Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Ra Trận - Rafael Sabatini

Đây là cuốn "Love-At-Arms" (1907) của Rafael Sabatini. Cuốn này cũng được NXB Phụ Nữ / Nhã Nam phát hành với tên "Này chiến trận, này cuồng si" (dịch giả: Lê Đình Chi). Toàn bộ câu chuyện xảy ra vào thời Giáo hoàng Alexander VI (tức Roderigo Borgia, khoảng 1492 - 1503), một thời kỳ phát triển rực rỡ về văn học nghệ thuật của Italia, nhưng đây cũng là một thời kỳ loạn lạc nhiễu nhương khi Italia bị chia năm xẻ bảy liên tục rơi vào những cuộc nội chiến không dứt để tranh dành quyền bá chủ giữa các quốc gia nhỏ. Nổi bật lên trong những cuộc chiến không ngừng ấy là mưu toan thống nhất Italia không thành của gia đình Borgia - chủ yếu là Giáo hoàng và con trai, Cesare Borgia. Roderigo Borgia nổi tiếng là nhân vật ăn chơi phong lưu nhất Italy thời ấy với ít nhất 3 người con trai và 2 người con gái được chính thức thừa nhận, kết quả của vô số cuộc tình. Cesare Borgia mới 20 tuổi đã được phong Hồng y, để rồi sau đó cũng bỏ áo chùng sang một bên để trở thành công tước Valentinois, nỗi kinh hoàng của cả Italia. Tất cả bắt đầu bằng việc Gian Maria Sforza, công tước Babbiano, cầu hôn cháu gái công tước Urbino để tìm kiếm liên minh chống lại mối đe doạ từ Cesare Borgia. Mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, thế nhưng rắc rối bắt đầu khi cô dâu, không cam chịu biến mình thành vật hi sinh cho một liên minh chính trị, liều lĩnh bỏ trốn chỉ vài ngày trước khi hôn lễ được cử hành... Khi bị ép vào cuộc hôn nhân chính trị, nàng - một công nương yêu kiều, mơ mộng, vốn xa lạ với những đua tranh ngoài bức tường thành - bỗng liều lĩnh chống lệnh vua, đem quân cố thủ trong lâu đài, những muốn bảo vệ danh dự của mình. Khi trái tim mách bảo, chàng - một bá tước đam mê phiêu lưu, không màng quyền bính - đã sát cánh cùng nàng, dưới danh nghĩa kẻ đánh thuê hèn mọn, không màng hiểm nguy, âm thầm bảo vệ người trong mộng. Tình yêu và âm mưu, hận thù và đố kỵ, tất cả tưởng như đã rõ ràng khi chiếc cầu dưới cổng thành Roccaleone uy nghi hạ xuống... *** Rafael Sabatini (1875 - 1950) là nhà văn chuyên viết truyện thám hiểm - lãng mạn và thu được nhiều thành công lớn. Ông đã nhận được giải Book Prize. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông  là: Chim ó biển (1915), Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (1922)... Ông xuất hiện trên bầu trời văn học cùng thời với rất nhiều tên tuổi rực sáng khác như A. Dumas, W. Scott, và là một trong những tác giả được mến mộ nhất thời ấy, với dòng tiểu thuyết hiệp sĩ, lãng mạn. Một số tác phẩm nổi tiếng của Rafael Sabatini: - Này chiến trận, này cuồng si - Chim ó biển (The sea hawk, 1915), - Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (Captain Blood, 1922); - Scaramouche (1921); - Bellarion the Fortunate (1926)...  *** Từ dưới thung lũng, tiếng chuông Angelus khẽ vẳng lại theo làn gió đêm. Trong ngôi lều của người chăn dê trên đồi có một nhóm sáu người, đầu trần, khẽ cúi xuống tuân theo tiếng chuông báo giờ cầu nguyện tối. Từ trên mái nhà bụi bặm dòng xuống một ngọn đèn bằng đồng ba bấc vừa cháy leo lét vừa bốc khói mờ mịt, toả ánh sáng tù mù cùng mùi khói khét nồng ra khắp căn lều tối tăm. Tuy vậy căn lều vẫn đủ sáng để có thể thấy cả toán người đều ăn vận với vẻ phong lưu quyền quý hoàn toàn tương phản với khung cảnh nghèo nàn xung quanh. Hồi chuông cuối cùng chìm dần trong tiếng gió thổi rì rào đều đều qua sườn đồi, cả sáu người cùng thành kính làm dấu thánh, từ tốn đội mũ rồi nhìn nhau với vẻ dò hỏi. Nhưng trước khi có người nói ra lời điều đang làm tất cả bận tâm, chợt có tiếng gõ nhẹ lên cánh cửa lều mối mọt. « Cuối cùng cũng tới rồi », ông lão Fabrizio da Lodi khẽ kêu lên nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, trong khi một người trẻ tuổi cao dong dỏng, ăn mặc bảnh bao sải bước về phía cửa và mở rộng cửa theo ánh mắt ra lệnh của Fabrizio. Bước qua ngưỡng cửa là một người đàn ông cao lớn, đội một chiếc mũ rộng vành không có ngù lông, chiếc áo choàng phủ kín người được chàng cởi ra khi bước vào để lộ bộ đồ xoàng xĩnh chàng đang mặc. Một chiếc áo da thắt chặt ở ngang hông bởi một chiếc thắt lưng kết bằng mạng sắt, bên trái đeo một thanh kiếm dài, trong khi từ sau hông phải của chàng lấp ló cán của một con dao găm. Chiếc quần bó màu đỏ được bỏ vào trong ống đôi ủng bằng da không thuộc, đôi ủng dài đến quá gối bó sát ống chân hoàn tất ở chàng vẻ ngoài thường thấy của một người lính đánh thuê đang lúc hết việc làm. Bất chấp vẻ ngoài của chàng, cả sáu người quý tộc có mặt trong khung cảnh lạ lùng này đều cung kính bỏ mũ ra một lần nữa, và đứng yên với vẻ chờ đợi chăm chú. Chàng dừng lại một chút để bỏ hẳn chiếc áo choàng, người trẻ tuổi đã mở cửa cho chàng vội vã bước tới giúp một cách thành thạo đến độ có thể tưởng nhầm anh ta được sinh ra để sắm vai hầu phòng. Sau đó chàng bỏ mũ, để lộ khuôn mặt trẻ trung đẹp trai, vừa quý phái vừa khoẻ khoắn tràn đầy sức sống và mái tóc dày đen nhánh được giữ trong một chiếc mạng đan bằng chỉ vàng - vật duy nhất cho biết chàng có địa vị cao sang hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Chàng nhanh nhẹn bước về phía toán người đang đứng cạnh chiếc bàn cục mịch trơn nhẫy, đôi mắt đen lướt nhanh qua tất cả những khuôn mặt đang đối diện với chàng. « Thưa các ngài, tôi có mặt. » Sau cùng chàng lên tiếng, « Con ngựa của tôi bị què cách Sant’ Angelo nửa dặm và tôi đã buộc phải đi bộ đoạn đường còn lại. » « Đức ông chắc đang mệt lắm », Fabrizio lên tiếng, với vẻ quan tâm săn đón luôn được dành cho những người có địa vị, « Hãy uống một cốc vang Puglia, thưa đức ông. Fanfulla, lại đây », ông gọi anh chàng quý tộc trẻ đã đóng vai hầu phòng. Nhưng người mới tới đã khoát tay cản lại. « Chuyện đó để sau. Thời giờ lúc này quý hơn các ngài tưởng đấy. Rất có thể, thưa các ngài, nếu không bị buộc phải đi bộ tới đây tôi đã chẳng bao giờ tới nơi được. » « Tại sao ? », một người bật hỏi, bộc lộ sự băn khoăn vừa nảy ra trong đầu đám quý tộc, thậm chí không ai dấu được vẻ lo lắng trên khuôn mặt. « Chẳng lẽ chúng ta bị phản bội ? » « Nếu các ngài đang trong tình thế phải đề phòng sự phản bội, thì có thể đúng là vậy, các bạn thân mến. Trong lúc tôi vừa đi khỏi chiếc cầu bắc qua Metauro và lần theo lối đi từ cầu lên, tôi nhìn thấy một đốm sáng nhỏ nhấp nháy đằng sau mấy bụi cây ven đường. Đốm sáng đó là ánh mặt trời phản chiếu trên mũ sắt của một gã đang rình rập đằng sau bụi cây. Tôi đi lại gần hơn theo con đường, mũ kéo thấp xuống vừa đủ để che bớt mặt mà vẫn không cản trở tầm nhìn. Đến khi đi ngang qua chỗ gã do thám đang ẩn nấp giữa đám lá đáng lẽ đã giấu kín tung tích gã nếu gã không bị ánh mặt trời phản chiếu trên mũ làm lộ, tôi chợt nhận ra khuôn mặt quỷ quyệt của Masuccio Torri. » Cả đám thính giả của chàng ồ lên, vẻ lo lắng càng lộ rõ, một vài người thậm chí tái mặt. « Hắn rình mò ai mới được chứ? Tôi tự hỏi, và câu trả lời là hắn đang đợi tôi. Nếu tôi đoán không sai, hắn còn biết rõ quãng đường tôi phải đi, và không hề nghĩ đến chuyện tôi lại đi bộ, cũng như việc tôi có thể tới đây dưới bộ cánh như thế này. Vậy là, nhờ sự tình cờ cũng như chiếc mũ và chiếc áo choàng mà tôi đã dùng che kín người, hắn đã để tôi đi qua không đoái hoài gì. » « Trước Đức Mẹ Đồng Trinh ! », Fabrizio kêu lên nóng nảy, « tôi xin thề là đức ông đã lầm. Ngoài sáu chúng tôi chẳng ai khác trên toàn đất Italy biết ngài tới đây. Và tôi có thể thề trên cây thánh giá rằng không ai trong chúng tôi đã hé môi để lộ ra ngoài. » Ông quay sang nhìn những người còn lại như muốn tìm kiếm sự đồng tình. Không hề chần chừ, tất cả đều lập tức xác nhận lời thề của ông quý tộc già với những lời thề không kém thiêng liêng cho tới khi người mới đến phải giơ tay ra dấu cần sự yên lặng để chấm dứt tràng thề thốt. « Cả tôi cũng không hé ra với ai, » chàng trấn an, « vì tôi tôn trọng ngài, Fabrizio. Thế nhưng … tại sao Masuccio lại nấp né như kẻ trộm trong bụi cây bên đường như thế ? », chàng tiếp tục, với một giọng hơi khác,« Thưa các ngài, tôi không biết các ngài hẹn tôi đến đây làm gì, nhưng nếu các ngài có ý mưu phản thì hãy dè chừng ! Công tước đã biết về âm mưu của các ngài, hoặc chí ít cũng nghi ngờ. Nếu tên do thám đó không phải được cử đi theo dõi tôi, thì không nghi ngờ gì nữa, gã có nhiệm vụ theo dõi và bẩm lại cho Công tước chủ của hắn tên những người có mặt tại đây. » Fabrizio nhún vai tỏ vẻ dửng dưng coi thường, một thái độ được Ferrabraccio đứng bên cạnh chia sẻ. « Cứ để ông ta biết », ông này dè bỉu với một nụ cười hằn học, « Ông ta sẽ biết khi đã quá muộn. » Người mới đến hơi ngả đầu ra sau, đôi mắt đen của chàng sáng lên nửa băn khoăn, nửa vỡ lẽ. Chàng thở dài. « Vậy là tôi đã đoán đúng », chàng nói lạnh lùng, «các ngài quả nhiên đang có ý phản nghịch. » « Thưa ngài Bá tước Aquilla », Fabrizio trả lời chàng, « chúng tôi phản bội một người để tận trung phục vụ một đất nước. » « Nước nào vậy ? » Bá tước Aquilla vặn lại khinh miệt. « Công quốc Babbiano. » « Các ngài phản bội Công tước để trung thành với công quốc ? », chàng hỏi, giọng càng có vẻ khinh bỉ. « Thưa các ngài, tôi thấy khó mà tiêu hoá được lý lẽ của các ngài. » Đám người dự mưu lặng lẽ trao đổi với nhau bằng những cái nhìn bàng hoàng. Họ đã không hề trông chờ một thái độ như vậy từ phía chàng bá tước, và nhìn nhau tự hỏi liệu có nên đi xa hơn không. Cuối cùng, khẽ thở dài, Fabrizio quay về phía Aquilla. « Thưa ngài bá tước », ông bắt đầu vói giọng nghiêm trang bình thản, « Tôi là một người già cả ; tên tuổi của tôi cũng như của gia đình tôi chưa hề có chút tỳ vết. Ngài không thể cho tôi là một kẻ tệ hại đến mức đã ngần này tuổi đầu còn cam tâm nhúng tay vào những chuyện có thể làm hoen ố bản thân hay danh dự gia đình. Làm một tên phản nghịch, thưa ngài, là một tội lỗi xấu xa. Hơn ai hết, không ai trong chúng tôi đáng bị kết án nặng nề như thế. Xin ngài hãy làm ơn lắng nghe tôi nói hết ; và sau khi đã biết tất cả, hãy phán xét chúng tôi. Không, chúng tôi trông đợi ở ngài nhiều hơn phán xét, thưa ngài bá tước. Chúng tôi mong ngài hãy dẫn dắt chúng tôi cứu quê hương chúng ta khỏi mối hoạ huỷ diệt đang đe doạ. Chúng tôi xin hứa sẽ không manh động khi chưa được ngài chấp thuận- sẽ chỉ làm theo sự chỉ huy của ngài. » Francesco del Falco, bá tước Aquilla, nhìn người quý tộc già, vẻ khinh miệt không còn nữa, thay vào đó là cái nhìn suy tư pha lẫn vẻ ngạc nhiên. Chàng khẽ gật đầu như để chấp nhận lời thỉnh cầu. « Xin ngài cứ nói, », chàng trả lời. Fabrizio vừa định nói tiếp thì vẫn lại là quý ngài Ferrabraccio chen ngang vào yêu cầu Aquilla thề trên danh dự hiệp sĩ sẽ không phản bội họ trong trường hợp chàng từ chối đề nghị của những người dự mưu. Sau khi chàng thề và mỗi người đều đã xoay xở tìm được cho mình một chỗ ngồi tàm tạm trong căn lều cũ nát, Fabrizio tiếp tục vai trò phát ngôn viên cho cả toán quý tộc dự mưu và tiết lộ lý do khiến ông mời bá tước đến dự cuộc hẹn của họ. Bằng vài câu ngắn gọn, ông tóm lược tính cách của Gian Maria Sforza, công tước tại vị của Babbiano, người đã được ông bác hùng mạnh Lodovico Sforza, công tước Milan, đặt lên ngai. Ông phàn nàn về sự xa hoa quá độ, về những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng và thói quen chểnh mảng chính sự của đức ông công tước, cũng như sự bê trễ của ngài trong việc hoàn thành những trách nhiệm mà cương vị cao quý của ngài đòi hỏi. Tất cả được Fabrizio nhắc đến bằng thái độ chừng mực và tế nhị, một sự thận trọng hoàn toàn không thừa vì Francesco del Falco là em họ công tước. « Đến lúc này, thưa ngài bá tước », ông tiếp tục, » ngài không thể không biết sự bất bình với công tước anh họ ngài đang lan rộng trong dân chúng. Năm ngoái đã xảy ra vụ mưu phản của Bacolino suýt nữa đã khiến chúng ta rơi vào tay Florence. Vụ bạo động bất thành, nhưng một cuộc nổi loạn tiếp theo rất có thể sẽ không thất bại. Sự mất lòng dân ngày càng trầm trọng của công tước có thể khiến nhiều người hơn hưởng ứng một khi bạo loạn lại nổ ra, và chúng ta sẽ không còn là một quốc gia độc lập nữa. Sự tồn vong của nước nhà đang bị đe doạ. Không chỉ bởi nội loạn, mà cả ngoại xâm nữa. Kẻ xâm lăng đó chính là Cesare Borgia. Quyền lực ghê gớm của hắn lan nhanh như dịch bệnh trên toàn cõi Italy mà hắn đang ngoạm dần từng mảng chẳng khác gì người ta nhâm nhi một chùm nho, hết quả này đến quả khác. Đôi mắt tham lam của hắn đã bắt đầu nhòm ngó chúng ta. Và chúng ta, hoàn toàn chưa chuẩn bị sẵn sàng, có gì trong tay để đương đầu với sức mạnh áp đảo của công tước Valentinois ? Tất cả ngài công tước của chúng ta đều biết, vì chúng tôi đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần với đức ngài, cũng như chúng tôi đã chỉ ra cho công tước lối thoát. Thế nhưng xem ra với mối nguy hiểm đang đe doạ mình, ngài công tước cũng phớt lờ như ngài đã luôn dửng dưng với sự cứu rỗi của bản thân. Công tước dành toàn bộ tâm trí cho tiệc tùng, khiêu vũ, săn bắn và đủ trò tiêu khiển phóng túng khác, và nếu chúng tôi có đánh bạo ngỏ lời can ngăn thì nguyền rủa và đe doạ là câu trả lời duy nhất chúng tôi nhận được. » Da Lodi ngừng lại, dường như nhận ra ông bắt đầu không kiềm chế nổi sự phẫn nộ trong lời nói. Nhưng các chiến hữu của ông một cách vô thức, tiếp tục lầm rầm khẳng định một cách phẫn nộ ngay cả khi nhà quý tộc già đã ngừng lời. Francesco nhíu mày thở dài. « Hỡi ôi, tôi cũng hoàn toàn ý thức được mối nguy hiểm các ngài nói tới. Nhưng… các ngài muốn trông đợi gì ở tôi ? Tại sao lại kể với tôi nỗi lo của các ngài ? Tôi không phải là chính khách. » « Chúng ta không cần đến chính khách ở đây. Babbiano cần một người lính ; một người có thể tổ chức một đội quân để chống lại cuộc xâm lược sắp tới…hay đúng hơn đã bắt đầu. Tóm lại, thưa ngài bá tước, chúng tôi cần một người lính như ngài. Trên toàn cõi Italy, còn có ai, cho dù là phụ nữ, trẻ con, là không biết đến danh tiếng của bá tước Aquilla ? Những kỳ công anh hùng của ngài trong cuộc chiến giữa Pisa và Florence, những chiến thắng oanh liệt và tài thao lược của ngài dưới màu cờ của Venice, tất cả đã trở thành đề tài cho những bản anh hùng ca. » « Ngài Fabrizio ! » Francesco kêu khẽ, tìm cách hãm lại tràng ca tụng nhiệt tình của người đối thoại, gò má rám nắng của chàng hơi đỏ lên. Nhưng Da Lodi vẫn tiếp tục không để ý : « Và ngài, bá tước, một người đã thể hiện mình can đảm như thế khi làm tư lệnh lính đánh thuê cho nước ngoài, chẳng lẽ lại là người chần chừ khi đem tài thao lược và sự can trường của bản thân ra chống lại kẻ thù của chính quê hương mình ? Không bao giờ. Chúng tôi biết tâm hồn yêu nước của Francesco del Falco, và hy vọng vào điều đó. » « Và các ngài đã không lầm », chàng trả lời chắc nịch, « Khi cần thiết các ngài sẽ thấy tôi luôn sẵn sàng. Nhưng cho đến lúc đó, về tất cả sự chuẩn bị cần thiết … tại sao các ngài không nói với công tước như đã nói với tôi ? » Một nụ cười buồn khẽ thoảng qua khuôn mặt cao quý của da Lodi, trong khi Ferrabraccio, vẫn với vẻ bộc trực đến lỗ mãng, bật cười mỉa mai rồi trả lời : « Liệu chúng tôi có thể nói với ông ta », ông đáp, « về thao lược, về lòng can đảm, về trận mạc được không ? Làm thế thì cũng ngược đời như đi nhắc nhở Roderigo Borgia làm tròn bổn phận của đấng chăn chiên, cũng vô ích như đi phun nước hoa lên một đống phân vậy. Những gì nói được với Gian Maria chúng tôi đã nói cả, và cho dù năn nỉ khuyên nhủ với ông ta cũng vô ích hệt như với ngài, chúng tôi cũng đã chỉ ra cho ông ta một cách khác để cứu nguy Babbiano và tránh cuộc tấn công của Cesare Borgia. » « A ! Và cách đó là gì ? » chàng bá tước hỏi lại, cái nhìn hướng về Fabrizio. « Một cuộc hôn nhân với gia đình công tước Urbino, » Lodi trả lời, « Guiđobaldo có hai cô cháu gái. Chúng tôi đã đánh tiếng với ông ta, và ông ta cũng sẵn sàng chấp nhận cuộc hôn nhân mà chúng tôi đề nghị. Trở thành thông gia với gia đình Montefeltro, chúng ta sẽ không chỉ nhận được sự giúp đỡ từ Guidobaldo, mà cả từ Bologna, Perugia, Camerio, cũng như một số nước nhỏ khác hiện đã là liên minh với Urbino. Như thế chúng ta có thể đối đầu với Cesare Borgia bằng một liên minh đủ mạnh để khiến y không bao giờ dám đặt chân lên lãnh thổ của chúng ta. » « Tôi cũng đã nghe nói về chuyện này, » Francesco nói, « nếu thành công đó sẽ là một bước đi khôn ngoan. Đáng tiếc là cuộc thương lượng đã không đi đến đâu. » « Thế nhưng tại sao nó lại không đi đến đâu ? Quỷ tha ma bắt, tại sao ? », Ferrabraccio nóng nảy gầm lên, nắm tay hộ pháp đấm mạnh xuống chiếc bàn như muốn đập vụn nó ra từng mảnh, « Tại vì Gian Maria không có hứng lấy vợ ! Cô bé chúng tôi làm mối cho ông ta xinh xắn như một nàng tiên vậy, ấy thế mà ngay cả đi xem mặt ông ta cũng không màng. Bởi vì ở Babbiano có một cô ả … » « Thưa ngài bá tước, » Fabrizio vội vàng cắt ngang, sợ rằng ông bạn sẽ đi quá xa, « mọi chuyện đúng như Ferrabraccio đã nói. Đức ông công tước không muốn cưới vợ. Và chính chuyện này đã khiến chúng tôi quyết định hẹn gặp ngài ở đây tối nay. Công tước sẽ chẳng làm gì để cứu công quốc, và chúng tôi chỉ còn biết trông cậy vào ngài. Dân chúng đứng về phía chúng tôi ; trên đường phố Babbiano mọi người nói công khai rằng ngài là công tước mà họ muốn để trị vì và bảo vệ họ. Thể theo ý nguyện thiêng liêng của nhân dân, » ông quý tộc già đứng dậy, kết thúc với giọng run rẩy vì xúc động, « và nói lên tiếng nói của nhân dân, mà chúng tôi chỉ là đại diện, chúng tôi xin trao cho ngài vương miện công tước của Babbiano. Hãy trở về cùng chúng tôi đêm nay, thưa chúa công, và sáng mai, chỉ cần hai mươi tay thương hộ tống, chúng ta sẽ tiến vào Babbiano để suy tôn ngài làm công tước. Ngài cũng không phải lo đến sự chống trả nào, cho dù nhỏ nhất. Ở Babbiano chỉ còn một người còn trung thành với Gian Maria – chính là gã Masuccio mà ngài nói đã trông thấy tối nay. Mà cũng chỉ vì Gian Maria đã trả tiền để mua sự trung thành của gã và năm chục tên lính đánh thuê Thuỵ Sĩ . Hãy hành động, thưa đức ông ! Hãy để lý trí của ngài nói với ngài xem một người trung thực có cần đắn đo hay không trước khi phế bỏ một ông hoàng mà ngai vàng chỉ được che chở bởi sự bảo vệ thuê mướn từ năm mươi tay lính đánh thuê nước ngoài. » Tiếp theo bài diễn thuyết đầy ấn tượng là một khoảng yên lặng. Da Lodi vẫn đứng, những người khác đều ngồi, ánh mắt khẩn khoản hướng về chàng bá tước, chăm chú chờ đợi lắng nghe câu trả lời. Họ im lặng như vậy một lúc lâu, trong khi Aquilla bất động như một bức tượng. Chàng ngồi lặng thinh, tay nắm chặt thành ghế, đầu khẽ cúi dần về phía trước đến khi cằm chạm ngực, vầng trán cao nhíu lại, tối sầm. Trong khi mọi người chờ đợi câu trả lời của chàng, một trận chiến âm thầm bùng lên dữ dội trong chàng. Quyền lực chàng không hề trông đợi chợt đến quá bất ngờ ngay trong tầm tay, và sẽ là của chàng, chỉ cần chàng dang rộng vòng tay ra đón nhận, đã làm chàng choáng váng, đôi mắt hoa lên trong khoảnh khắc. Nhanh như một tia chớp chàng thấy mình trở thành công tước Babbiano. Trôi qua vùn vụt trước mắt chàng là hình ảnh của một sự nghiệp hiển hách khiến tên tuổi của chàng và tiếng tăm của Babbiano lan rộng khắp Italy. Từ một công quốc vô danh, lòng ái quốc và tài thao lược của chàng sẽ nâng Babbiano lên ngang hàng những quyền lực lớn nhất Italy – ngang hàng với Florence, Venice hay Milan. Chàng nhìn thấy lãnh thổ công quốc không ngừng mở rộng, các nước láng giềng trở thành chư hầu dưới sức mạnh của chàng. Chàng nhìn thấy mình chiếm lấy từng dặm đất Romagna từ tay Borgia, săn lùng gã như chàng vẫn săn lợn rừng ở vùng đầm lầy Commachio, hoặc buộc gã phải bỏ chạy về Vatican nấp sau vạt áo chùng của cha gã - mảnh đất cuối cùng chàng cho phép gã được đặt chân lên trên trái đất. Chàng mơ màng về một Babbiano hùng mạnh, được tất cả các nước cộng hoà cầu cạnh tìm kiếm sự liên minh để chống lại mối đe doạ từ Pháp và Tây Ban Nha. Chàng nhìn thấy tất cả lướt qua trước mắt, và sự cám dỗ như xiết chặt tâm hồn thượng võ của chàng trong vòng đai sắt. Thế rồi một bức tranh hoàn toàn khác hiện ra trước mắt chàng. Trong những lúc thời bình chàng sẽ làm gì ? Trong cung điện chàng luôn cảm thấy buồn chán vô vị. Chàng được sinh ra để sống cuộc đời phóng khoáng của một người lính chứ không phải cho không khí tù hãm của cung đình. Để đánh đổi lấy quyền lực chàng sẽ phải hy sinh gì ? Tự do vô giá của chàng. Để trở thành chủ nhân của người khác trong một số việc, để làm nô lệ cho họ trong nhiều việc hơn thế. Trên danh nghĩa là người trị vì, trên thực tế là kẻ bị cai quản đủ đường. Cho tới khi chàng không còn làm hài lòng các chủ nhân thực sự của chàng nữa. Đến lúc đó, cũng vào một buổi hội họp ban đêm như tối hôm nay, người ta sẽ lại âm mưu để thay thế chàng bằng người khác như chàng đang được mời mọc thay thế Gian Maria. Cuối cùng, chàng nghĩ tới người mà chàng đang được thúc giục cướp lấy cơ nghiệp. Đó là anh họ chàng, con trai người chị gái của cha chàng, một người trong huyết quản đang chảy cùng dòng máu với chàng. Sau hồi lâu, chàng ngẩng đầu lên nhìn những khuôn mặt lo lắng nửa tối nửa sáng dưới ánh đèn tù mù. Một nụ cười lạnh lùng thoáng qua giây lát trên cặp môi cương nghị của chàng. « Tôi chân thành cảm ơn vinh dự lớn lao các ngài đã dành cho tôi »,chàng trả lời chậm rãi, « một vinh hạnh mà tôi e mình hoàn toàn không xứng đáng. » Tất cả đồng thanh lên tiếng phản đối. « Hay ít nhất, đó là một vinh dự tôi không thể chấp nhận. » Tiếp theo là một khoảnh khắc im lặng, khuôn mặt đám quý tộc dự mưu đang hăng hái nhiệt tình bỗng chốc ỉu xìu bất bình. « Nhưng tại sao, thưa ngài ? », ông lão Fabrizio kêu lên, đưa tay về phía chàng, giọng nghẹn ngào. « Tại sao kia chứ, thề có Đức Mẹ Thánh Thần ? » « Bởi vì – hãy nói đến chỉ một thôi bên cạnh các lý do khác - người các ngài yêu cầu tôi lật đổ và thay thế là người cùng dòng máu với tôi. » Và nếu giọng nói của chàng không hoàn toàn bình thản đám người dự mưu có thể cho rằng chàng đang lên án họ. « Tôi đã nghĩ, » anh chàng Fanfulla đẹp trai bảnh bao đánh liều chen vào, « với một người như bá tước, nước nhà và lòng ái quốc sẽ quan trọng hơn huyết thống cơ đấy. » « Cậu nghĩ không sai đâu, Fanfulla. Tôi đã chẳng vừa nói rằng đó chỉ là một bên cạnh các lý do khác sao ? Hãy nói thử xem, thưa các ngài, lý do nào khiến các ngài tin tôi sẽ trị vì các ngài một cách công minh và khôn ngoan ? Một cách tình cờ vào lúc khủng hoảng này Babbiano cần một người lính lãnh đạo nó. Nhưng đừng để điều này huyễn hoặc các ngài, vì sẽ có lúc một người như thế sẽ không còn thích hợp cho việc trị quốc nữa, cũng như trường hợp của công tước tại vị trong hoàn cảnh hiện nay. Đến lúc đó thì sao đây ? Một chàng hiệp sĩ lang thang là một triều thần biếng nhác và một chính khách tồi. Cuối cùng, các bạn thân mến – vì các ngài muốn biết tất cả những gì diễn ra trong trái tim tôi – còn một sự thật nữa là tôi cũng yêu quý bản thân mình một chút. Tôi yêu quý sự tự do của bản thân, và không hề muốn chết ngạt trong bầu không khí ngập mùi nước hoa của cung đình. Các ngài thấy là tôi đang thẳng thắn với các ngài. Tôi luôn ưa thích lang bạt trên thế gian này, vũ khí đeo sau lưng, tự do như cơn gió trên trời cao. Liệu một chiếc vương miện công tước và một chiếc áo choàng tím … » Chàng bật cười vang thành tiếng. « Vậy đấy, thưa các bạn ! Các ngài đã có quá đủ lý do rồi. Một lần nữa tôi cảm ơn các ngài, và lấy làm tiếc rằng, để được là tôi, tôi không thể trở thành người các ngài muốn. » Chàng ngồi lại xuống ghế, nhìn họ với ánh mắt chưa khi nào lại buồn bã đến thế. Sau một giây im lặng, da Lodi cất tiếng, với giọng run run, cầu khẩn chàng suy nghĩ lại quyết định của mình. Ông lão còn đang toan tiếp tục thuyết phục thì Aquilla cắt ngang ngăn lại. « Tôi đã cân nhắc kỹ rồi, thưa ngài Fabrizio. » chàng trả lời dứt khoát, « không gì có thể lay chuyển được tôi đâu. Nhưng tôi xin hứa với các ngài điều này : tôi sẽ tới Babbiano tìm cách thuyết phục anh họ tôi. Tôi sẽ làm hơn thế ; tôi sẽ thuyết phục công tước trao cho tôi việc chỉ huy quân đội. Nếu được công tước chấp thuận, tôi sẽ tổ chức lại lực lượng của chúng ta, đồng thời tìm cách liên minh với các nước láng giềng để bảo đảm, ít nhất ở mức độ nào đó, an ninh của chúng ta. » Đám quý tộc vẫn cố tìm cách thuyết phục chàng, nhưng vô ích. Cuối cùng, da Lodi, với khuôn mặt rầu rĩ, đứng lên cảm ơn chàng vì lời hứa sẽ sử dụng ảnh hưởng của chàng với Gian Maria. « Ít nhất chúng tôi muốn cảm ơn ngài bá tước về chuyện này ; về phía mình, chúng tôi sẽ tận dụng mọi ảnh hưởng chúng tôi có được ở Babbiano để chức chỉ huy quân đội được trao cho ngài. Chúng tôi những muốn thấy ngài được tôn vinh ở một địa vị cao quý hơn, và nếu ngài thay đổi ý định… » « Đừng hy vọng vào điều đó, » bá tước trả lời, lắc đầu nghiêm nghị. Đột nhiên, trước khi có ai kịp nói thêm điều gì, chàng trẻ tuổi Fanfulla degli Arcipreti đứng bật dậy, đôi lông mày nhíu lại, khuôn mặt điển trai hiện vẻ cảnh giác lo lắng. Chàng đứng yên một giây như vậy rồi lao vội về phía cửa, mở rộng cửa ra rồi đứng lắng nghe, trong khi mọi người đều nhìn theo với vẻ ngạc nhiên. Nhưng không cần đợi đến khi chàng vừa quay lại vừa kêu lên kêu báo động, mọi người đã hiểu nguyên nhân khiến chàng đột nhiên hành động lạ lùng như vậy. Ngay sau khi tiếng động do cánh cửa bị mở đột ngột gây ra vừa dứt, tất cả đều nghe thấy tiếng bước chân theo nhịp đều đặn từ xa vẳng lại. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Ra Trận của tác giả Rafael Sabatini.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thư Gửi Đứa Trẻ Chưa Từng Sinh Ra
Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra – Quyển sách mà mọi phụ nữ nên đọc. Chỉ khoảng 150 trang sách mỏng nhẹ nhưng Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra sẽ làm bất kỳ ai xáo động, tất nhiên trước hết là những người phụ nữ. Và cho dù bạn đã làm mẹ hay chưa, quyển sách này sẽ chạm đến tận thẳm sâu tâm hồn bạn, chính là nỗi niềm của các bà mẹ nói chung và của những người từng phải lâm vào tình huống bỏ đứa con đang hoài thai của mình.   Nữ tác giả người Ý Oriana Fallaci đã viết nên một quyển sách thật sự khác biệt, vẫn còn nguyên giá trị dù đã ra đời gần 40 năm (tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1975) về tình mẫu tử, về việc làm mẹ và chuẩn bị tiếp nhận một sinh linh đến trong cuộc đời.   Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra lấy chủ thể là một phụ nữ đang có thai với bạn trai. Tiểu thuyết là những dòng tự sự của người mẹ dành cho đứa con, cảm xúc của cô khi mang thai, những vấn đề cô phải trải qua khi quyết định giữ lại sinh linh mà cha nó không muốn nó tồn tại…   Đã có hàng tá quyển sách xúc động các bà mẹ viết cho con mình, ngay từ khi chúng đang còn là một bào thai. Nhưng với Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra, độc giả sẽ “choáng” vì cách người mẹ cho đứa trẻ vẫn chưa thành hình ấy được thấy hết những thực tế của việc tồn tại. Đó là một bức tranh khốc liệt của việc làm người, vượt qua các rào cản của định kiến, của lề thói. Người mẹ không đặt bất cứ kỳ vọng nào lên đứa con tương lai nhưng cô dành sự quan tâm khi nêu ra những thực tế phải đối diện, niềm âu lo kèm theo những hy vọng. Những trang viết thấm đượm suy tư, đầy âu yếm, lúc lại phẫn nộ đến tuyệt vọng, khi thì chất chứa yêu thương.   Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra là quyển sách mà bất cứ phụ nữ nào cũng nên đọc, để biết dù ở vai trò nào, tình mẫu tử luôn là vĩ đại. Và với nam giới, cũng cần đọc để hiểu thêm người phụ nữ của mình.   *** Nhưng nếu con sinh ra là đàn ông, ta cũng vẫn vui mừng. Có lẽ còn vui mừng hơn, bởi con sẽ thoát được nhiều điều nhục nhã, biết bao phục dịch và bao cảnh lạm dụng. Nếu sinh ra là đàn ông, con sẽ không phải tận dụng khuôn mặt xinh xắn để được chấp nhận ngay từ cái nhìn đầu tiên, hay một thân hình đẹp để che giấu trí thông minh của mình. Con sẽ không phải nghe những phán xét ác nghiệt khi con ngủ với ai đó mà con thích; người ta sẽ không nói với con rằng tội lỗi sinh ra vào ngày con hái trái táo. Con sẽ ít phải đấu tranh hơn…   Theo Thế giới văn hóa *** Oriana Fallaci, sinh ngày 29 tháng Sáu năm 1929 tại Firenze, Oriana Fallaci là nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Italia. Bà sinh ra trong một gia đình chống phát xít và có cha là một thủ lĩnh của phong trào đấu tranh chống Mussolini. Năm 14 tuổi, Oriana Fallaci tham gia Kháng chiến. Chiến tranh thế giới II kết thúc, bà theo học tại Đại học Firenze. Ngay từ rất sớm, Oriana Fallaci đã cảm nhận được bản năng viết lách trong con người mình. Bà từng viết những thứ mà bà gọi là “những truyện ngắn ngây ngô” từ năm 9 tuổi, và đến năm 16 tuổi, bà bắt đầu mở rộng sang chủ đề cảnh sát và bệnh viện. Oriana Fallaci đặc biệt nổi tiếng với vai trò nhà báo, và được nhà viết tiểu sử Jill M. Duquaine tôn vinh là “nhà báo chính luận xuất sắc nhất thời hiện đại.” Bà mất ngày 15 tháng 9 năm 2006 tại thành phố quê hương. Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra được xuất bản lần đầu tiên năm 1975, được coi là “một trong những trang viết đẹp đẽ nhất của phụ nữ về mang thai, nạo phá thai và những dằn vặt nội tâm.” *** Đêm qua ta biết là con tồn tại: một giọt sống thoát thai từ hư vô. Ta đang nằm, mắt mở to trong đêm tối, và đột nhiên ta biết con ở đó. Con tồn tại. Điều đó giống như một viên đạn xuyên vào ngực ta. Tim ta ngừng đập. Và khi nó điên cuồng đập trở lại trong tiếng đại bác bàng hoàng, ta có cảm giác mình bị quăng vào cái giếng nơi mọi thứ đều không chắc chắn và đáng sợ. Giờ thì ta bị khóa chặt trong nối sợ hãi thấm đẫm khuôn mặt ta, tóc ta, ý nghĩ của ta. Ta lạc lối trong nỗi sợ đó. Con hãy hiểu rằng đó không phải là sợ người khác. Ta chẳng bận tâm đến người khác. Đó không phải là sợ Chúa. Ta không tin vào Chúa. Đó không phải là sợ đau. Ta không hề sợ đau. Ta sợ con, sợ điều đã giật con ra khỏi hư vô để gắn con vào cơ thể ta. Ta chưa bao giờ sẵn sàng chào đón con, mặc dù ta biết con hiện hữu, như thể ta đã chờ đợi con từ lâu. Ta vẫn luôn tự vấn bản thân câu hỏi khủng khiếp: Thế nếu con không muốn được sinh ra? Thế nếu một ngày kia con gào lên trách cứ ta: “Ai bảo mẹ đem con vào thế giới này, tại sao mẹ đưa con đến thế giới này, tại sao?” Cuộc đời là một nỗ lực lớn, con ạ. Đó là cuộc chiến lặp lại hằng ngày, và những giây phút vui vẻ hạnh phúc là những khoảng lặng ngắn ngủi mà vì chúng, người ta phải trả một cái giá tàn khốc. Làm sao ta biết được sẽ là không đúng nếu vứt bỏ con đi? Làm sao ta nói được là con sẽ không thích bị ném trả vào thinh lặng? Con không thể nói với ta: giọt sống của con chỉ là một tổ hợp tế bào vừa chớm bắt đầu. Thậm chí có lẽ còn chưa là sự sống, mới chỉ là khả năng của sự sống. Ấy thế mà ta ước gì con có thể giúp ta, dù chỉ với cái gật đầu, một dấu hiệu thoáng qua. Mẹ ta nói rằng ta đã cho bà một dấu hiệu như thế, và đó là lý do khiến bà mang ta đến thế giới này. Con biết không, mẹ ta đã không muốn có ta. Ta được hình thành bởi lầm lỗi, từ giây phút bất cẩn của những kẻ khác. Với hy vọng ta sẽ không sinh ra, hằng đêm, bà pha thuốc vào ly nước. Rồi vừa khóc, bà vừa uống hết ly nước. Bà uống thuốc đều đặn cho đến cái đêm ta cựa quậy trong bụng bà, và đá cho bà một cái để bảo đừng có vứt ta đi. Đang đưa ly nước lên môi, bà liền đẩy ra xa rồi hất hết chỗ nước đó đi. Vài tháng sau, ta lăn ra rạng rỡ dưới ánh mặt trời. Ta không biết điều đó là tốt hay dở; khi hạnh phúc ta nghĩ điều đó là tốt, khi bất hạnh ta nghĩ điều đó là dở. Nhưng thậm chí, ngay cả khi cảm thấy khổ sở, ta cũng không hối hận vì đã được sinh ra, bởi không gì tệ hơn việc chẳng-là-gì-cả. Để ta nhắc lại lần nữa: ta không sợ đau. Con người được sinh ra với sự đau đớn; nỗi đau lớn lên cùng ta, và ta quen với nó cũng như quen với việc có hai chân, hai tay. Thực sự ta thậm chí cũng chẳng sợ chết, chết có nghĩa là ít nhất cũng là đã từng được sinh ra, từng được thoát thai từ hư không. Điều ta thực sự sợ hãi, ấy là chẳng-là-gì-cả, không là gì, chưa từng tồn tại, dù là tình cờ, hoặc lầm lỗi, hoặc do sự bất cẩn của những kẻ khác. Rất nhiều phụ nữ tự hỏi tại sao họ phải mang thai đứa trẻ đến thế giới này? Để rồi nó sẽ bị đói khát, để rồi nó sẽ bị giá rét, để rồi nó sẽ bị phản bội và nhục mạ, để rồi nó sẽ bị chết trong chiến tranh hay do bệnh tật? Họ chối bỏ hy vọng rằng sự đói khát của nó sẽ được bù đắp, giá lạnh sẽ được sưởi ấm, rằng lòng trung thành và kính trọng sẽ đồng hành cùng nó trong suốt cuộc đời, rằng nó sẽ cống hiến cuộc đời cho nỗ lực xóa bỏ chiến tranh và bệnh tật. Có thể họ đúng. Nhưng chẳng lẽ phải lựa chọn không-là-gì-cả còn hơn là chịu đau khổ? Thậm chí, ngay cả khi gạt nước mắt vì những thất bại, vỡ mộng, dằn vặt, ta vẫn chắc chắn rằng khổ đau vẫn còn hơn không-là-gì-cả. Và nếu ta áp dụng điều này với sự sống, với nan đề có sinh ra hay không, từng tế bào thần kinh trên cơ thể ta gào lên rằng được sinh ra còn hơn là không được sinh ra. Nhưng liệu ta có thể áp đặt cách biện luận này với con? Chẳng phải điều đó có nghĩa là ta đang đem con đến với thế giới này chỉ vì bản thân ta và không vì ai khác? Ta không quan tâm đến việc đem con đến thế giới này chỉ vì bản thân ta và không vì ai khác. Ta chẳng cần gì con cả.       -- 2 --   Con chẳng gửi cho ta hồi đáp nào, con chẳng tỏ dấu hiệu nào. Mà sao con có thể làm được điều đó kia chứ? Mới chỉ quá ít thời gian: nếu ta có hỏi bác sĩ về sự tồn tại của con, ông ta sẽ chỉ mỉm cười. Nhưng ta đã quyết định thay con: con sẽ được sinh ra. Ta quyết định như thế sau khi nhìn thấy con trong bức ảnh. Đó không phải là ảnh con, đương nhiên rồi, mà là hình ảnh phôi thai được ba tuần tuổi, in trên một tạp chí trong bài viết về quá trình hình thành sự sống. Khi nhìn bức ảnh, nỗi sợ trong ta tan biến cũng nhanh như khi nó đến. Con trông như một bông hoa huyền bí, một bông hoa lan trong suốt. Phía trên có thể nhìn thấy một thứ như cái đầu với hai khối tròn rồi sẽ phát triển thành bộ não. Phía dưới đó là một cái hốc sẽ phát triển thành khoang miệng. Lúc con ba tuần tuổi, gần như không thể nhận thấy con – chú thích ghi như thế. Hai mi li mét rưỡi. Tuy vậy, trong con đang lớn dần thứ sẽ thành đôi mắt, một thứ gì đó trông tựa như cột sống, hệ thần kinh, dạ dày, gan, ruột, phổi. Tim con đã hiện hữu và khá to: tính theo tỷ lệ thì lớn hơn tim ta chín lần. Nó bơm máy và đập đều đặn kể từ ngày tuổi thứ mười tám: làm sao ta có thể vứt bỏ con? Với ta, con hình thành do tình cờ hay do sai lầm thì cũng không quan trọng, chẳng phải thế giới chúng ta đang sống cũng khởi đầu do tình cờ, hay có lẽ là từ một sai lầm nào đó sao? Nhiều người bảo rằng ban đầu chẳng có gì cả, tất cả chỉ là một sự bình lặng khủng khiếp, một sự tĩnh lặng vô cùng; thế rồi có ánh lóe sáng, một sự chia tách, và cái chưa từng tồn tại giờ xuất hiện. Sự chia tách ngay sau đó được nối tiếp bằng những chia tách khác: càng lúc càng khó dự đoán, càng lúc càng điên rồ, bất chấp hệ quả… Và trong số những hệ quả đó xuất hiện một tế bào, cũng là vì tình cờ hoặc có lẽ do nhầm lẫn, mà ngay lập tức nó được nhân lên hàng triệu, hàng tỉ lần cho đến khi cây cối, cá, và con người được sinh ra. Con nghĩ có ai cân nhắc nan đề này trước khi có cái lóe sáng kia không? Con nghĩ có ai băn khoăn chuyện tế bào đó có thích hay không? Con nghĩ có ai bận tâm đến sự đói khát, lạnh lẽo, bất hạnh của tế bào đó không? Ta không nghĩ là có. Kể cả nếu có ai đó – ví như một vị Chúa sánh với sự khởi thủy của thuở hồng hoang ban đầu, vượt khỏi không gian và thời gian – thì ông ta cũng sẽ không bận tâm tới cái tốt và cái xấu. Mọi thứ đã xảy ra vì nó có thể xảy ra, cho nên nó đã phải xảy ra, theo một đòi hỏi là sự đòi hỏi duy nhất về tính chính đáng. Và mọi việc diễn ra với con cũng như thế. Ta chịu trách nhiệm về lựa chọn đó. Ta làm thế không phải vì ích kỷ, con ạ: ta thề là việc đưa con đến thế giới này không hề khiến ta thích thú. Ta không thấy cảnh mình đi trên phố với cái bụng căng phồng, ta không thấy cảnh mình cho con bú, tắm cho con, dạy con tập nói. Ta là một phụ nữ đang đi làm và ta có nhiều ràng buộc khác, nhiều mối quan tâm khác: ta đã nói rồi, ta không cần con. Dẫu vậy, ta vẫn sẽ đồng hành cùng con, dù con có thích hay không. Ta sẽ áp đặt lên con chính những đòi hỏi đã áp đặt lên ta, lên mẹ của ta, bà của ta, cụ của ta, cứ thế cho đến tận sinh linh đầu tiên được một con người sinh ra, dù sinh linh đó có thích hay không. Có lẽ nếu sinh linh đó được phép lựa chọn, nó sẽ kinh hãi mà rằng: không, tôi không muốn được sinh ra. Nhưng chẳng ai hỏi ý kiến nó, thế nên nó được sinh ra, sống rồi chết đi sau khi đã sinh ra một sinh linh khác cũng không được hỏi để lựa chọn, và rồi hết sinh linh này tới sinh linh khác cứ lặp lại y hệt, cứ thế suốt hàng triệu triệu năm cho tới thời đại chúng ta. Và mỗi lần đều có một sự áp đặt mà thiếu nó, chúng ta không thể tồn tại. Hãy dũng cảm lên con! Con nghĩ hạt cây không cần dũng cảm để xuyên thủng mặt đất và đâm chồi ư? Chỉ cần một con gió cũng đủ quật gãy chồi cây, chỉ cần bàn chân của một con chuột nhắt là đủ nghiền nát nó. Nhưng nó vẫn đâm chồi và đứng vững, rồi trưởng thành để phát tán những hạt khác. Và trở thành một phần của cánh rừng. Nếu một ngày nào đó con hét lên: “Tại sao mẹ lại đem con đến thế giới này, tại sao?” Ta sẽ trả lời: “Ta đã làm điều mà những cái cây đã và đang làm, từ hàng triệu triệu năm nay. Ta đã nghĩ đó là điều đúng, nên làm.”   Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Đứa Trẻ Chưa Từng Sinh Ra của tác giả Oriana Fallaci.
Annabelle Người phụ nữ tuyệt vời - Danielle Steel
Bị phản bội và chịu nhiều tai tiếng từ một xì căng đan mà nàng là nạn nhân, Annabelle đã quyết định sang Pháp với hy vọng lấy công việc từ thiện để quên đi nỗi sầu khổ của mình. Tại một bệnh viện ở tuyến đầu của cuộc chiến tranh Pháp - Đức, Annabelle làm tất cả mọi việc được giao và tỏ ra rất có năng khiếu về y khoa, nên đã được gửi đi học tại trường y để trở thành bác sĩ. Khi chiến tranh chấm dứt, Annabelle bắt đầu cuộc sống ở Paris với tư cách là một bác sĩ, một người mẹ; và đời nàng đã mở sang một trang mới. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Sáng ngày 14 tháng 4 năm 1912, Annabelle Worthington ngồi lặng lẽ đọc sách trong thư viện tại ngôi nhà của bố mẹ, thư viện nhìn ra khu vườn rộng có tường bao bọc. Mùa xuân đã bắt đầu báo hiệu khắp nơi, thợ làm vườn đã trồng hoa, mọi thứ đều có vẻ đẹp đẽ để chờ đợi ngày về của bố mẹ nàng trong vài hôm nữa. Ngôi nhà nàng ở với bố mẹ và anh trai Robert rộng lớn, uy nghiêm, nằm ở đoạn đường phía bắc của Đại lộ 5 ở New York. Gia đình Worthington và gia đình Sinclair có bà con thân thuộc với dòng họ Vaderbilt và Astor, gián tiếp có quan hệ với tất cả những gia đình nổi tiếng nhất ở New York. Bố nàng, Arthur, chủ một ngân hàng có uy tín nhất trong thành phố và hiện đang điều hành ngân hàng này. Gia đình ông làm ngân hàng từ nhiều thế hệ nay, cũng như gia đình của mẹ nàng đã làm ngân hàng tại Boston. Anh Robert của nàng 24 tuổi, làm việc cho bố nàng đã ba năm rồi. Và dĩ nhiên khi nào Arthur về hưu, Robert sẽ thay ông điều khiển ngân hàng của gia đình; tương lai của họ rất tươi sáng, bảo đảm và bình an. Annabelle sẽ được sống một cuộc sống thoải mái dưới sự che chở của gia đình. Bố mẹ nàng yêu nhau, nàng và Robert luôn luôn gần bên nhau, đi đâu đều có nhau. Không có gì có thể làm cho họ buồn rầu, bối rối. Nếu có chuyện gì rắc rối nho nhỏ xảy ra, họ sẽ tìm cách giải quyết ngay. Annabelle lớn lên trong thế giới vàng son, thiêng liêng, có thời thơ ấu hạnh phúc, sống giữa những con người tốt bụng đáng yêu. Mấy tháng vừa qua, cuộc sống của nàng rất sôi động, mặc dù có vài chuyện buồn bực xen vào. Trong tháng mười hai, trước lễ Giáng sinh, nàng được bố mẹ tổ chức một buổi dạ vũ sang trọng để giới thiệu nàng với xã hội thượng lưu. Đấy là lễ ra mắt của nàng, mọi người đều cho rằng đây là buổi dạ vũ tuyệt vời nhất, sang trọng nhất ở New York từ nhiều năm nay. Mẹ nàng thích tổ chức những buổi tiệc lớn. Phòng khiêu vũ trong nhà tuyệt đẹp có ban nhạc hay nhất trong thành phố được mọi người hâm mộ. Bốn trăm người đến dự, và cái áo dạ hội làm cho Annabelle giống như nàng công chúa trong chuyện thần tiên. ... Mời các bạn đón đọc Annabelle Người phụ nữ tuyệt vời của tác giả Danielle Steel.
Những Bóng Ma - Paul Auster
Paul Benjamin Auster sinh ngày 3.2.1947 tại Newark, New Jersey, bố mẹ là người Do Thái gốc Ba Lan thuộc tầng lớp trung lưu. Sau khi tốt nghiệp đại học Columbia năm 1970, ông tới Paris và kiếm sống bằng việc dịch các tác phẩm văn học Pháp. Trở lại Mỹ năm 1974, ông bắt đầu xuất bản các sáng tác cũng như những bản dịch của mình thuộc nhiều thể loại: thơ, tiểu luận, tiểu thuyết… Paul Auster từng theo học đại học Harvard. Sau tác phẩm đầu tay khá thành công The Invention of Solitude, Auster tiếp tục khẳng định tên tuổi bằng bộ ba truyện trinh thám The New York Triology - bao gồm Thành phố thuỷ tinh, Những bóng ma, và Căn phòng khoá kín. Ông cưới Siri Hustvedt, người vợ thứ hai của ông, vào năm 1981 và họ đến sống ở Brooklyn. Họ có một bé gái tên Sophie Auster. Người vợ trước của ông là nhà văn nổi tiếng Lydia Davids. Ông và bà có một đứa con trai tên Daniel Auster. Ông còn là phó Chủ tịch của PEN American Center Chủ đề thường gặp trong các tác phẩm của Auster là cuộc kiếm tìm nhân dạng và ý nghĩa sự tồn tại của cá nhân. Vai trò của cái ngẫu nhiên, sự trùng hợp cũng như mối quan hệ giữa con người với đồng loại và với môi trường xung quanh thường được nhấn mạnh. *** Tác phẩm tiêu biểu Trần trụi với văn chương Nhạc đời may rủi Thành phố thuỷ tinh Những bóng ma Người trong bóng tối Căn phòng khoá kín Khởi sinh của cô độc *** Đầu tiên xuất hiện Blue (1), sau đó đến White, sau đó nữa là Black và trước khi câu chuyện bắt đầu còn có Brown. Brown dạy nghề cho Blue, truyền cho anh ta những mẹo mực trong nghề, và khi Brown về già, Blue là người thay thế. Câu chuyện đã bắt đầu như vậy. Địa điểm nơi câu chuyện xảy ra là New York, thời gian là hiện tại, hai yếu tố này sẽ không thay đổi bao giờ. Hàng ngày Blue đến văn phòng, ngồi tại bàn làm việc của mình, chờ đợi một điều gì đó xảy ra. Đã một thời gian dài chẳng có chuyện gì xảy ra cả, cho đến khi một người đàn ông có tên là White bước vào văn phòng và câu chuyện đã bắt đầu như vậy. Vụ việc xem ra cũng có vẻ đơn giản. White muốn Blue theo dõi một người đàn ông có tên là Black và để mắt coi chừng anh ta trong trong một khoảng thời gian cần thiết. Hồi còn làm việc cho Brown, Blue đã từng giải quyết nhiều vụ việc lặt vặt, vụ việc lần này có vẻ như cũng chẳng có gì khác biệt, thậm chí có lẽ còn là trường hợp dễ dàng nhất. Blue cần công việc, vì thế anh lắng nghe White và không hỏi han gì nhiều. Anh đoán chắc đây là một vụ dính dáng đến chuyện hôn nhân và White là một anh chồng có máu ghen. White không đòi hỏi gì phức tạp. White nói rằng anh ta muốn hàng tuần nhận được một bản báo cáo gửi đến một hòm thư có số hiệu như thế… như thế…, bản báo cáo cần được đánh máy làm hai bản trên khổ giấy dài cỡ thế này, rộng cỡ thế kia. Hàng tuần, Blue cũng sẽ được nhận một tấm séc gửi qua đường bưu điện. Rồi White nói cho Blue biết nơi ở của Black, hắn ta trông như thế nào, và những điều đại loại như thế. Khi Blue hỏi White xem theo anh ta thì vụ này sẽ kéo dài độ bao lâu, White trả lời rằng anh ta không rõ. Cứ gửi báo cáo hàng tuần, anh ta bảo vậy, cho đến khi có thông báo cụ thể hơn. ... Mời các bạn đón đọc Những Bóng Ma của tác giả Paul Auster.
Thiên Đường Tiền Xu Tập 3
Thiên đường Tiền xu có đối thủ cạnh tranh! Đó là điều chẳng ai ngờ tới, bởi bánh kẹo nơi đây mang sức mạnh thay đổi cả vận mệnh người sở hữu chúng. Nhưng Cửa hiệu Tai ương đã xuất hiện. Ma thuật hay không thì bánh kẹo ở đây cũng không hề kém cạnh. Chỉ có điều, trong khi bánh kẹo Thiên đường tiền xu đưa đường chỉ lối con người ta đến những gì tươi sáng, thì các món hàng của Cửa hiệu tai ương lại có thể khơi dậy những mảng tối sâu nhất trong tâm hồn mỗi người. Để rồi, một cuộc đấu kẹo vô cùng ly kỳ  bắt đầu, mở ra một thế giới ngỡ chỉ có trong mơ, ma mị và lôi cuốn ta tới tận trang cuối. *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa. *** BÁNH XỐP CÓ NHÂN ĂN GIẤC MƠ Nobutaka đang ngồi trên xe buýt để tới bệnh viện. Ngay khi vừa nhận được điện thoại báo Marie phải nhập viện, Nobutaka liền phi ngay ra khỏi văn phòng. Nhưng giờ, cả khi đang tới chỗ con gái, lòng anh vẫn lo lắng khôn nguôi. Đối với Nobutaka, cô con gái Marie vừa tròn bốn tuổi là bảo bối không gì sánh nổi. Cô con gái rượu đáng yêu vô ngần của anh. Nhưng vài tuần nay, đêm nào Marie cũng bị những cơn ác mộng khủng khiếp hành hạ. Trong mơ, con bé bị những thứ đáng sợ rượt đuổi, bị ăn thịt, bị giày xéo. Đến bây giờ thì Marie vô cùng khiếp sợ mỗi khi phải đi ngủ. Nếu có ngủ con bé cũng lập tức hét lên rồi choàng dậy ngay. Sắc mặt Marie ngày một xanh xao, con bé gầy xọp cả đi. Lần này nhập viện chắc chắn cũng do thiếu ngủ. Nobutaka xót con lắm. Giá mà anh có thể chịu thay con thì tốt biết bao. Mà tại sao con bé lại suốt ngày gặp ác mộng vậy nhỉ? Đúng là sống trên đòi ai cũng một hai lần mơ thấy ác mộng, nhưng mơ thấy ác mộng hằng đêm như Marie thì kỳ lạ quá. Nghĩ thế nào cũng thấy lạ. Con bé chưa từng trải qua chuyện gì đáng sợ, anh cũng chưa cho con xem phim kinh dị bao giờ. Rốt cuộc là vì sao? Vì lo cho con gái mà gần đây Nobutaka không thể tập trung vào công việc. Hôm nay anh cũng phạm lỗi và bị sếp mắng. Phải làm gì đó thôi. Nhưng làm gì mới được chứ? Đúng lúc Nobutaka đang đăm chiêu suy nghĩ thì có ai đó tới bắt chuyện với anh. “Hình như anh đang gặp chuyện gì đó phiền lòng?” Nobutaka quay lại thì thấy ngồi ở ghế sau là một người phụ nữ vô cùng to lớn vận kimono. Mái tóc người này trắng muốt nhưng khuôn mặt lại trẻ trung, người phụ nữ vừa nở một nụ cười kỳ lạ vừa nhìn Nobutaka. Nobutaka giật mình. Chuyện gì thế này? Sao anh cứ có cảm giác như mình đang bị áp chế vậy. Người phụ nữ lại nhoẻn miệng cười tươi hơn nữa “Liệu anh có muốn hóa giải nỗi muộn phiền đó không? Nếu được hay là ghé cửa tiệm của ta đi? Sao, không tốn nhiều thời gian đến vậy đâu. Của tiệm của ta ở ngay bến xe buýt tiếp theo thôi.” “Khô... không, tôi đang đi tới bệnh viện...” Người phụ nữ nhìn Nobutaka chằm chằm. Nobutaka cảm thấy đầu óc trống trơn. Đến khi nhận ra anh đã thấy minh xuống xe mất rồi. Cứ vậy Nobutaka đi theo người phụ nữ vào một con đường nhỏ và tối. Ớ đó có một tiệm bánh kẹo nhỏ. Những món bánh kẹo bày la liệt, sáng lấp lánh. Hẳn Marie sẽ thích chúng lắm đây. Người phụ nữ quay người lại. “Chào mừng đến với Thiên đường tiền xu, vị khách may mắn của ta. Vậy quý khách đang phiền muộn vi điều gì thế? Dù là chuyện gì xin cứ nói với chủ tiệm Beniko ta đây.” Nobutaka chợt nghĩ. Không biết chừng ở đây lại có thứ mình muốn ấy chứ? “Có thứ gì xua đuổi được những cơn ác mộng không ạ?” Nobutaka rụt rè hỏi thử, vậy mà bà chủ tiệm gật đầu rõ mạnh. “Thế thì Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ là hợp nhất rồi.” Nói đoạn, bà chủ tiệm lấy một chiếc bánh xốp từ cái thùng đặt trong góc ra. Chiếc bánh có hình đồng tiền cổ, trông vô cùng ngon mắt. Trên một mặt bánh màu nâu vàng còn có cả hình con thú kỳ dị. Con thú bốn chân hình thù thì giống chó lai sư tử đá gác cổng đền, nhưng mũi lại dài như mũi voi và còn có cả bờm sư tử nữa. “Đây là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ chứa đựng linh lực của thần thú Baku chuyên ăn ác mộng. Chỉ cần ăn bánh này vào, giấc mơ có đáng sợ hay tồi tệ cách mấy cũng sẽ bị đuổi đi hết.” Nobutaka nín thở. Là nó! Nó chính là thứ mình, à không, Marie cần lúc này! “Tôi, tôi mua!” Dù nó có giá một triệu yên mình cũng mua! Nobutaka dứt khoát lôi ví ra khỏi cặp, làm tấm ảnh Marie phất phơ rơi xuống. Bà chủ tiệm nhặt tấm ảnh lên. “Ôi chà, cô bé dễ thương làm sao.” “Cảm ơn chị. Con gái tôi đấy. Con bé vừa tròn bốn tuổi.” “Ồ, ra là vậy. Đúng độ tuổi đáng yêu nhất đấy nhỉ... Nhưng mà đáng thương thay...” “Chị nói vậy là ý gì?” “Cô bé đang bị nguyền rủa đấy.” “Sao cơ!” Nobutaka suýt nữa thì hét toáng lên “Tự nhiên chị nói cái quái gì vậy?” Song ngay khi nhìn thấy khuôn mặt bà chủ tiệm, anh chẳng cất nên lời nữa. Nobutaka chợt hiểu ra. Rằng bà chủ tiệm đang nói sự thật. “Chị bảo Marie nhà tôi đang bị nguyền rủa ạ?” “Đúng vậy. Nhìn bức ảnh này ta thấy có tà khí... Người hay gặp phải những giấc mơ đáng sợ có phải là cô bé này chăng?” “Vâng, đúng vậy. Gần đây bỗng nhiên con bé thường xuyên gặp phải ác mộng. Mà đêm nào cũng vậy mới khổ chứ! Nhưng... nhưng mà bị nguyền thì... Marie mới chỉ bốn tuổi thôi mà? Sao lại có kẻ nào ghét con bé đến thế được!” “Những oán hận, căm ghét của con người có thể trỗi dậy từ những chuyện khôn lường, gây hại cho người không ngờ tới đấy.” Giọng bà chủ tiệm nhẹ bẫng. “Với những kẻ đi nguyền rủa người khác, đối phương có là trẻ con hay không cũng chẳng có nghĩa gì đâu... Hừm, lời nguyền này không phải do kẹo của tiệm ta. Có lẽ là Bánh nướng búp bê nguyền rủa của Cửa hiệu tai ương, hoặc là...” Bà chủ tiệm bắt đầu lẩm bẩm nói chuyện một mình, song Nobutaka đã không còn nghe thấy gì nữa. Cơn giận trong anh đang dâng lên cuồn cuộn. Đứa nào! Đứa nào đã làm chuyện này! Lại dám nguyền rủa Marie của tao, không thể tha thứ được! Tao sẽ trả thù! Tao sẽ tìm ra mày rồi cho mày mất xác luôn! Nobutaka siết chặt nắm đấm. Ô, bà chủ tiệm lên tiếng vẻ thích thú. “Chuyện này hiếm đây. Có vẻ như quý khách đã có một mong ước mới nhỉ. Một ước muốn mạnh mẽ không hề thua kém ước muốn ban đầu... Giờ quý khách muốn trả thù sao?” “Dĩ, dĩ nhiên rồi ạ!” “...Ta cũng có thể giúp quý khách cả việc đó nữa đấy.” Bà chủ tiệm khẽ nói, đoạn lấy từ chiếc tủ lạnh nhỏ trong góc tiệm ra một chai thủy tinh. Cái chai trông giống chai nước soda chanh, bên trong sóng sánh thứ chất lỏng màu vàng. Bà chủ tiệm lắc nhẹ, trong chai liền nổi lên những bọt đỏ nhìn y như lửa cháy vậy. “Đây là Nước gừng có ga phục thù. Thứ đồ uống này sẽ giúp quý khách tìm ra kẻ đã tấn công mình và trả đũa lại hắn. Dĩ nhiên ta đảm bảo nó sẽ có tác dụng. Uống thứ này nhất định ước muốn của quý khách sẽ thành hiện thực.” Mắt Nobutaka sáng rực lên trước những lời thì thầm của bà chủ tiệm. Có thứ này rồi mình sẽ bắt kẻ đã làm Marie khổ sở phải trả giá! Dĩ nhiên anh phải mua cả món này rồi. Thế nhưng khi Nobutaka định vươn tay ra với lấy cái chai thì bà chủ tiệm lại bất ngờ nói. “Như vậy là quý khách chọn mua Nước gừng có ga phục thù chứ không phải Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ đúng không?” “Hả?” Nobutaka chớp mắt lia lịa. Anh chẳng hiểu gì cả. Bà chủ tiệm chậm rãi nói tiếp. “Tiệm ta không bán hai món hàng cùng một lúc. Quý khách chỉ có thể chọn một trong hai, Nước gừng có ga phục thù hoặc Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ thôi.” “Chuyện, chuyện này...” Nobutaka cuống lên. Anh thử nài nỉ xem có cách nào mua cả hai thứ không nhưng bà chủ tiệm dứt khoát từ chối. Nobutaka rên rỉ nhìn hai món đồ trước mắt. Nước gừng có ga phục thù và Bánh xốp có nhân án giấc mơ, mình buộc phải chọn một trong hai sao? Nước gừng có ga phục thù khiến Nobutaka không cưỡng lại được. Anh không thể kìm được ý nghĩ hung bạo muốn trả thù kẻ đã nguyền rủa Marie. Chỉ cần có Nước gừng có ga phục thù này, ước muốn đó sẽ thành hiện thực. Vậy nhưng... Nobutaka cố nén lòng căm hận, nhìn về phía Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ. Thứ Marie cần là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ. Nước gừng có ga phục thù có thể thay mình trừng trị kẻ đã nguyền rủa Marie, nhưng chưa chắc đã giúp con bé hết gặp ác mộng. Phải mua Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ thôi. Cuối cùng Nobutaka cũng hạ quyết tâm. “Cho tôi Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ.” “Vâng. Nó có giá năm mươi yên. Xin hãy trả bằng đúng đồng năm mươi yên.” Nobutaka nhìn vào chiếc ví đựng tiền xu. Vừa hay chỉ còn sót lại đúng một đồng năm mươi yên, anh liền đưa nó cho bà chủ tiệm. “Đúng là đồng xu của ngày hôm nay rồi, đồng năm mươi yên năm Chiêu Hòa thứ sáu mươi. Ta xin nhận. Bánh này giờ là của quý khách.” Bà chủ tiệm gói món Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ vào tờ giấy màu hoa anh đào tuyệt đẹp rồi đưa nó cho Nobutaka. Sau khi Nobutaka cẩn thận cất chiếc bánh xốp vào trong cặp, bà chủ tiệm liền nói. “Quý khách vẫn còn lưỡng lự gì chăng?” “Sao cơ ạ?” “Có phải quý khách vẫn hơi lăn tăn, lẽ ra mình nên chọn Nước gừng có ga phục thù thì hơn?” Bị nói trúng tim đen rồi. Bà chủ tiệm mỉm cười với Nobutaka đang đỏ bừng mặt. “Lời nguyền hoặc bùa chú một khi bị phá giải sẽ yểm lại chính chủ nhân của nó. Kẹo của tiệm ta nhất định sẽ phá giải được lời nguyền yểm lên con gái quý khách. Sau đó chuyện thế nào. Chắc quý khách cũng hiểu rồi chứ. “Ồ!” “Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ là một sự lựa chọn đúng đắn rồi. Cảm ơn quý khách đã mua hàng ở tiệm ta.” Bà chủ tiệm vừa cúi đầu, nơi ấy chợt tối om. Rầm. Sau một cơn rung lắc nhẹ, Nobutaka tỉnh lại. Rồi anh giật mình. Thế nào mà anh lại đang ở trên xe buýt rồi. Vội nhìn ra ngoài cửa sổ, bệnh viện nơi Marie nhập viện đã ở trong tầm mắt. Vậy vừa rồi là mơ chăng. Tuy hơi thất vọng nhưng Nobutaka vẫn mở cặp ra xem thử. Song lần lày anh thật sự nhảy dựng lên. Trong cặp anh vẫn có gói nhỏ bọc giấy màu hoa anh đào. Đúng là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ rồi! Đó không phải là mơ! Vừa tới điểm dừng trước bệnh viện, Nobutaka liền phi xuống xe, phóng như bay tới phòng bệnh. Marie đang nằm rũ ra trên giường. Trông con bé còn tệ hơn cả sáng nay. Mắt con bé thâm tím lại, mặt thỉ trắng bệch như tờ giấy. Vợ anh, Sayomi đang ngồi bên cạnh dỗ dành con bé ngủ, song con bé mếu máo mà rằng “Con sợ ngủ lắm”. Nhìn thấy cảnh đó Nobutaka chỉ chực khóc. Song anh cố nặn ra một nụ cười rồi tới bên Marie. Vừa thấy Nobutaka, Marie liền tươi tỉnh hẳn lên. “Bố!” “Anh tới đấy à?” Sayomi cũng cất giọng như thể đã nhẹ nhõm được đôi phần. “Ừ, phải đến chứ. Marie, con ổn không?” “Ổn sao được! Họ tiêm con bé hai lần rồi đấy!” “Thế à, khổ thân con tôi quá. Nhưng không sao, bố mua bánh đến đây rồi. Một loại bánh vô cùng đặc biệt chỉ dành riêng cho Marie. Con ăn cái này rồi nhất định sẽ không gặp phải những giấc mơ đáng sự nữa.” “Bố nói dối.” “Thật đấy, bố hứa... Con cứ ăn thủ mà xem?” “... Vâng.” Nobutaka đưa Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ cho Marie. Vừa cắn một miếng, mắt Marie đã sáng lên. “Ngon quá!” “Vậy hả. Tốt rồi. Của Marie cả đấy, con ăn hết đi.” “Cảm ơn bố ạ.” Marie nhồm nhoàm đầy một miệng bánh xốp, nức nở khen ngon quá, ngon quá. Lâu lắm rồi con bé mới lại ăn ngon miệng thế này... Nhìn bộ dạng ấy của cô con gái, Sayomi cũng phải tròn mắt. “Bánh gì... vậy mình?” “Bánh có phép thuật đấy. Nó chỉ dành riêng cho Marie thôi.” Marie nhanh chóng chén sạch cái bánh xốp. Thế rồi mắt con bé bắt đầu lờ đờ, chẳng mấy chốc đã nghe thấy cả tiếng ngáy khe khẽ. Cả Nobutaka và Sayomi đều nín thở nhìn con gái. Liệu con bé ngủ được bao lâu sẽ lại hét toáng lên, choàng dậy đây? Bao lâu nữa con bé sẽ lại vừa khóc vừa kêu la? Thế nhưng hai vợ chồng Nobutaka đợi mãi cũng không thấy động tĩnh gì cả. Marie vẫn ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng con bé còn cười khúc khích, hẳn là đang mơ gì vui lắm. Sayomi bật khóc, nắm chặt lấy tay Nobutaka. “Con bé ngủ rồi! Marie đang ngủ kìa... Đúng là chiếc bánh có phép thuật sao? Chuyện này là thế nào vậy? Sao anh có được thừ đó?” “Anh mua đấy. Trả tiền hẳn hoi.” Nobutaka bảo với Sayomi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho cô sau, rồi lại hướng mắt về phía Marie đang ngủ. Bây giờ anh chỉ muốn ngắm nhìn gương mặt say ngủ đó thôi. Marie được xuất viện ngay hôm sau. Nhờ ngủ được đẫy giấc nên má con bé đã hồng hào trở lại, quầng thâm dưới mắt cũng biến mất sạch. Chẳng những thế hình như con bé còn có một giấc mơ tuyệt vời lắm. Marie hào hứng kể cho Nobutaka. “Con được cưỡi lên một bạn thú hiền ơi là hiền rồi cùng bay trên trời đêm đấy! Bạn thú lạ lắm nhé! Bạn ấy có chiếc mũi như mũi voi nhưng lại không phải là voi, thân mình đầy lông màu vàng mềm mại lắm!” “Vậy sao. Giấc mơ tuyệt vời quá con nhỉ.” “Vâng! Thích lắm ạ! Bạn thú còn bảo từ giờ trở đi sẽ thường xuyên tới chơi với Marie trong mơ và bảo vệ Marie nữa cơ. Bạn ấy hứa vậy đấy!” Trước nụ cười của con gái, Nobutaka vừa vui mừng vừa nhẹ nhõm, cả người cả tim đều như muốn tan ra. Mọi chuyện chắc ổn cả rồi. Nobutaka yên tâm đi tới công ty. Anh vừa bước vào văn phòng, đồng nghiệp đã liên tục hỏi thăm. “A, anh Yokote. Hôm qua có chuyện gì thế?” “Con gái anh không sao chứ?” Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 1 của tác giả Hiroshima Reiko.