Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi (Hồ Anh Thái)

Đôi dòng về tiều thuyết Đức Phật nàng Savitri và tôi của Nhà văn Hồ Anh Thái

Diễn tả cái vô minh bằng tiểu thuyết - HT. Thích Chơn Thiện

Tôi thực sự ngạc nhiên khi đọc Đức Phật, nàng Savitri, và tôi (đọc kỹ hơn một lần). Tập sách là một tiểu thuyết rõ ràng, mà sao nghe như lời ký sự hành hương xứ Phật? Nghe như ghi chép của một chuyến điền dã, hay một luận văn Tiến sĩ Phật học viết nghiêm túc về đề tài: Đức Phật, một nhân vật lịch sử, một nhà đại văn hóa, hiền triết của thời đại? Và cũng nghe như là một Đối chiếu học giữa Phật giáo với 62 học thuyết đương thời của xã hội Ấn? Tôi không có gì để góp ý vào tập truyện, chỉ ghi lại đây một ít ấn tượng mà tập truyện đã đánh thức dậy trong tôi những ý tưởng thú vị.

Truyện chép:..."sương mù như thế này thì không gì cứu được. Chính lúc ấy là một cảm giác vô minh. Cái tăm tối mù lòa ngu dốt. Cả thế gian cùng lúc chìm đắm trong vô minh. Rõ ràng ta không mê muội, không ngủ mơ. Rõ ràng ta đang tỉnh táo. Nhưng cái tỉnh táo trong chốn mù lòa dốt nát cũng vô tác dụng. Tỉnh như thế cũng không thấy được đường ra". (chương 1: Tôi; Tr.12)

Tác giả diễn tả rất tuyệt vời về cảm nhận vô minh. Mọi người của các vùng văn hóa thì không thấy đường. Chỉ có nàng Savitri, chứng nhân của Giáo hội Phật giáo thời Đức Phật, là thấy rõ. Kinh Phạm Võng (Brahmajàla - suttam) thuộc Dìghanikàya, Theravada (và kinh Phạm Động tương đương thuộc Agama, Sarvatisvada) ghi rõ 62 học thuyết của ấn Độ đương thời đều chìm trong chấp thủ thấy biết (knowledges) và cảm thọ (feelings: inner and outer feelings) nên không thể đi vào được Trí tuệ Toàn giác (Perfect Wisdom) giải thoát tận gốc khổ đau. Chỉ có Đức Phật Gotama rời khỏi chấp thủ và trở thành bậc Toàn giác, đấng Giác ngộ. Các học giả Phật học danh tiếng cận đại và hiện đại thì diễn đạt sự khác biệt ấy bằng công thức: Tìm mua: Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi TiKi Lazada Shopee

Phật giáo = Non-I doctrine (Anattavada)

Các tôn giáo và triết thuyết khác = I doctrine (Attavada)

Nhà văn Hồ Anh Thái thì biểu tượng hóa dòng văn hóa của I doctrine (văn hóa hữu ngã) bị che phủ bởi lớp sương mù sền sệt ở biên giới Ấn - Népal, và tự thân đã chứng nghiệm cái giới hạn của vùng văn hóa ấy qua đoạn văn vừa trích dẫn trên.

Các chương truyện tiếp theo là phần tác giả giới thiệu điểm xuyết (được chọn lọc) các nét văn hóa tiêu biểu của ấn giáo, Bà La Môn giáo với sự rọi sáng của trí tuệ như thật (trí tuệ Toàn giác): văn hóa ấn cổ thì chìm đắm vào lạc thú trần gian qua Kàmasutra (kinh về các tư thế hành lạc, bậc thầy của đương đại); văn hóa Phật giáo thì chế ngự lòng khát ái (ham muốn dục lạc, ham muốn hiện hữu, ham muốn vô hữu: dục ái, hữu ái, vô hữu ái) trong bài pháp đầu tiên Đức Phật khai đạo ở Lộc Uyển (Migadaya, Varanàsi). Đây là Đối chiếu học. Sự kiện này khiến ta nhớ đến các vần thơ bất hủ của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều:

" Đã mang lấy một chữ tình

Khư khư mình buộc lấy mình vào trong

Vậy nên những chốn thong dong ở không yên ổn, ngồi không vững vàng".

Lúc Kiều đoàn viên, rời khỏi đoạn trường, thì:

"Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời "

Chỉ có thứ sương ở biên giới Ấn - Népal của nhà văn Hồ Anh Thái mới bóc được cảm xúc của đại thi hào như ở trên.

Về sự kiện trọng đại Giác Ngộ của Đức Phật, Hồ Anh Thái đã thoát ra khỏi hình thức kinh viện, giới thiệu bằng ngôn ngữ văn học tiểu thuyết rằng:

Thế là chàng đã phát hiện ra rằng toàn bộ cuộc sống có quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ hạt bụi nhỏ nhất đến vì sao lớn nhất đều có mối liên quan. Tất cả đều không ngừng thay đổi: phát triển, tan rã, rồi lại phát triển. Chẳng điều gì không có nguyên nhân của nó, nhân nào thì quả ấy.

Rồi chàng nhìn thấy hết thảy khổ đau nơi trần thế. Chàng đã hiểu vì sao mọi chúng sinh từ loài côn trùng nhỏ cho tới một vị hoàng đế, đều theo đuổi lạc thú, để rồi kết thúc nơi bất hạnh...

Sau rốt, chàng tìm thấy con đường chấm dứt mọi đau khổ. Nếu như con người thấy cái tự ngã của mình và của mọi hiện hữu là rỗng không, không có chủ hữu, không có sở hữu; thì trong đầu óc họ không còn chỗ cho lòng tham, hận thù, ghen ghét, đố kỵ... Người ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ, bất hạnh. Trái tim chỉ còn chứa đầy lòng yêu thương. Chính lòng từ bi này sẽ đem đến bình yên và hạnh phúc..." (Ibid, tr. 178)

Cái nhìn trí tuệ ấy đầy cả từ ái được kiết tập trong nhiều bản kinh Phật (Texts), trong đó có bản kinh nói về vị Tỷ kheo (đắc quả A la hán) Angulimàla mà Hồ Anh Thái đã diễn đạt qua hình tượng tiểu thuyết câu chuyện có thực rằng:

"Một buổi Phật đi cùng Ahimsaka (tức Angulimàla) đi qua một khuôn viên vắng người. Thốt nhiên có tiếng rên gần đó. Thì ra có một thiếu phụ bụng mang dạ chửa trên đường về nhà được mẹ dìu tới đây thì trở dạ. Bà mẹ nhìn thấy thiếu phụ đẻ khó đang nằm quằn quại đau đớn thì chỉ còn biết nhờ hai vị khất sĩ cầu nguyện giúp cho. Phật quay sang bảo Ahimsaka:

- Con hãy nói rằng từ khi sinh ra tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông.

- Trời ơi, vậy thì nàng nguy mất, vì như vậy là con nói dối.

Đức Phật mỉm cười ý nhị:

- Vậy thì ta sẽ đổi lại một chút. Con hãy nói từ khi sinh ra trong chính pháp lương thiện tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông.

Ahimsaka vốn trước có học nghề y ở Viện Đại học. Vừa khấn theo lời Phật dạy, khất sĩ vừa giúp cho người đàn bà vượt cạn. Đứa trẻ ra đời, cả mẹ cả con đều bình yên vô sự..." (Ibid, tr. 361)

Hình ảnh Đức Phật ở đây xuất hiện thật dung dị và gần gũi với con người. Đạo Phật là thế. Giản dị mà siêu thế. Trọn đời tôi vẫn mãi cung kính chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Phật đi chân không, trú mưa qua đêm trong một căn lều lá bên vệ đường, độ ngọ nơi căn bếp nhỏ của một gia chủ mù lòa, hay rêm mình giữa thời pháp (đang giảng đạo)... Hình ảnh ấy làm cho trần thế trở thành lung linh.

Không phải mọi thứ đều toàn vẹn trong giáo hội của Ngài, theo quy luật bất toàn của xã hội, tác giả Hồ Anh Thái vì thế đã ghi lại sự kiện Devadatta, người em họ của Ngài, đòi thay Phật lãnh đạo Giáo hội, đã âm mưu cùng thái tử Ajatasattu để hại Phật và tiếm vị. Sự việc không thành đã làm tỏa sáng thêm nét thánh thiện của Phật giáo. Tương phản hẳn với Đức Phật, vị lễ sư quốc sư Bà La Môn thì dối gạt cả đến lòng tin của tín hữu, đã được ngòi bút hài hước, châm biếm sâu sắc của tác giả vạch trần, một sự vạch trần không chỉ dừng lại ở phẩm hạnh của lễ sư, mà còn đi xa hơn nữa đến một số tập quán tín ngưỡng cần được thời đại nhân văn soát xét lại. Tác giả đã khéo đưa các tập quán đó đến quanh đời sống của nàng Savitri, một nhân vật để lại ấn tượng khó quên. Không thể nào quên được các lễ vật rất đắt giá nạp cho lễ sư để chuộc lỗi của Savitri, những sự việc không thành lỗi. Không thể nào quên được hủ tục trà tì (thiêu sống người vợ trẻ đi theo chồng trên giàn hỏa thiêu) phi nhân văn. Không thể nào quên được tục tôn thờ và dâng lễ lo lót cho thần độc hại Mangal. Càng không thể nào quên niềm tin sâu sắc của văn hóa Ấn, bao gồm cả giáo lý nhà Phật, vào quy luật Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi như là cơ sở hướng dẫn con người sống thiện lương. Savitri vừa là Kumarì (thánh nữ đồng trinh), vừa là hướng dẫn viên cho du khách, vừa là hậu thân của công chúa Savitri thời Đức Phật (tái sinh vào cuối thế kỷ XX) với các chú thuật giúp nhớ về quá khứ của tự thân, và nhất thời đọc được ý nghĩ người đối diện. Tất cả đó là sắc thái đặc thù của văn hóa Ấn với nét huyền bí được tóm kĩ vào trong sáu chiếc túi xách nhẹ của nàng đi theo nàng suốt cuộc hành trình. Trên hết, tất cả đã được tác giả sử dụng như chỉ để làm nổi bật tuệ đức, tâm đức và hạnh đức ngời sáng của Đức Phật vì hạnh phúc của nhân thế trong hiện tại và mai sau.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật, Nàng Savitri Và Tôi PDF của tác giả Hồ Anh Thái nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

ĐỊA NGỤC CỰC LẠC
Ngày xưa, trong một ngôi chùa nhỏ, có một chú tiểu tên là Chơn Quán Ngày xưa, trong một ngôi chùa nhỏ, có một chú tiểu tên là Chơn QuánChú có tài vẽ tranh rất đẹp. Tranh vẽ hình đức phật của chú được mọi người tấm tắc khen là vẽ rất giống. Phật tử đến chùa ai cũng muốn thỉnh tranh của chú về nhà treo. Điều đó làm chi chú Chơn Quán rất hoan hỉ và càng say vẽ tranh đức Phật. Thế nhưng có một điều làm cho chú băn khoăn... Chú có tài vẽ tranh rất đẹp. Tranh vẽ hình đức phật của chú được mọi người tấm tắc khen là vẽ rất giống. Phật tử đến chùa ai cũng muốn thỉnh tranh của chú về nhà treo. Điều đó làm chi chú Chơn Quán rất hoan hỉ và càng say vẽ tranh đức Phật. Thế nhưng có một điều làm cho chú băn khoăn...
Thần Tiên trích lục - (Phụ bản Cửu Thiên Thập Nhị Kinh)
Thần Tiên trích lục - (Phụ bản Cử Thiên Thập Nhị Kinh) Đã bao nhiêu lần chúng ta tự hỏi mình là ai và từ đâu xuất hiện? Sống hết một đời, rời bỏ thân mạng sẽ đi đâu về đâu? Mất đi rồi, ta có còn tự chủ thế này không...Hay ta lạc lõng giữa mông lung vô niệm?Những câu hỏi ngỡ quá xa vời cuộc sống thường nhật, bất ngờ lại là những vấn đề gần gũi nhất. Nếu không giải đáp được, có lẽ ta thực sự vẫn chưa hiểu về chính mình, e sẽ chỉ mãi là một mảnh bèo nước, chơi vơi giữa lượng sóng trần, chẳng tìm được bến đỗ. Những câu hỏi kia nay được giãi bày nôm na, súc tích trong vài khổ thơ thất ngôn tuyệt diệu của “Cửu Thiên Thập Nhị Kinh”. Bộ kinh gồm 12 bài thơ mộc mạc dễ hiểu, được các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dành tặng, kể về chuyến hành trình mỗi kẻ tìm về nguồn cội của mình, nơi xuất sinh ra vạn linh vạn loại khắp trong Vũ Trụ.Đọc “Cửu Thiên Thập Nhị Kinh” bản chất là tạo lập một lối thông đạo. Con đường này dẫn chư linh vùng thoát trần hoàn, vẹt ngút tầng mây, tiến nhập thẳng về quê xưa chốn cũ Cực Lạc Quốc, nơi cao xa trong Đất Trời.Bởi lẽ theo luật xưa, vạn loại đều phải tự mình trải qua muôn kiếp tuần hoàn sinh-tử, phát triển linh hồn mới quay về được nơi mình xuất sinh này. Nhưng, hiện thế đã khác,Pháp nay đổi dời, lối về đã mở, hầu dẫn người Hiền cận kề với Tạo Hoá. Thực là một dịp gọi mời chư linh khắp nơi quy hồi về với Nguyên Linh, bất kể nghiệp tiền khiên còn đang nặng nợ vậy. Đấng Tạo Đoan quả nhớ nhung con mình xiết đỗi, chỉ mong con cái Người quay về được sau muôn vàn năm lạc đường mờ mệt.Bộ Kinh là một món quà quý. Tuy dễ dàng và ngọt ngon nhưng cũng cần điều kiện. Tuy không phải luân hồi thêm muôn kiếp, nhưng người truy cầu cũng phải biết sửasoạn lòng mình, tranh tay hành thiện, và trọng yếu là giữ giới chay tịnh.Việc buông bỏ nghiệp sát chỉ thuần tuý có lợi cho chính mình, để không nhiễm thêm oán khí từ sát mạng trả vay.Có như thế, các Đấng Thiêng Liêng mới đủ khả năng dìu dắt kẻ thiện tín vậy.Thế thì, xin mau tay sửa mình khi còn đang tại thế. Nếu để lỡ dịp, vẫn chưa bắt đầu, e là đáng tiếc lắm thay!Đường về đã hiện, kẻ hữu duyên phải tự mình bước tới.Ngày nay, để chung tay dẫn bước Hiền nhân trở về Cực Lạc, cuốn Thần Tiên Trích Lục được biên soạn và minh hoạ từng nhân vật được nhắc đến trong bộ “Cửu Thiên Thập Nhị Kinh”, hầu làm sáng tỏ thêm ý vị của bộ kinh quý này vậy.Mong kẻ hữu duyên nhìn rõ lối về, dạn chân bước tới trên con đường thoát tục tìm nhàn, trở về quê xưa Cực Lạc.Soạn quyển sách này, nguyện cùng Chư Vị một tay, níu con người rời biển trần mà bước lên thuyền từ Bát Nhã, cũng là đỡ chân cho hạc cũ về tòng vậy.“Chư linh có biết Tạo Hoá đang ngóng trông con cái Người trở về lắm chăng...”
TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ - THUẬT TU TIÊN CỦA ĐẠO GIA
Ta từ lúc trẻ đã mộ đạo, và đã biết rằng trong nước có bộ TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ. Nghe biết từ lâu, nhưng không biết nội dung sách đó ra sao. Ta từ lúc trẻ đã mộ đạo, và đã biết rằng trong nước có bộ TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ. Nghe biết từ lâu, nhưng không biết nội dung sách đó ra sao.Mãi đến cuối mùa Xuân năm Canh Tuất (1670), mới được hai anh Dư Nhàn và Nhược Tế trao tặng cho quyển sách này. Lúc rảnh đem ra đọc mới nghi là các cao đệ của Doãn Chân Nhân đã viết. Nếu chẳng vậy làm sao biết được xuất xứ của sách.  Mãi đến cuối mùa Xuân năm Canh Tuất (1670), mới được hai anh Dư Nhàn và Nhược Tế trao tặng cho quyển sách này. Lúc rảnh đem ra đọc mới nghi là các cao đệ của Doãn Chân Nhân đã viết. Nếu chẳng vậy làm sao biết được xuất xứ của sách.  Trước đây, người ta thường lấy hai tập Trung Hoà và Kim Đơn để luận về cách tu luyện của các bậc Chân Tiên. Còn các sách bàn về Huyền Tông thì tuy chất đầy nhà, nhưng chưa thấy có quyển nào hay bằng quyển Tính Mệnh Khuê Chỉ. Nó chỉ cho ta thứ tự của công phu tu luyện, cùng tinh nghĩa diệu lýù, sáng tỏ như ánh mặt trời. Những gì tối tăm, khó hiểu của Đơn Đạo đều được giảng giải, phơi bày ra trước mắt. Sách này cùng với sách Long Hổ, Chu Dịch Tham Đồng Khế, Ngộ Chân Thiên cũng giống nhau. Thật đáng quí.Học giả nếu quán thông được Tính Mệnh Khuê Chỉ sẽ có thể Siêu Phàm Nhập Thánh, trở thành Thiên Nhân Sư, có thể từ Sắc Thân mà chứng Pháp Thân, từ Sanh Sanh mà đạt Vô Sanh.  Tuy nhiên, biết được mà tu thì là Thánh Nhân, biết mà không tu thì là Phàm Nhân. Đó là dụng ý của hai huynh Dư Nhàn và Nhược Tế. Học giả nếu quán thông được Tính Mệnh Khuê Chỉ sẽ có thể Siêu Phàm Nhập Thánh, trở thành Thiên Nhân Sư, có thể từ Sắc Thân mà chứng Pháp Thân, từ Sanh Sanh mà đạt Vô Sanh. Tuy nhiên, biết được mà tu thì là Thánh Nhân, biết mà không tu thì là Phàm Nhân. Đó là dụng ý của hai huynh Dư Nhàn và Nhược Tế.Hai huynh ngày đêm lo lắng, quyết đem áo diệu, chân đế của sách, in ra cho thiên hạ biết. Sách này bao gồm hết yếu lý trong thiên hạ. Mong sách này sẽ diệt trừ được bàng môn tả đạo. Hai huynh nhờ tôi đề tựa sách này. Nên tôi viết ít lời để đáp ứng lại. Hai huynh ngày đêm lo lắng, quyết đem áo diệu, chân đế của sách, in ra cho thiên hạ biết. Sách này bao gồm hết yếu lý trong thiên hạ.Mong sách này sẽ diệt trừ được bàng môn tả đạo. Hai huynh nhờ tôi đề tựa sách này. Nên tôi viết ít lời để đáp ứng lại.Tháng 3, Khang Hi năm thứ 9 (1670), nơi am Thượng Chương, Tử Trung Lý đề tựa. Tháng 3, Khang Hi năm thứ 9 (1670), nơi am Thượng Chương, Tử Trung Lý đề tựa.TỰA THỨ 2 TỰA THỨ 2Tính Mệnh Khuê Chỉ không có tác giả. Tương truyền là của Doãn Chân Nhân cao đệ. Xưa nay rất là hiếm thấy. Tính Mệnh Khuê Chỉ không có tác giả. Tương truyền là của Doãn Chân Nhân cao đệ. Xưa nay rất là hiếm thấy.Ân Duy Nhất có được một bản giữ đã mấy năm. Tào Nhược Tế thấy sách này, yêu thích không lìa tay, đem cho Châu Dư Nhàn xem, thảy đều hân hoan, thưởng thức. Sách này được in khắc ra là do công lao của Tiền Vũ Chấn. Khi đã in xong, nhờ ta đề tựa. Với ta trình độ hiểu Đạo chưa đến nơi, đến chốn, làm sao dám đề lời. Tuy nhiên ta cũng có điều muốn nói. Ân Duy Nhất có được một bản giữ đã mấy năm. Tào Nhược Tế thấy sách này, yêu thích không lìa tay, đem cho Châu Dư Nhàn xem, thảy đều hân hoan, thưởng thức. Sách này được in khắc ra là do công lao của Tiền Vũ Chấn. Khi đã in xong, nhờ ta đề tựa. Với ta trình độ hiểu Đạo chưa đến nơi, đến chốn, làm sao dám đề lời. Tuy nhiên ta cũng có điều muốn nói.Xưa nay, Nho Thích, Đạo ở thế chân vạc, đối lập lẫn nhau, công kích lẫn nhau, chỉ duy sách này là đề cao diệu Lý của Đạo gia, lại còn đem tinh ngôn, áo nghĩa của Nho, của Phật, nói rõ gót đầu, lấy Trung Hòa, Hỗn Nhất mà đem dung thông, hòa hợp, chỉ rõ lýù: Tận tính, chí mệnh. Chỉ rõ chỗ Đồng qui nhi thù đồ của Tam Giáo. Lấy 5000 chữ Đạo Đức Kinh giải Đại đạo, rất là tinh mật, lại lấy Chu Dịch (Nho), lấy Tứ Thập Nhị Chương Kinh (Phật) mà giải, tất cả đều quán thông diệu lýù, như là xỏ chuỗi ngọc châu. Xưa nay, Nho Thích, Đạo ở thế chân vạc, đối lập lẫn nhau, công kích lẫn nhau, chỉ duy sách này là đề cao diệu Lý của Đạo gia, lại còn đem tinh ngôn, áo nghĩa của Nho, của Phật, nói rõ gót đầu, lấy Trung Hòa, Hỗn Nhất mà đem dung thông, hòa hợp, chỉ rõ lýù: Tận tính, chí mệnh. Chỉ rõ chỗ Đồng qui nhi thù đồ của Tam Giáo. Lấy 5000 chữ Đạo Đức Kinh giải Đại đạo, rất là tinh mật, lại lấy Chu Dịch (Nho), lấy Tứ Thập Nhị Chương Kinh (Phật) mà giải, tất cả đều quán thông diệu lýù, như là xỏ chuỗi ngọc châu.Xét về Đạo Giáo, nay có 96 thứ ngoại đạo, có 3600 bàng môn. Kẻ thích tiền thì bàn về thuật Luyện Kim, người ham sắc thì nói về bí quyết phòng the. Thật là tục tằn bỉ ổi, khó nói nên lời. Họ bàn về phép Đạo Dẫn (Dẫn Khí trong người) như: Hùng Kinh (gấu leo cây), Điểu thân (Chim xoè cánh) để dẫn khí, điều tức, hoặc Rồng ngâm, Cọp rống. Tất cả chỉ nói chuyện xác thân, hình tướng mà không biết gì về tu luyện bản thể. Xét về Đạo Giáo, nay có 96 thứ ngoại đạo, có 3600 bàng môn. Kẻ thích tiền thì bàn về thuật Luyện Kim, người ham sắc thì nói về bí quyết phòng the. Thật là tục tằn bỉ ổi, khó nói nên lời. Họ bàn về phép Đạo Dẫn (Dẫn Khí trong người) như: Hùng Kinh (gấu leo cây), Điểu thân (Chim xoè cánh) để dẫn khí, điều tức, hoặc Rồng ngâm, Cọp rống. Tất cả chỉ nói chuyện xác thân, hình tướng mà không biết gì về tu luyện bản thể.Gần đây có vị phương sĩ dạy người Phục Khí, niệm quyết để khai thông Đốc Mạch trong khoảnh khắc, thoạt cười, thoạt khóc, tứ chi múa máy, dao động, trông rất dễ sợ, như kẻ điên cuồng, thế mà họ khoe khoang là Thần Thuật. Thật đáng thương thay. Gần đây có vị phương sĩ dạy người Phục Khí, niệm quyết để khai thông Đốc Mạch trong khoảnh khắc, thoạt cười, thoạt khóc, tứ chi múa máy, dao động, trông rất dễ sợ, như kẻ điên cuồng, thế mà họ khoe khoang là Thần Thuật. Thật đáng thương thay.Sách này muốn quét sạch mọi điều phiền tạp, chủ yếu là dạy: Chí Hư Thủ Tĩnh, Hấp Thụ Tiên Thiên. Chỗ cao nhất là bàn về Chân Ý. Sách này muốn quét sạch mọi điều phiền tạp, chủ yếu là dạy: Chí Hư Thủ Tĩnh, Hấp Thụ Tiên Thiên. Chỗ cao nhất là bàn về Chân Ý.Trong con người CHÂN Ý là CHÂN THỔ. Động cực thì Tĩnh. Ý mà Tĩnh thuộc Chân Âm. Gọi là KỶ THỔ. Trong con người CHÂN Ý là CHÂN THỔ. Động cực thì Tĩnh. Ý mà Tĩnh thuộc Chân Âm. Gọi là KỶ THỔ.Tĩnh cực thời động. Ý mà động thuộc Chân Dương. Gọi là MẬU THỔ. Tĩnh cực thời động. Ý mà động thuộc Chân Dương. Gọi là MẬU THỔ.Luyện KỶ THỔ (chỉ Nguyên Thần) thì sẽ được khí Hống trong quẻ LY. Luyện MẬU THỔ (chỉ Nguyên Khí) sẽ được khí Diên trong quẻ KHẢM. Luyện KỶ THỔ (chỉ Nguyên Thần) thì sẽ được khí Hống trong quẻ LY. Luyện MẬU THỔ (chỉ Nguyên Khí) sẽ được khí Diên trong quẻ KHẢM.Diên Hống qui tụ Đan Điền thì Kim Đơn kết. Khi đó con người sẽ được trường sinh. Diên Hống qui tụ Đan Điền thì Kim Đơn kết. Khi đó con người sẽ được trường sinh.MẬU KỶ như vậy gồm hai chữ Thổ. Do đó đặt tên sách là Khuê Chỉ. Chữ Khuê 圭  gồm hai chữ THỔ 土. MẬU KỶ như vậy gồm hai chữ Thổ. Do đó đặt tên sách là Khuê Chỉ. Chữ Khuê 圭  gồm hai chữ THỔ 土.Sách này ý nghĩa thâm sâu. Sánh với Huỳnh Đình Kinh như là hai mặt trong ngoài. Sách này ý nghĩa thâm sâu. Sánh với Huỳnh Đình Kinh như là hai mặt trong ngoài.Chu Tử đã tu sửa sách này và làm sáng tỏ nghĩa lý ra, công lao thật là lớn lao. Ân, Tào hai vị đều tinh thông y thuật dưỡng sinh. Còn ta chỉ là kẻ nhiều lời. Trang Tử nói: “Kẻ biết Đạo thì không nói, kẻ nói thì không biết Đạo.” (Tri đạo giả bất ngôn, ngôn giả bất tri Đạo). Chu Tử đã tu sửa sách này và làm sáng tỏ nghĩa lý ra, công lao thật là lớn lao. Ân, Tào hai vị đều tinh thông y thuật dưỡng sinh. Còn ta chỉ là kẻ nhiều lời. Trang Tử nói: “Kẻ biết Đạo thì không nói, kẻ nói thì không biết Đạo.” (Tri đạo giả bất ngôn, ngôn giả bất tri Đạo).Tháng Đầu mùa Hạ, Khang Hi bát niên, năm Kỷ Dậu (1669) nơi nhà họ Ngô, Vưu Đồng cẩn tự. Tháng Đầu mùa Hạ, Khang Hi bát niên, năm Kỷ Dậu (1669) nơi nhà họ Ngô, Vưu Đồng cẩn tự.Tags:FacebookTwitterMới hơnCũ hơnĐăng bởi:☯ Dân tộc KING hoạt động với tiêu chí phi tôn giáo, phi lợi nhuận, phi chính trị. Mục đích của dantocking.com là cung cấp thông tin quý giá từ các bậc tiền nhân, để hậu thế có thể dễ dàng tìm đọc. Không có mục đích nào khác!
Sách Coi Số Tướng Mạng Mộc Bốc Yêu Pháp Lập Thành Quyển 1
Một bộ sách thâu lượm những phép coi số, coi bói, coi tướng, đoán mộng lập-thành lại trong các sách thuật số của Tàu đã kinh-nghiệm thuở nay mà dịch-thuật ra, khiến cho ai là người biết chữ quốc ngữ cũng cứ theo phép mà coi lấy một minh đặng, sẽ thấy linh-nghiệm, chẳng cần phải mướn ai. Một bộ sách thâu lượm những phép coi số, coi bói, coi tướng, đoán mộng lập-thành lại trong các sách thuật số của Tàu đã kinh-nghiệm thuở nay mà dịch-thuật ra, khiến cho ai là người biết chữ quốc ngữ cũng cứ theo phép mà coi lấy một minh đặng, sẽ thấy linh-nghiệm, chẳng cần phải mướn ai.Dịch giả: Huyền Mặc Đạo Nhân