền trong đầu các nhân viên bệnh viện. Ông có thể nhìn thấy điều đó qua thái độ của các nhân viên y tá, qua sự cau mày của bác sĩ Rudman. Tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía ông. Đột nhiên, ông cũng cảm nhận được những ánh mắt khác, chúng đang nhìn chằm chằm vào ông, cả tá con mắt lơ lửng trong không khí, chúng thảy đều đang nhìn ông chằm chằm. Ông chớp mắt, và cái nhìn ghê rợn ấy biến mất. Mắt kính tôi, ông nghĩ, tôi sẽ đi kiểm tra mắt kính lại. Một giọt mồ hôi chảy dài trên má ông. Ông nắm chặt cán dao mổ lại. Đây không phải chỉ là việc mổ ruột thừa đơn giản, công việc mà một bác sĩ nội trú cấp thấp có thể thực hiện được. Chắc chắn ông sẽ làm được việc ấy, ngay cả với đôi bàn tay đang run rẩy. Ông tập trung nhìn vào vùng bụng của bệnh nhân, trên chiếc bụng với một vùng da sạm nắng. Jennifer Halsey, ba mươi sáu tuổi. Một du khách ở ngoài tiểu bang, sáng nay bà đã thức giấc trong quán trọ lữ hành Boston, thấy đau ở góc bụng dưới phía bên tay phải. Cơn đau càng lúc càng trở nên tệ hại, bà đã lái xe đi qua vùng bão tuyết tối tăm để đến phòng cấp cứu bệnh viện Wicklin, và đã được chuyển đến cho bác sĩ trực giải phẫu ngày hôm ấy: Mackie. Bà ta không hề biết gì đến những lời đồn đại về năng lực của ông, không biết gì về những lời nói dối và thì thầm đang từ từ phá hủy năng lực chuyên môn của ông. Bà ta chỉ là một phụ nữ đau đớn đang rất mong khối ruột thừa bị viêm của mình được cắt bỏ đi. Ông ấn lưỡi dao vào làn da của Jennifer. Hai bàn tay ông đã hết run. Ông có thể mổ được. Ông cắt một đường thật ngọt. Cô y tá phụ trách việc lau chùi, lấy bông thấm máu chảy ra, đưa cho ông cái kẹp cầm máu. Ông cắt xuống sâu hơn, qua lớp mỡ vàng dưới da, thỉnh thoảng nghỉ để đốt bỏ một vùng bị chảy máu quá nhiều. Không có vấn đề. Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp. Ông vào sâu hơn, để cắt bỏ khúc ruột thừa, và sau đó kéo nó ra. Rồi ông có thể về nhà nghỉ trưa. Có thể nghỉ ngơi một chút là những gì ông cần để cho đầu óc sáng suốt trở lại. Ông rạch dao qua màng bụng, vào vùng bên trong bụng. - Kẹp vào! – Ông nói. Cô y tá phụ tá đưa tay cầm cái banh miệng vết mổ bằng thép không gỉ và nhẹ nhàng kéo vết mổ ra. Mackie đi sâu vào trong vết cắt và cảm thấy được ruột, ấm và trơn, bò ngoằn ngoèo quanh bàn tay đeo găng của ông. Cảm giác thật là kỳ lạ, đặt tay vào bên trong cơ thể ấm nóng của một con người. Nó giống như được quay trở lại vào bên trong dạ con. Ông vạch trần khúc ruột thừa ra. Một cái liếc mắt vào lớp mô sưng đỏ cho biết ông đã chẩn đoán bệnh chính xác; cái khúc ruột thừa phải được đem ra ngoài. Ông với tay lấy con dao mổ. Chỉ lúc ông tập trung nhìn lại lần nữa vào cái vết cắt ông vừa thực hiện là có một cái gì đó không chính xác. Có quá nhiều khúc ruột trong vùng bụng, gấp hai lần số chúng cần phải có. Quá nhiều hơn số bà bệnh nhân cần có. Không thể như thế được. Ông kéo mạnh một cuộn ruột nhỏ, cảm thấy nó bị tuột đi, ấm và trơn trượt, qua cặp tay đeo găng của ông. Dùng con dao mổ, ông cắt bỏ cuộn ruột dư thừa ấy đi và đặt cái vòng ướt sũng ấy lên khay. Đấy, ông nghĩ. Như thế sẽ gọn hơn. Cô y tá phụ tá nhìn ông chằm chằm, hai mắt cô ta trợn to lên trên chiếc khẩu trang phẫu thuật. - Bác sĩ đang làm gì thế? – Cô ta la lên. - Quá nhiều ruột. – Ông ta bình thản đáp. – Không thể như thế được. – Ông lại đặt tay vào bên trong bụng và nắm thêm một cuộn ruột nữa. Không cần phải có quá nhiều đoạn ruột dư thừa như thế. Nó chỉ che khuất tầm nhìn của ông ta. - Bác sĩ Mackie, không! Ông ta cắt bỏ. Máu nóng phun ra có vòi từ cái cuộn ruột xấu xa đó. Cô y tá nắm lấy bàn tay đeo găng của ông lại. Ông hất tay cô ra, giận điên lên vì một y tá xoàng dám ngăn hành động của ông lại. - Tìm cho tôi một nhân viên y tá phụ tá khác. – Ông ta ra lệnh. – Tôi cần cái ống hút máu. Phải dọn sạch lớp máu này đi. - Dừng tay ông ta lại! Giúp tôi dừng tay ông ta lại. Dùng tay còn lại, Mackie với tay lấy cái ống hút máu và nhấn đầu nó vào trong vùng bụng. Máu chảy ùng ục trong cái ống và đổ vào bên trong thùng chứa. Một bàn tay khác nắm áo choàng và lôi ông ta ra khỏi bàn mổ. Đó là bác sĩ Rudman. Mackie cố vùng vẫy để thoát ra, nhưng Rudman không thể để cho ông ta đi. - Đặt con dao mổ xuống, Stan. - Bà ta cần phải được dọn sạch. Có quá nhiều ruột trong ấy. - Đặt dao xuống! Vùng vẫy để thoát ra, Mackie lách người để đối diện với Rudman. Ông ta đã quên là ông vẫn còn nắm trong tay con dao mổ. Con dao rạch ngang qua cổ người đàn ông kia. Rudman hét lên và đưa tay lên bịt lấy cổ họng lại. Mackie lùi ra sau và nhìn chằm chằm vào máu đang ứa ra giữa những ngón tay của Rudman. - Đó không phải là lỗi của tôi. – Ông ta nói. – Đó không phải là lỗi của tôi! Một cô y tá la lên vào máy nội đàm: - Cho bảo vệ đến ngay! Ông ta đang nổi điên lên trong này! Chúng tôi cần bảo vệ CHUYÊN NGHIỆP! Mackie trượt chân trên vũng máu lầy lội ngã ra sau. Máu của Rudman? Máu của Jennifer Halsey? Máu chảy thành vũng. Ông quay lại và chạy ra khỏi phòng. Họ đang đuổi theo ông. Tại sao không có gì có vẻ quen thuộc cả? Rồi, thẳng ở phía trước, ông nhìn thấy khung cửa sổ; và phía sau nó, tuyết đang rơi xoáy tròn. Tuyết. Cái dải buộc trắng lạnh ấy sẽ lọc ông sạch lại, sẽ tẩy sạch những vết máu trên bàn tay ông. Phía sau ông, tiếng bước chân chạy rầm rập đến gần. Ai đó la lên: - Đứng lại! Mackie chạy tiếp vài ba bước và nhảy qua khung cửa sổ. Kính vỡ toang ra thành vô số hạt giống như kim cương. Và gió lạnh thổi ngang qua người ông và mọi thứ đều trở nên trắng xóa, một màu trắng pha lê. Và ông ngã xuống. Mời các bạn đón đọc Mạng Sống Mong Manh của tác giả Tess Gerritsen.
Trần Trụi Với Văn Chương - Paul Auster
Giới phê bình phương Tây gọi New York Trilogy là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “giả tưởng phản trinh thám”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”, “một hỗn hợp của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”. Tất cả những cái đó khiến Paul Auster được liệt vào hàng văn sĩ hậu hiện đại. Tuy nhiên, khác với những văn phẩm hậu hiện đại điển hình vốn mang nặng phẩm chất “giả tưởng siêu hình” cùng các “yếu tố phản kháng”, New York Trilogy vẫn nhất quán trong lối kể chuyện, có cách nhìn tân hiện thực, và bộc lộ nỗi ưu tư đầy trách nhiệm của tác giả đối với những vấn đề xã hội và đạo đức. Có thể nói New York Trilogy là một dạng đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại, vẫn dùng đến những yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nhưng lại sáng tạo được một hình thức mới kết nối các đặc tính của thể loại này với các phẩm chất thử nghiệm, siêu hình và châm biếm mỉa mai của văn phong hậu hiện đại. Đó là ý kiến của giới phê bình Âu - Mỹ mà tôi chắt lọc từ nhiều nguồn khác nhau để bạn đọc biết New York Trilogy đã được đánh giá như thế nào, chứ còn ngay từ năm 1987, khi mới chân ướt chân ráo đến New York và đọc ấn bản đầu tiên của nó, tôi đã thấy nó rất hay, mà đã biết tí gì về văn chương hậu hiện đại đâu. Nhưng nói New York Trilogy hay như thế nào với bạn đọc ở đây thì thành chủ quan. Mà tóm tắt cốt truyện thì lại vô duyên, vì làm thế thì có khác gì mời bạn đi xem phim trinh thám rồi dọc đường đến rạp lại bô bô kể luôn ai bị giết ai bị bắt ai bị oan với những màn bất ngờ như thế nào mà cho đến giờ mình vẫn còn hồi hộp. Cho nên tôi chỉ xin phép nói mấy chuyện sau đây: Vừa rồi tôi có đọc cuốn Đường Kách mệnh , in trong tập 1 của bộ Văn kiện Đảng toàn tập ra năm 2005, và thực sự kinh ngạc và khâm phục ngôn ngữ sáng rõ của nó. Vấn đề gì cũng được nói đến một cách giản dị, sáng sủa, không thể ngờ vực gì được, như thể từ ngữ chính là linh hồn của cái mà chúng nói đến. Thế rồi tôi nghĩ đến hệ thống văn bản hiện nay, cái nào cũng cần hàng loạt những tài liệu hướng dẫn, những văn bản dưới luật, mà vẫn khó tìm thấy những tương đương của các câu chữ nọ trong thực tế. Và tôi tự hỏi: Ấy là vấn đề ngôn ngữ hay là vấn đề con người? Tại sao ngôn ngữ ngày càng mất tính chân xác và trở thành rối rắm như hiện nay? Làm thế nào để lại có thể ăn nói rõ ràng sáng sủa như trong Đường Kách mệnh ? Chuyện đi tìm lại thứ ngôn ngữ chân xác này của con người này, lạ lùng thay, lại là một chủ đề cốt lõi của New York Trilogy. Dạo hè vừa rồi tôi có dịch cuốn Tham vọng Bá quyền , bàn về tình hình thế giới sau sự kiện 11/9 – tức là sau khi tòa tháp đôi vĩ đại ở New York bị khủng bố phá sập. Hôm nọ lại đọc tin bên Dubai đang xây dựng một tòa tháp lớn nhất thế giới cao đến gần một cây số, bèn liên tưởng đến tòa tháp Babel huyền thoại, rồi ngẫm đến lịch sử loài người, rồi bỗng nhận ra rằng cái hệ lụy bi thảm trong ngôn ngữ và văn chương của tham vọng loài người cũng lại là một chủ đề của New York Trilogy. Tháng trước thì đọc thấy trên mạng một loạt những bài viết và ý kiến nhân hội nghị lí luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Đồ Sơn. Hình như ai cũng cố đề cập đến công việc và nội tâm của những người sống bằng ngôn ngữ và nghề viết. Lúc ấy tôi đang dịch đến đúng đoạn giai thoại về cái bô đầy cứt trong phòng ngủ của nhà thơ Mỹ vĩ đại Walt Whitman và bộ óc của ông bị đánh rơi tung tóe xuống sàn phòng thí nghiệm (sau khi ông chết), rồi nhận xét của một nhân vật về hình thức tương tự giữa cái bô cứt và bộ óc của con người phi thường ấy. Nhân vật ấy kết luận rằng: “Chúng ta luôn nói đến chuyện cố thâm nhập vào bên trong một nhà văn để hiểu rõ hơn công việc của ông ta. Nhưng khi vào thẳng trong đó rồi thì lại chẳng thấy gì nhiều – nghĩa là nội tạng ai thì cũng vậy thôi, chẳng khác nhau là mấy”. Than ôi, đúng là chẳng khác nhau là mấy về hình thức, nhưng cái thế giới nội tâm của người sinh ra để viết văn vẫn cứ là một bí hiểm khôn lường. Và lạ lùng thay, hình như cái bí hiểm khôn lường ấy mới là chủ đề xuyên suốt của tập trinh thám siêu hình hậu hiện đại này. Thế rồi tôi chợt nhận ra rằng cả ba cái chủ đề trong New York Trilogy thực ra chỉ là triển khai của một ý niệm cơ bản duy nhất, ấy là tấn kịch bi tráng của giấc mộng và sự nghiệp văn chương khi người cầm bút phải loại bỏ mọi giả hình để trực giao trần trụi với bản thân và thế giới trên con đường đi tìm ngôn ngữ đích thực để diễn ngôn sự thật. Cái giá phải trả cho văn chương thật là ghê gớm! Lạ thay, đúng lúc ấy thì tôi nhận được email của biên tập, nói liệu có nên dịch cái đầu đề New York Trilogy là Bộ ba truyện New York hay không? Có thể đại đa số bạn đọc Việt Nam sẽ hiểu Bộ ba truyện New York là ba câu chuyện gì đó về thành phố hoặc tiểu bang New York ở bên Mỹ. Mà hiểu nhầm như vậy thì rất thiệt cho độc giả. Sau khi thảo luận tới 9 phương án khác nhau, chúng tôi mới quyết định đặt tên cho bản dịch tiếng Việt này của New York Trilogy là TRẦN TRỤI VỚI VĂN CHƯƠNG. Chúng tôi tin rằng đây là tên gọi gần gụi nhất với tấn kịch bi tráng mà Paul Auster đã mô tả rất lạ lùng trong ba câu chuyện hoàn toàn độc lập mà lại quan hệ chặt chẽ với nhau này. Để câu chuyện đậm đặc các vấn nạn hiện sinh của mình được chân xác, Paul Auster, cũng như các nhân vật của ông, đã viện đến nhiều giai thoại lịch sử về những số phận khác nhau, và cách viết này, cộng với cấu trúc nhiều nguồn của các câu chuyện, đã khiến cho Trần trụi với văn chương trở thành một văn phẩm mà người đọc cảm thấy không biết ai thực sự là tác giả. Chính Paul Auster cũng xuất hiện trong truyện, với tên thật của mình, tên vợ tên con thật của mình (Siri là vợ hiện nay của ông, và hai người con là Daniel và Sophie). Nhân vật xưng tôi trong Căn phòng khóa kín thì lại xưng là tác giả của cả Thành phố thủy tinh lẫn Những bóng ma ; và còn nói rằng cả ba truyện trong tập này thực ra chỉ là một câu chuyện, diễn biến theo ba giai đoạn. Bạn cứ đọc đi đã rồi sẽ tự tìm ra được câu chuyện ấy. Phải chăng đó cũng là một đặc tính của văn chương hậu hiện đại: Đặc tính interactive – tương tác : Người đọc phải tham gia và tự tìm thấy câu chuyện cùng nghĩa lí của nó. Trần trụi với văn chương là một văn bản mở. Với một văn bản như thế này, bạn đọc nên coi mình cũng là tác giả, và nếu tác giả đã viết nó ý tứ và thận trọng như thế nào thì ta cũng nên đọc nó ý tứ và thận trọng như vậy, rồi sẽ ngộ được cái khoái cảm đặc biệt mà loại văn chương này mang lại. Để giúp bạn đọc thưởng thức tối đa cái khoái cảm đã hứa hẹn ấy, tôi có dùng một số giải pháp dịch thuật theo lí thuyết Skopos – đặt mục tiêu phục vụ người đọc lên hàng đầu – để vừa chuyển tải được hết ý vừa giữ được liền mạch văn của tác giả cũng như mạch đọc của độc giả; đồng thời cũng cố gắng chú thích hết những chi tiết mà tôi cho là bạn đọc có thể chưa biết, mà lại rất nên biết để thưởng thức câu chuyện đặc biệt này. Thành phố New York là nơi tôi đã trải qua những chuyện lạ lùng nhất trong đời mình. Có lẽ vì vậy mà từ lâu tôi đã muốn dịch New York Trilogy . Tôi xin có lời cảm ơn Công Ty Văn Hóa Phương Nam đã tin rằng công việc có động cơ cá nhân này sẽ giúp bạn đọc mở thêm một cửa sổ nhỏ nữa vào thế giới kì thú của văn chương Mỹ đương đại. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Carol Mann và Paul Auster đã không ngại trả lời nhiều câu hỏi của tôi trong khi dịch cuốn sách này. Bây giờ thì mời bạn đọc hãy bước vào thế giới của Paul Auster như một thám tử văn chương, rồi thể nào bạn cũng phát hiện ra những điều kì thú.   Trịnh Lữ Hà Nội, cuối Thu 2006. Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Với Văn Chương của tác giả Paul Auster.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 4: Vòng Đua Nước Pháp - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** Tuyệt vời! Antonin Aubanel - tức Baba - một cuarơ có nhiều thành công, đã được tham gia vòng đua xe đạp quanh nước Pháp. Nhưng sự xuất hiện đột ngột của cuarơ mới này không được nhiều người hài lòng, những hành động, thái độ xấu xa luôn bám theo anh suốt chặng đường đua. May mắn thay, những người bạn đồng hành đã để mắt tới anh... *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Cái tên Antonin Aubanel đoạt chức á quân cuộc đua xe đạp Milan - San Remo làm chấn động thủ lãnh Tidou. Coi, buổi trưa hôm ấy tan học xong là hắn cầm tờ nhật trình nóng hổi chạy như bay về cư xá Chữ Thập Hung. Còn phải hỏi, Antonin Aubanel chỉ chịu thua quán quân Rodolfi người Ý trong gang tấc ở chặng nước rút, chuyện động trời ấy mà không tri hô lên cho mọi người biết thì quả là chẳng đáng mặt... đồng hương của á quân chút nào. Hắn chạy một lèo lên tầng năm. Vừa thoáng thấy bà mẹ đứng nơi ngưỡng cửa, Tidou la làng: - Mẹ ơi, mẹ còn nhớ anh Antonin Aubanel không? - Biết. Thằng Aubanel cùng quê Reillanette với nhà mình, hồi nhỏ hay nói ngọng phải không? Mẹ còn nhớ nó cứ bập bẹ cái tên Aubanel thành... Aubaba ấy. Nó là anh ruột thằng Frederic bạn con chớ gì? - Đúng rồi, hồi con mới tập đi anh ấy chuyên môn cõng con lên cổ làm kiệu. - Mẹ vẫn nhớ “Aubaba” là trưởng nam ông chủ lò bánh mì ngon nhất trong làng. Do tật cà lăm của cu cậu nên ai cũng gọi nó là... Baba thay cho cái tên Antonin Aubanel. Tidou đắc chí hỏi lại: - Mẹ chỉ biết có vậy thôi sao? Bà mẹ cười tủm tỉm: - Mẹ còn biết hơn nhiều ấy chứ. Sáng nay mẹ và ba con vừa thấy ảnh của nó đăng trong mục Thể Thao báo Tiến Bộ. Người ta đã đưa Baba lên tít chín tầng mây. Thế là bí mật của Tidou đã bị... bật mí trước người lớn. Hắn tiu nghỉu đưa tờ báo mới mua cho mẹ. - Con mới mua tờ Thời Đại có hình cuarơ Antonin Aubanel mình mẩy đầy bùn đất đang tu một chai nước khoáng có dán nhãn quảng cáo tiếp thị đây. Con đọc cho mẹ nghe nhé. - Ồ, đọc di nào. Tidou rổn rảng: - “Nước Pháp đang có một siêu vô địch sau cuộc tranh tài Milan - San Remo. Có lẽ không ai có thể ngờ được vùng nắng ấm quanh năm Reillanette lại sản sinh ra một ngôi sao cho làng xe đạp Pháp. Cách đây sáu tháng, chàng trai Antonin Aubanel chưa hề được ai biết đến bỗng trở thành đề tài cho các trang báo thể thao sau cuộc đua Milan - San Remo. Antonin Aubanel mới 20 tuổi, đã bứt lên ở 40 cây số cuối cùng, thoát khỏi sự đeo bám của hơn 50 cuarơ có hạng là một kỳ tích không phải ai cũng làm được. Tidou thở mạnh. - Cuối bài báo, người ta cho rằng anh Baba sẽ là một siêu sao trong tương lai. Mẹ nghĩ sao? - Mẹ cũng nghĩ như họ. Báo chí thường làm nhiệm vụ tiên tri mà. ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói - Paul Jacques Bonzon
  Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Thấm thoát Tidou đã hơn 14 tuổi. Thời gian trôi tựa tên bay, mới ngày nào Thủ lãnh nhóm Sáu người còn chân ướt chân ráo làm quen với cái nóng điên người của mùa hè và run cầm cập trước mùa đông băng giá ở Lyon thì bây giờ thời tiết ở quê hương mới đã trở nên người bạn đồng hành của hắn trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm tuyệt vời. Hắn lên lớp 9 cùng lúc với sự trưởng thành của năm chiến hữu. Giáo viên chủ nhiệm của lớp 9 hiện thời là cô Lecoeq, một người phụ nữ đứng tuổi, những kỷ niệm học đường với ông thầy râu quai nón coi như đã lùi xa. * Tidou thức giấc trong cảm giác lành lạnh của tiết Nôen. Chăn màn hình như cũng biết thế nào là trời rét, chúng cuộn tròn quanh thân hình hắn để tìm hơi ấm loài người. Trời ạ, lạnh kiểu này thì cho dù Kafi có là sói thần chắc cũng chết cóng mất. Không biết cái đệm có đủ ấm cho nó không? Vừa mở mắt ra, hắn lập tức chiếu tướng quanh quất. Ê, sao tự nhiên Kafi không ngủ trong phòng. Tidou hoảng hồn bật dậy thò đầu xuống gầm giường. Thật kỳ cục, con cẩu từng nổi tiếng ngáy như sấm cũng chẳng thấy nằm đó. Cơn ác mộng ngày nào làm tóc gáy hắn dựng đứng: Kafi lại mất tích nữa chăng ? Hắn bồn chồn gọi: - Kafi, Kafi... Chỉ có luồng gió mang theo cái giá lạnh cuối năm thốc qua cánh cửa khép hờ trả lời hắn. Quỷ tha ma bắt thiệt, Tidou không một giây do dự nhảy phóc xuống giường, bước ra hành lang tối om. - Chẳng lẽ con chó lại nổi máu săn chuột ư? ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói của tác giả Paul Jacques Bonzon.