Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa Ở Singapore

Mùa mưa ở Singapore xoay quanh mối tình của cô họa sĩ đường phố mang hai dòng máu Việt - Singapore gốc Trung tên Minh Tuyên và một du học sinh người Việt tên Kỳ Phong. Qua ngôi kể của hai nhân vật, cuộc sống hằng ngày của những người dân nhập cư trong khu Chinatown, khu Tiểu Ấn… hiện lên khá phong phú và rõ nét. Minh Tuyên với nguồn gốc xuất thân khá phức tạp: Mẹ cô là người Việt vượt biên, bị lừa bán vào một nhà chứa và gặp cha cô tại đây. Minh Tuyên đã từng yêu rất chân thành, nhưng vì hoàn cảnh, số phận và những câu chuyện kể rất đỗi thực, mà Di - người yêu đầu của cô cảm thấy quá khó để tiếp nhận và cứ thể quay bước ra đi. Ngược lại với Di, Kỳ Phong - anh chàng Việt Nam, dù chưa ở bên Minh Tuyên bao lâu, nhưng lại có ước muốn mãnh liệt được chở che cho Minh Tuyên và muốn lấy cô làm vợ. Nhưng tình yêu của họ gặp phải sự ngáng trở từ An Nhiên - một cô bạn “thanh mai trúc mã” với Kỳ Phong từ thuở nhỏ, người cứ đinh ninh sau này sẽ chỉ mình trở thành vợ của anh. Cộng thêm sự hậu thuẫn từ gia đình Kỳ Phong, An Nhiên đã “ngầm lôi kéo” được Kỳ Phong trở về Việt Nam. Buổi chia tay Kỳ Phong không hẹn ngày gặp lại, anh cũng không biết rằng có một mầm sống đã tượng hình trong cơ thể Minh Tuyên sau lần ân ái ban đầu. *** Nội dung của truyện xoay quanh mối tình của cô họa sĩ đường phố mang trong mình hai dòng máu Việt - Sing gốc Trung tên là Minh Tuyên và một du học sinh người Việt tên Kỳ Phong. Qua ngôi kể của Minh Tuyên và Kỳ Phong, cuộc sống hằng ngày của những người dân nhập cư trong khu Chinatown, khu Tiểu Ấn… hiện lên khá phong phú và được khắc họa rõ nét. Minh Tuyên với nguồn gốc xuất thân khá phức tạp: Mẹ cô là người Việt vượt biên, bị lừa bán vào một nhà chứa và gặp cha cô tại đây, ông đem lòng yêu bà và quyết tâm mang bà ra khỏi chốn này. Cuộc sống bao nhiêu năm không được như ý muốn khiến một lần nữa, mẹ Minh Tuyên lại sa vào chốn cũ. Bà cùng người tình lên kế hoạch vượt biển về Việt Nam nhưng bị bại lộ. Mẹ Minh Tuyên đã tự kết liếu đời mình bằng cách cắt tóc mình, bện lại, quấn vải xung quanh để thắt cổ. Nỗi khổ đau lớn nhất trong cuộc đời Minh Tuyên là cha cô bắt cô vẽ lại gương mặt của mẹ mình khi đó làm di ảnh thờ. Cũng khởi nguồn từ bi kịch này, Di - người đàn ông của Minh Tuyên đã rời bỏ cô trong sự im lặng sau khi tìm hiểu được mọi chuyện. Ngược lại với Di, sau khi có được tình yêu từ Minh Tuyên và được cô kể cho nghe mọi chuyện, Kỳ Phong có ước muốn mãnh liệt là được ở bên cạnh, chở che cho Minh Tuyên và muốn lấy cô làm vợ. Nhưng tình yêu của họ gặp phải sự ngáng trở từ An Nhiên - một cô bạn “thanh mai trúc mã” với Kỳ Phong từ thuở nhỏ, người cứ đinh ninh sau này sẽ chỉ mình trở thành vợ của anh. Cộng thêm sự hậu thuẫn từ gia đình Kỳ Phong, An Nhiên đã “ngầm lôi kéo” được Kỳ Phong trở về Việt Nam. Buổi chia tay Kỳ Phong không hẹn ngày gặp lại, anh cũng không biết rằng có một mầm sống đã tượng hình trong cơ thể Minh Tuyên sau lần ân ái ban đầu. Một tai nạn không may đến với Minh Tuyên, cô mất đi đứa bé khi cái thai mới được vừa ba tháng. Trong sự bơ vơ, cô đơn đến tận cùng, cô chấp nhận đi Bắc Kinh cùng Caleb - một người mà cô không yêu, chỉ tồn tại một tình bạn. Ngày Kỳ Phong trở lại Singapore, góc phố Pagoda không còn Tuyên nữa, chỉ còn những câu nói như nhắn nhủ: “Hãy tâm niệm rằng hạnh phúc chính là được tìm về lại nơi yêu dấu cũ, để nhớ về người xưa cũ của những ngày tháng đã qua. Hạnh phúc ấy chỉ có được, khi ta nhận ra rằng mình chẳng thể nào ngừng lại những hồi tưởng ấy.” *** Hãy Đọc Quyển Sách Này, Như Thấm Một Cơn Mưa! Những trang đầu của quyển sách này đã đánh lừa tôi, và chắc sẽ đánh lừa cả bạn. Bạn sẽ tưởng như đang đọc một câu chuyện quá nhẹ, quá lỏng lẻo, nhân vật mờ mờ, lẫn vào nhau đến nỗi dù chúng không nhiều lắm, nhưng ta thấy khó phân biệt. Thậm chí khó xác định ngay giới tính của nhân vật. Sau ít trang, có vẻ mọi thứ hơi khác. Tôi đã nghĩ có thể đây là câu chuyện về nỗi buồn của những người du học. Ở lứa tuổi đầy rung cảm đầu đời, họ bị rơi vào một môi trường không có sự ấm áp quen thuộc của quê hương, nơi họ lớn lên. Cho dẫu nơi họ đi học là một nơi rất đẹp đẽ, yên bình hay một nơi đầy ắp những âm thanh ào ạt của một nhịp sống đầy cuốn hút, lộn xộn và lạ lẫm của nền văn hóa khác… thì cái mà người trẻ đi học xa quê không tránh được - là nỗi cô đơn. Tôi nghĩ giờ đây, nỗi cô đơn ấy còn sâu sắc hơn. Nếu người du học trước kia có một nỗi cô đơn giản dị của kẻ xa nhà, thì giờ đây, những người trẻ đi học ở nước ngoài mang theo nỗi cô đơn ngay từ quê hương, nơi cuộc sống có quá nhiều nguyên do khiến tâm hồn trẻ hoang mang và lạc hướng (có lẽ, đó là khó khăn, cũng là ân sủng của cuộc đời cho họ - thế hệ trước như tôi không có ân sủng ấy). Họ khám phá ra rằng phía sau những khác biệt rất lớn, tưởng chừng như thể giữa hai thế giới khác nhau, của quê nhà và xứ người, là sự giống nhau đến lạ lùng của nỗi niềm, thân phận. Lời thốt lên “Singapore này thật quá nhỏ bé” như thể chứa một hàm ý sâu xa về sự giống nhau trong nỗi u uất, niềm cô đơn, sự thèm khát cảm thông, kiếm tìm và chờ mong tình yêu cứu rỗi - những trạng thái của tâm can ta có thể gặp ở bất kỳ đâu trên Trái đất này. Phải chăng sự giống nhau trong hiện đại hóa của nếp sống đem lại sự giống nhau trong tâm trạng mất phương hướng, cô đơn, chật hẹp? Nhưng rồi những chục trang viết tiếp theo cho ta thấy có vẻ đó cũng chẳng phải là chủ đề của tác phẩm không dài, cũng không ngắn bạn đang cầm trên tay. Các tình tiết, vẫn đơn giản, như quyện đặc lại dần, và bạn đã có cảm giác rằng đây không phải câu chuyện về những nỗi buồn vô cớ, mà là câu chuyện về những số phận khắc nghiệt, những cảnh đời không giản đơn. Mọi thứ ngột ngạt dần lên, gay gắt dần lên. Phải chăng đây là câu chuyện về những vết thương, về những người trẻ tuổi phải bước vào đời và phải sống với những vết thương khó lành trong tâm hồn? Phải có lý do để họ, vào tuổi yêu, trong một môi trường không bị đói nghèo thiếu thốn đe dọa, lại có cảm giác về sự nhỏ bé (có thật theo kích cỡ địa lý, không thật theo chiều kích nhân gian) của đất nước này: “Singapore bé nhỏ nhưng sao chẳng thể nào đi hết những mệt mỏi ở nơi này”… Hay đây là câu chuyện về một thế hệ, theo ngôn ngữ triết học hiện sinh, đang “bị ném vào” thế giới hiện hữu - cái thế giới là di sản của những năm tháng trước đó, cái thế giới vẫn bị sức ép và sự độc đoán của những năm tháng trước chi phối? Mỗi thế hệ tích lũy năng lực sống của mình theo một kiểu khác nhau - Không theo ý muốn của thế hệ đó, mà do bối cảnh quy định. Trong một thời buổi nhiều ngả rẽ này, không phải là lỗi của họ, nếu những người trẻ tuổi giờ đây không thể tích lũy năng lực sống theo cách giản dị, hào sảng, hồn nhiên, mà phải theo cách vật lộn với sự ngột ngạt, chật vật tìm tia sáng trong veo (liệu có còn?) của sự giao cảm giữa những trái tim. So với các thế hệ trước, họ sống trong một thế giới đỡ thiếu thốn hơn về vật chất và tự do cá nhân. Nhưng họ cũng chạm vào các dằn vặt, bế tắc, trống vắng… sớm hơn. Đó là lý do khiến có nhiều cơ sở để tin rằng, năng lực sống của họ sẽ bền vững hơn người ta có thể nghĩ. Cho đến cuối cuốn sách, bạn đọc, cũng như tôi, sẽ nhận ra rằng các phỏng đoán về chủ đề của tác phẩm này hóa ra đều không đúng, hoặc chỉ đúng một phần. Đọc hết trang cuối, bạn mới biết rằng đây không phải một câu chuyện chỉ bao hàm những điều mà bạn đoán. Đây đơn giản là một bài thơ. Một bài thơ rất buồn. Người ta không tìm nghĩa trong thơ. Người ta chỉ lặng yên để thơ thấm vào mình. Chính xác là cuốn truyện này thấm vào ta theo cách ấy. Lúc đầu nó khó đọc, không phải vì có trúc trắc gì trong chất liệu, mà chính bởi sự nhẹ bẫng của chất liệu. Nhưng đúng như tên gọi, nó là một cơn mưa. Không vội vã, không phải lúc nào cũng ào ạt, cơn mưa từ trang này sang trang khác cứ làm nặng dần, nặng dần không gian của câu chuyện, như nước mưa dần ngập bờ bãi. Tôi thú nhận là đã đọc phần đầu cuốn sách này trong một trạng thái khá hờ hững, vì đã tưởng đây chỉ là một thứ nhật ký biến hình của tuổi mới lớn. Nhưng khi hết cơn mưa, cũng là hết trang cuối, tôi ngạc nhiên khi nhận ra mình đã bị lừa một cách ngoạn mục. Tác giả đã viết như thể một người lơ đãng dúi xuống đất một cái cây con, rồi lơ đãng vun vén cho nó, đến lúc cái cây tự lớn lên, thành một thực thể khác hẳn, mà ta không kịp nhìn ra nó được chăm sóc thế nào. Dường như các trang viết tự trải ra, đúng thật như một cơn mưa, hạt mưa rơi trước kéo hạt mưa sau. Và mưa dứt cũng tự nhiên như khi nó bắt đầu. Chúng ta bất chợt thấy mình ướt đẫm bởi những giọt da diết, thương cảm, xót xa, ấm áp… mà những nhân vật của truyện đã trải qua. Còn có thể nói gì khác - chỉ có thể là một bút pháp quá chuyên nghiệp! 7/2011 Nhà báo Trần Đăng Tuấn Nguyên Phó tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam. *** Người ta bắt đầu treo đèn lên rồi. Cả khu Chinatown ửng hồng lên như một thiếu nữ Trung Hoa vừa vận xiêm y, tô son điểm phấn lại, uyển chuyển khoe khuôn mặt tươi như hoa, lấp lánh dưới những ánh đèn vàng. Nếu Chinatown là một thiếu nữ bằng xương bằng thịt, tôi đoán sẽ chẳng mấy chàng trai dám chạm đến bởi sự lung linh và huyền bí của nó. Nhưng đã thực sự chạm đến rồi, tôi e là người ta sẽ ngại ngần hơn rất nhiều. Tôi bày đồ nghề ra, ngồi chơ vơ trên chiếc ghế, thấp bé như một viên gạch xây nhà. Góc tôi ngồi, bên cạnh hàng bác Cheng, bác bán những bức tranh cổ về một Singapore từ những ngày xa xưa, từ cái thời đất nước này chỉ mới là một làng chài của người Mã Lai vào thế kỉ XIX. Bác Cheng, người đàn ông xấp xỉ năm mươi tuổi, ấy vậy mà râu tóc bạc trắng, bộ râu dài đến ngang cổ, bác tự hào về nó lắm. Bác Cheng là người có tâm hồn nghệ sĩ và lãng mạn nhất mà tôi từng được biết từ trước đến giờ. Những người như thế, chẳng bao giờ giàu được, bác Cheng rất nghèo. Nhưng những người như thế lại thấy hài lòng và sung sướng trong hoàn cảnh của chính họ. Tôi cũng là một họa sĩ nghiệp dư, ở đây hay gọi là “họa sĩ đường phố”. Tôi cũng nghèo, cái nghèo bắt nguồn từ gia phả, từ đời ông bà truyền sang cha mẹ, đến đời tôi, lại thêm đam mê cái nghiệp này, học hành chẳng được cao, bản thân cũng lãng mạn, mong manh, dồn ứ lại bên trong là cả một sự bất lực và bế tắc, nhưng lúc nào cũng tỏ ra quá ư cao ngạo. Thực tế, tôi chẳng có gì, ngoài những bức tranh. Thực tế, tôi biết mình chẳng khá lên được. Khu Chinatown bắt đầu nhộn nhịp, những gương mặt hòa lẫn vào nhau. Tôi ngồi chống cằm, đưa đẩy những bức tranh chân dung mẫu cho người đi lại dễ thấy. Tôi vẽ chân dung, tôi vẽ những gương mặt. Bức chân dung đầu tiên tôi vẽ là mẹ, khi ấy tôi mới lên sáu tuổi. Lúc ấy mẹ đã hôn lên trán tôi, và bảo rằng nhất định tôi sẽ trở thành một nữ họa sĩ nổi tiếng. Sau đấy, mẹ đã âm thầm tìm hiểu để mang về cho tôi những cuốn sách về hội họa đắt tiền, mẹ như thấy trước tài năng của tôi và động viên tôi cố gắng từng chút một. Và bức chân dung đó, mẹ luôn giữ bên mình, giờ tôi chẳng biết nó đang ở đâu nữa... Cứ nhớ đến thế, từng đoạn phim ký ức cứ tua lại chầm chậm, mí mắt tôi bắt đầu nặng dần. Tôi cúi mặt cho từng dòng ký ức trôi qua. Tôi làm việc này ngày qua ngày một cách đều đặn. Đêm đến, tôi thở dài trong sự chán nản trước khi nhắm nghiền đôi mắt. Một cô gái đứng trước mặt tôi, nghiêng nghiêng đầu, mái tóc ngắn được vén gọn gàng hai bên tai, đôi mắt to và sáng. Cô ấy cười với tôi, nụ cười như một bông hoa sen đang nở: - Bạn vẽ mất bao lâu? - Mười lăm phút. - Tôi trả lời. Cô ấy gật đầu, tôi chỉ vào chiếc ghế nhựa nhỏ, có lưng dựa. Cô gái ngồi xuống đấy, khẽ vén váy sang một bên. Tôi ngắm nhìn cô ấy một phút, chỉ hướng cho cô gái nhìn và bắt đầu những phân đoạn nhỏ cho tổng thể gương mặt. Một vài người qua lại tò mò và thích thú đứng lại xem, những lúc như vậy, tôi sẽ bắt đầu đông khách hơn. Họ lại giơ tay chỉ trỏ, bảo tôi vẽ thật tài tình. Tôi khẽ cười, vung những nét bút, ánh mắt nhìn lên, rồi lại nhìn xuống bản vẽ… Những gương mặt cứ đến, đi vào trong đôi mắt tôi mười lăm phút, rồi lại trôi đi, dễ dàng như ăn bữa cơm hằng ngày vậy. Cô gái cầm bức tranh, cười rất mãn nguyện: - Bạn vẽ đẹp quá! - Nghề của tôi mà. - Bao nhiều vậy? - Hai mươi lăm đô2. 2Đồng đô la Singapore. Cô gái cầm tranh, quay người đi, một người khác lại ngồi vào chiếc ghế đó. Tôi lại vung vẩy cây bút vẽ, không suy nghĩ gì mấy. Bác Cheng đứng ở gian hàng bên cạnh, nhìn sang cười hóm hỉnh. Rất nhiều lần như vậy, bác Cheng và tôi thường trao đổi với nhau về những kỹ thuật vẽ chân dung. Bác Cheng là người mê tranh cổ và am hiểu hội họa sâu sắc, mặc dù bác không phải là một họa sĩ. Cả khu phố dài nhộn nhịp, tiếng người qua lại, người mua kẻ bán, những đèn lồng đỏ hồng treo cao, tôi ngồi chống cằm nhìn, vẫn luôn thấy mình thật biệt lập. Những người khách đến không làm tôi thấy vui hơn, từ bao năm nay vốn đã như vậy, dường như tôi cũng chẳng có thói quen đếm tiền thường xuyên, tôi nhét tiền vào một hộp sắt nhỏ, hằng ngày lấy ra từ đấy, và vẫn thấy mình sống đủ qua ngày. Cuộc sống như một đoàn tàu, chạy chậm, đều mãi, không dừng lại bao giờ. Tôi hoàn thành bức vẽ cuối cùng vào lúc mười giờ, cất dọn đồ nghề xong, lững thững bước về, gió bắt đầu thổi nhè nhẹ, tôi cảm nhận rõ sự chuyển động của những sợi tóc mai nhỏ trên đầu mình. Các ông lão, bà lão của tôi bắt đầu dọn dẹp hết những bàn ăn còn sót lại. Tôi cười chào họ trong bóng đêm của một ngày tàn. Bàn chân bước chậm dần, phía sau lưng tôi, đèn lồng đã tắt. Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa Ở Singapore của tác giả Linh Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiền - Thư Tuyệt Mệnh
Đúng như nhan đề, tác phẩm kinh điển ra đời năm 1984 này là câu chuyện về tiền, những kinh khủng mà tiền gây ra, những tai ương mà tiền mang lại. Nhân vật trung tâm là John Self, kẻ đã sống một đời không tiết chế. Qua lại giữa London và New York, hắn thương thảo hợp đồng, tiêu xài vung tay và thực hiện những thương vụ liều lĩnh trong thế giới phim ảnh, đồng thời quơ cào mọi thứ có thể để thỏa mãn cho khẩu vị vô độ của mình: rượu, thuốc lá, thuốc an thần, văn hóa phẩm đồi trụy, thức ăn nhanh cùng vô số thứ tàn hại sức khỏe. Được kể theo lối độc thoại và gần như không có cốt truyện, tác phẩm vẫn chiếm vị thế nổi bật bởi những phẩm chất không dễ gặp: sắc sảo lộng óc, khôi hài cùng cực và lạc quan sâu sắc. Martin Amis từng cho rằng thước đo duy nhất để xác định thành công của một nhà văn là họ có còn được đọc sau 50 năm hay không. Đến nay, 33 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, Tiền - Thư tuyệt mệnh vẫn chia sẻ với độc giả những mối quan ngại đương thời sâu xa. Từ thời điểm ra đời, tác phẩm được xếp vào top 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất kể từ năm 1923. *** Trong tiểu thuyết Tiền, Jonh Self là kẻ kể chuyện, chính xác là lảm nhảm những câu chuyện trời ơi đất hỡi của hắn với đầy đủ những trạng huống hỉ, nộ, ái, ố... đẩy người đọc vào một vòng tròn vòng vèo, xoay quanh cuộc di chuyển của hắn giữa London và New York. Trong Tiền, John Self là kẻ theo đuổi đam mê cá nhân với sự quan tâm thấp hoặc không hề có đối với cộng đồng rộng lớn, kéo mình qua một chu kỳ tích lũy, tiêu dùng và cuối cùng là sự thỏa mãn – mô hình hoàn hảo cho một người đàn ông trưởng thành trong thời buổi hàng hóa. Bản thân John Self là một người đàn ông được nuôi nấng trên nền văn hóa tiêu dùng, với những câu chuyện nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách vô tội vạ, và anh ta dường như chính là kẻ có cách sống không có hệ tư tưởng nào.   Tiền là một cuốn sách châm biếm bậc thầy ở mọi thời đại, một cuốn sách hài hước tột bậc, thô tục khôn cùng, lấy cảm hứng từ một nghiên cứu tăm tối về sự cám dỗ của đồng tiền, với đầy những tham lam và phá hoại. Amis sở hữu một sự tinh tế thầm kín về ngôn ngữ. Thể hiện sự hâm mộ Nabokov một cách đầy tự tin, Amis chào Nabokov bằng một hệ thống tường thuật sự méo mó vô cùng đồ sộ và tinh xảo được tính toán rành mạch, thể hiện được phong cách làm chủ, đối thoại sắc bén và mạch lạc về ý nghĩa. Một cuốn sách đến hôm nay vẫn mang đậm hơi thở của thời đại, trong sự xoay sở trở mình vì tiền, loanh quanh những mối bận tâm vì tiền, sống chết vì tiền. Một cuốn sách vừa bủa vây, vừa thức tỉnh con người bởi vô vàn những lẫn lộn giữa thật giả xấu tốt. Tiền thành công không chỉ bởi đã tạo nên được một không khí xã hội luôn trong trạng thái thời thượng, mà hơn thế, Tiền còn giúp độc giả được thưởng thức một cuộc giao hoan chữ nghĩa, như một mê cung, để thỏa sức khám phá, để liên tục trải qua những cuộc sung sướng choáng ngợp mà chiêm ngưỡng tài năng của một bậc thầy ngôn ngữ. Nếu bạn yêu thích Nabokov, yêu thích dòng văn chương hậu hiện đại phá bỏ mọi nguyên lý cơ bản về câu chuyện, chấp nhận dấn thân vào một cuộc chơi đầy thách thức của từ ngữ, thì Tiền là cuốn sách không thể bỏ qua.  *** Martin Amis là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, người viết hồi ký và nhà biên kịch người Anh. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tiền và Cánh đồng Luân Đôn. Ông đã nhận được Giải thưởng Tưởng niệm Đen James Tait cho Trải nghiệm hồi ký của mình và đã được liệt kê cho Giải thưởng Booker hai lần. Nhà văn Martin Amis, giống như Dostoevsky, quan tâm nhiều đến cách các nhân vật của ông nhìn thế giới như thế nào. Trong dòng chảy này, câu chuyện của Self phản ánh niêm tin của chính mình. John Self là cơ hội để tác giả tạo ra một cuộc đối thoại đa cấp với các quan điểm ý thức hệ khác nhau, được thể hiện trong chính độc thoại của nhân vật, hoặc giữa các cuộc đối thoại giữa các nhân vật.   Mời các bạn đón đọc Tiền - Thư Tuyệt Mệnh của tác giả Martin Amis.
Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh - Boris Vasiliev
Và nơi đây bình minh yên tĩnh (tiếng Nga: А зори здесь тихие) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1969. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về cuộc chiến đấu ở hậu phương của một nhóm pháo thủ nữ Hồng quân nhằm ngăn cản âm mưu phá hoại của một tiểu đội lính dù Đức Quốc xã. Khi được tạp chí Thanh niên xuất bản vào năm 1969, tiểu thuyết đã ngay lập tức được độc giả đón nhận và trở thành một trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Liên Xô. Cùng với Tên anh không có trong danh sách, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng Tên anh chưa có trong danh sách với dịch giả Lê Đức Mẫn. Tác phẩm đã nhiều lần được chuyển thể thành phim điện ảnh, trong đó bộ phim cùng tên sản xuất năm 1972 đã được đại diện cho điện ảnh Liên Xô tranh Giải Oscar cho phim ngoại ngữ xuất sắc nhất. *** «… Bạn thân mến!   Ở đó bạn phải tất bật với công việc, còn chúng tôi lại ung dung đi câu cá ở một nơi thanh bình không vẩn một hạt bụi. Thực ra, tụi muỗi chết tiệt cũng có đốt, nhưng cuộc sống vẫn một màu tiên cảnh! Bạn hãy xin nghỉ phép và về đây với chúng tôi. Ở đây hoàn toàn không một bóng xe qua, một người đi lại. Mỗi tuần một lần chỉ có một chiếc xuồng máy chở bánh mì đến thôi, vì thế tha hồ mà rong chơi chả phải bận bịu gì đến quần áo. Phục vụ cho khách du ngoạn thì ở đây có hai hồ nước và một con sông đầy cá. Lại còn nấm mới nhiều nữa chứ!… À, hôm nay có một chiếc xuống máy chở đến một ông già vạm vỡ tóc bạc cụt tay và một đại uý bộ đội tên lửa. Người ta gọi đại uý là Anbert còn ông già thì đại uý gọi bằng bố. Họ đến tìm cái gì ở đây thì tôi cũng chẳng để tâm đến…   … Ngày hôm qua tôi không viết hết: sáng nay mới viết nốt. Thì ra ở đây trước kia cũng có chiến đấu… Chiến đấu khi tôi với anh còn chưa ra đời.   Anbert và người cha chở đến một tấm bia đá cẩm thạch. Chúng tôi tìm thấy một nấm mộ trong rừng bên kia sông. Bố ông đại uý nhận ra nhờ những dấu hiệu riêng. Tôi muốn giúp họ mang tấm bia vào tận nơi nhưng lại không dám.   Bình minh nơi đây thật là yên tĩnh, mãi hôm nay tôi mới nhìn ngắm kỹ càng». *** Boris Vasiliev sinh ngày 21/5/1924 ở Smolensk, Nga. Mùa hè năm 1941, ở tuổi 17, khi Đức quốc xã tấn công Liên bang Xô Viết, Vasiliev tham gia quân đội và đóng góp sức mình vào cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Những trải nghiệm từ chiến trường sau đó trở thành chất liệu cho các tác phẩm của Vasiliev.   Trong suốt sự nghiệp của mình, nhà văn đã xuất bản hơn 30 tiểu thuyết và truyện vừa. Các tác phẩm đều hướng tới việc kiếm tìm sự thật và ý nghĩa cuộc sống. Phần lớn tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đều được chuyển thể thành phim hoặc lên sân khấu ở Nga và nước ngoài.   Tiểu thuyết ngắn “Và nơi đây bình minh yên tĩnh” (А зори здесь тихие) được xuất bản năm 1969 là một trong những tác phẩm về đề tài Chiến tranh Vệ quốc nổi bật nhất thập niên 1960 và 1970 ở Nga. Tiểu thuyết được coi là cách Vasiliev chiêu hồn cho tất cả phụ nữ Nga đã hy sinh trong Thế chiến hai. Tác phẩm chọn thời điểm năm 1941, khi viên sĩ quan Vaskov chỉ đạo một tiểu đội toàn nữ ở hậu phương chiến đấu bảo vệ bầu trời Karelia. Hàng ngày, họ sống với những trò đùa tinh quái của lũ con gái mười tám, đôi mươi trước viên sĩ quan trẻ - thành viên nam duy nhất trong đội. Các cô gái trẻ trung, hồn nhiên, giàu ước mơ và cũng nhiều khát khao hạnh phúc. Dưới cánh rừng xanh tốt, vẳng tiếng nói cười hồn nhiên, trong trẻo của những cô gái tiểu đội pháo cao xạ. Cuộc sống qua đi trong bình yên, cho đến một lần, tiểu đội đối mặt với một toán lính dù của Đức quốc xã. Trước kẻ thù được trang bị vũ khí tối tân cộng với những khắc nghiệt của cánh rừng già, những cô gái trong tiểu đội đã hy sinh. Họ vĩnh viễn để lại tuổi xuân trên cánh rừng, giữa đầm lầy để hai mươi năm sau, khi Vaskov đưa người con trai nuôi trở lại thăm chiến trường xưa, mọi dấu vết của chiến tranh dường như khép lại, trước mắt anh chỉ còn thấy “nơi đây bình minh yên tĩnh”.   Năm 1972, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết của Boris Vasiliev đã nhận được đề cử Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Ngoài "Và nơi đây bình minh yên tĩnh", Boris Vasiliev còn nổi tiếng với truyện vừa "Tên anh không có trong danh sách" và nhiều tác phẩm khác.   Tại Việt Nam, tiểu thuyết này được Nhà xuất bản Cầu vồng in chung cùng “Tên anh không có trong danh sách” với bản dịch của Lê Đức Mẫn.   Mời các bạn đón đọc Và Nơi Đây Bình Minh Yên Tĩnh của tác giả Boris Vasiliev.
Trên Bờ Sông Hoang Vắng - Boris Polevoi
Từ “chặng đường đã qua”, ông đã rút ra những nguyên mẫu và những sự kiện cả cho tiểu thuyết “Trên bờ sông hoang vắng”, cuốn sách viết về những người công nhân xây dựng một nhà máy thủy điện có công suất lớn ở Xi-bê-ri. Hàng nghìn con người từ khắp mọi miền của đất nước đã đổ đến đây, đến bên bờ của con sông lớn, nơi thâm sơn cùng cốc của vùng rừng tai-ga này. Và mỗi người đều tìm ra “mảnh đất dụng võ” của mình. Nơi đây đã diễn ra một cuộc khảo sát cả về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của mọi người, và những khát vọng đạo đức và nhu cầu cá nhân của họ... *** Tác giả cuốn sách này - Bô-rít Pô-lê-vôi (1908 - 1981) - là một nhà văn Nga nổi tiếng, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa, đã được tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Ông đã viết gần ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn “Truyện một người chân chính” mà cả thế giới đều biết.   Bô-rít Pô-lê-vôi không hề hư cấu các nhân vật chính, các sự kiện chủ chốt trong các tác phẩm của mình. Ông đã tìm chọn các nhân vật và các sự kiện như vậy từ thực tế cuộc sống. Chính ông, chứ, có lẽ không ai khác, có toàn quyền tuyên bố: “Tôi đã sống trọn cả cuộc đời văn học giữa các nhân vật của mình”. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn đắm mình trong thực tế, Pô-lê-vôi đã tiếp xúc với rất nhiều con người tuyệt vời của thời đại chúng ta, ông đã viết về họ một cách đầy cảm phục và tự hào về tình bạn đối với họ. “Thật vui sướng biết bao nhiêu được sống giữa các nhân vật của mình, được trao đổi thư từ với họ, được theo dõi xem cuộc sống sẽ tiếp tục và phát triển một cách chính xác đến mức nào, hướng đi của các tính cách được miêu tả trong các cuốn sách, và phần kết của chúng, bạn, với tư cách là tác giả, đã đánh dấu chấm hết từ lâu”, - ông đã viết như vậy trong tập bút ký “Nhìn lại chặng đường đã qua”.  *** -... Mãi tối hôm đó, em mới làm cho cô ta tỉnh lại. Bọn em đã kiệt sức. Em không còn hy vọng nữa. Sau cùng, cô ấy lắc đầu và hé mở con mắt còn nguyên vẹn, - vài hôm sau, Đi-na kể cho Đi-u-giép. Họ ngồi trên đỉnh lèn Kỳ diệu, trên một chiếc ghế dưới gốc cây thông rậm lá. Một đêm màu lam, thơm ngát mùi hương, vi vo tiếng muỗi, trùm lên trên dòng sông bị chinh phục. Một đêm thanh khiết, đêm mùa hè ấy, ở giữa rừng tai-ga, mà những ánh sáng ở công trường và những ngọn lửa hàn lập lòe hầu như không thay đổi được màu sắc thiên nhiên của nó. Trước đây, lúc mới khởi công, những bàn tay thân thiết của những người nào đó đã làm nên chiếc ghế này trên cao nguyên thu nhỏ lại. Từ đó nó là nơi ẩn náu của những cặp tình nhân và những người mơ mộng. - Toàn thân cô ấy đều bị thương, ruột đứt, xương gãy. Tuy vậy, cô ấy vẫn cố nói điều gì đó, - Đi-na nói tiếp, mắt thẫn thờ. - Em cúi xuống và đoán ra hơn là nghe thấy những lời cô ấy thều thào: “Cháu bé, cháu bé...” Cô ấy lo cho con. Anh Pa-ven, thật là sung sướng biết bao được nói với cô ấy: “Cháu còn sống!” Em cho đem đến máu sinh mệnh bé tí bọc trong tã bông lấy trong lồng ấp trẻ sơ sinh ra. Pa-ven, anh sẽ không tin em, vì phải là phụ nữ mới tin được điều đó. Này nhé, con mắt nguyên vẹn trên bộ mặt sưng phù, đẫm máu ấy biểu lộ một niềm vui, vâng, một niềm vui. Một ảo ảnh, anh sẽ nói với em thế chứ gì? Ổ, không, không phải đâu anh ạ!. . Em vô cùng xúc động. Đi-na cắn môi. Chị nhìn mỏm Đầu bò ở bên kia sông, giống như vẽ bằng mực tẩu lên nền đêm màu xanh nhạt - Anh có biết Va-xi-li-xa ví Ma-ri-a với con gì không? Con tu hú. Lần này thì cô bé đã nhầm, phải không anh? Có thật người ta quyết định chôn cô ấy ở công viên Anh Hùng, bên cạnh những người du kích đưa từ rừng tai-ga về không? - Ông cụ bảo thế. - Có thật Ông cụ cử anh đến U-xchi-Tséc-na-va để chỉ huy chi nhánh của công trường không?   Mời các bạn đón đọc Trên Bờ Sông Hoang Vắng của tác giả Boris Polevoi.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói - Bruno Apitz
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. *** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó. Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịch Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Giữa Bầy Sói của tác giả Bruno Apitz.