Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Án Mạng Mười Một Chữ

Tình cờ phát hiện những điều bất thường sau cái chết thảm khốc của người yêu, nhân vật “tôi”, một nữ nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám đã cùng bạn mình, Hagio Fuyuko, cũng là biên tập viên phụ trách sách của “tôi” quyết định điều tra về cái chết này. Trong quá trình điều tra hai người phát hiện người yêu của “tôi” đã từng gặp tai nạn lật thuyền trong chuyến du lịch đảo một năm trước. Và khi họ tìm tới những người cũng tham gia chuyến đi đó để tìm hiểu thì những người này cũng lần lượt bị sát hại. Cuối cùng “tôi” buộc phải tự mình phán đoán, điều tra để tìm ra chân tướng sự việc. Án mạng mười một chữ cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình vào năm 2011. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Review Mọt Mọt:   Án mạng mười một chữ: Higashino Keigo – Những kẻ vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ Khi một vụ án chẳng ai là người trong sạch. Khi tình bạn bị lợi dụng cho mục đích cá nhân. Khi sự thật được phơi bày khiến tất cả đều thương tổn. Bên tình, bên lý, biết chọn bên nào? Án mạng mười một chữ, nỗi đau quá khứ, kéo dài tới hiện tại, lạnh lùng, tàn nhẫn mà đắng cay, chua chát. Cuốn tiểu thuyết mang âm hưởng của trinh thám cổ điển Ra đời vào năm 1987, có thể nói, Án mạng mười một chữ được Higashino Keigo xây dựng rất khác so với các tác phẩm sau này: ngắn gọn, súc tích, tập trung nhiều hơn về mặt tình tiết, quá trình điều tra, phá án. Từ đấy, ông đã đưa sáng tác tiến gần hơn với thể trinh thám cổ điển. Xét về mặt dung lượng, tiểu thuyết Án mạng mười một chữ chỉ gói gọn trong 258 trang truyện, ngắn hơn nhiều khi đặt cạnh hàng loạt các tác phẩm về sau của Keigo-sensei như Bí mật của Naoko, Đơn phương, Bạch dạ hành hay Phương trình hạ chí… Bởi thế, dòng sự kiện của tác phẩm được chú trọng vào cốt truyện chính: quá trình một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám đi tìm lời giải đáp cho cái chết đầy bí ẩn của người đàn ông cô yêu. Và trong quá trình đó, cô gái ấy khám phá ra hàng loạt bí ẩn cả trong quá khứ lẫn hiện tại, cả các bí mật về những con người cô vốn không quen biết tới người bạn cô vốn tưởng đã rất thân quen. Từ đấy, Keigo tiên sinh tạo lên kết cấu truyện lồng truyện, sự việc này nối tiếp, là nhân quả cho sự việc kia: Bí ẩn hôm nay, liên đới với cái chết năm xưa; hành động trả thù cho quá khứ, làm nên án mạng trong hiện tại. Một khía cạnh nữa khiến cho Án mạng mười một chữ trở lên gần gũi với các tác phẩm trinh thám cổ điển còn nằm ở yếu tố: Keigo-sensei đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng tình tiết và tạo dựng những cuộc đối thoại, tương tác giữa các nhân vật. Nói như thế không có nghĩa Án mạng mười một chữ thiếu đi các phân cảnh miêu tả nội tâm hay sự biến đổi tâm trạng nhân vật. Vẫn có những day dứt, những hối hận, những mệt mỏi, những sợ hãi… của một con người theo đuổi đến cùng hai chữ chân lý, của một cô gái lần đầu vướng vào những bí ẩn liên hoàn đã cướp đi người đàn ông cô yêu, người bạn thân của cô, thậm chí bản thân cô thiếu chút nữa cũng đã mất mạng. Nhưng trong cuốn sách 258 chương, tình tiết liên tiếp, dồn dập diễn ra; cùng với đó là bản thân nhân vật tôi gặp gỡ hàng loạt nhân vật khác, những người liên đới trực tiếp tới vụ án; vì thế tần suất của các cuộc đối thoại cũng trở nên dày đặc. Không chỉ vậy, trong Án mạng mười một chữ, tác giả còn kết hợp sử dụng nhiều câu văn ngắn, điều đó càng góp phần đẩy mạnh nhịp truyện cũng như tiến trình sự kiện diễn ra nhanh hơn nữa. Nhưng tất cả, đều nằm trong một trục quá trình: Hành trình tìm kiếm sự thật của nữ nhà văn viết truyện trinh thám, đang tự đặt mình vào vai thám tử trong câu chuyện cuộc đời của chính cô. Đồng thời, tác giả cũng khước từ việc gắn Án mạng mười một chữ với những vấn đề quá mức đao to búa lớn trong xã hội. Cho nên tác phẩm dẫu mang hình thức truyện lồng truyện, một án mạng không đứng độc lập mà luôn gắn với bí ẩn phía sau – động cơ gây án của hung thủ và án mạng có thể tiếp nối án mạng mãi chẳng dừng nếu hận thù con người chẳng dứt thì cốt truyện của Án mạng mười một chữ vẫn rất gọn. Từ đó mà làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên gần gũi hơn với trinh thám cổ điển. Những kẻ, vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ. Mặc dù mang nội dung, cốt truyện và cách triển khai cốt truyện gần với trinh thám cổ điển thì Án mạng mười một chữ vẫn là một tác phẩm trinh thám chứa đựng những yếu tố trinh thám hiện đại do Higashino Keigo sáng tạo lên. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm – xưng tôi, tự kể lại trải nghiệm của bản thân về vụ án, về quá trình cô điều tra, phá án để đi tới được ánh sáng ẩn sau bức màn. Nhưng nhân vật ấy lại không phải thám tử hay điều tra viên chuyên nghiệp. Cô chỉ là một nhà văn tự do viết tiểu thuyết trinh thám mà thôi. Vì thế bản thân cô hẳn chưa khi nào tưởng tượng tới việc chính mình lại trở thành nhân vật chính cho tấn bi kịch kéo dài với đủ plot twist như một cuốn truyện trinh thám như vậy. Cũng bởi không phải người điều tra chuyên nghiệp, tiếp cận vụ án với tâm thế của người đến sau, bị động nên “tôi” không tránh khỏi những hành động, suy đoán có phần nghiệp dư, nhẹ dạ, thậm chí ngây thơ. Và đây hoàn toàn là tâm lý tự nhiên của con người khi phải ứng phó với một hoàn cảnh bất ngờ, khi phải đối diện trước sự phức tạp của sự việc lẫn lòng người như thế. Sáng tạo lên một nhân vật chuyên sáng tác trinh thám đồng thời đặt nhân vật đó một tác phẩm trinh thám để giải quyết vụ án chính nhân vật vướng phải, đây vừa là sáng tạo, cũng vừa là cách thức Keigo-sensei phần nào tái hiện hiện thực: sự khác biệt rất lớn giữa đời sống với trang văn. Bên cạnh đó, ngoài hình thức truyện lồng truyện, Án mạng mười một chữ còn mang kết cấu đa thanh, đa bội ngôi kể, đa dạng điểm nhìn ở từng chương truyện. Đó là sự đan xen của bốn màn độc thoại ngắn vào mạch truyện chính. Ở đó, người độc thoại không phải nhân vật “tôi” – nữ nhà văn trinh thám mà là một “tôi” khác, theo sát bước chân nhân vật chính đồng thời tham gia trực tiếp vào hàng loạt vụ án mạng trong hiện tại. Tất nhiên, nếu độc giả là một người đã quá quen thuộc với dòng truyện trinh thám thì không thật khó khăn để biết được, tôi trong bốn màn độc thoại ngắn kia là ai. Nhưng sáng tạo lên một cái “tôi” bí ẩn, Keigo-sensei đã tạo lên tính phức hợp, phức điệu cho cuốn tiểu thuyết chỉ hơn 200 trang của ông. Ở đấy, có sự đa thanh của lời kể, đặt độc giả vào những dòng tự sự khác nhau, qua những điểm nhìn khác nhau để từ đó, người đọc có được cái nhìn tổng quan, toàn diện, đa chiều về hệ thống nhân vật cũng như toàn bộ câu chuyện ông xây dựng. Để từ đó, người đọc nhận ra, Án mạng mười một chữ gần gũi với trinh thám cổ điển, cũng dễ đoán biết hung thủ của những vụ án liên hoàn là ai, song đây không phải một cuốn tiểu thuyết được tạo dựng lên một cách đơn giản. Mà trong câu chuyện đó, trong tấn bi kịch kéo dài mãi từ quá khứ cho tới hiện tại và có thể vẫn tiếp nối tới tương lai, là muôn vàn gương mặt: vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ, không ai hoàn toàn trong sạch song cũng không ai lại đáng trách hoàn toàn. Kẻ là nạn nhân hôm nay, trong quá khứ khi xưa đã từng là hung thủ của một vụ ám sát đầy tàn độc. Hung thủ trong hiện tại, lại là nạn nhân của bi kịch quá khứ. Nạn nhân trong quá khứ, phần nào lại trở thành hung thủ khi đặt trên sự phán xét của khía cạnh đạo đức. Kẻ như đứng sau tất cả bi kịch, lại bỗng trở thành nạn nhân nếu toàn bộ sự thật bị phơi bày… Ai cũng có động cơ riêng, ai cũng có nỗi khổ tâm riêng đẩy người ta vướng vào tội ác. Xây dựng lên những khuôn mặt đó, Keigo-sensei lần nữa, đưa tác phẩm của ông tiến gần tới hiện thực cuộc sống. Bởi cuộc sống đa diện và phức tạp, phải – trái, trắng – đen, đúng – sai,… vốn đâu thể lúc nào cũng có thể phân định rạch ròi. Vì thế, sự thật vốn được giấu trong chiếc hộp Pandora, khi người ta nhất quyết khai mở, chạm vào đó chỉ là nghiệt ngã, khổ đau, day dứt. Và con người, đứng trước hiện thực tàn nhẫn, chỉ có thể lựa chọn cách giải quyết để xoa dịu tâm hồn, để bản thân không phải hối hận về sau. Giống như một phương trình có vô số nghiệm, người ta chỉ có thể lựa chọn nghiệm tối ưu cho cuộc đời mà thôi. Và ở khía cạnh này, Higashino Keigo đã gặp gỡ tác giả Agatha Christie, khi bà viết lên Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông cũng với những gương mặt vừa là hung thủ, vừa là nạn nhân như vậy. Nhưng với lối tạo dựng cốt truyện, cách tạo dựng hệ thống nhân vật và khắc họa từng cá nhân, mỗi cái “tôi” khác nhau mà Keigo-sensei đã tạo lên Án mạng mười một chữ thật sự là của riêng bản thân ông, một tác phẩm, vừa cổ điển cũng vừa hiện đại. Dẫu sự thật ra sao, cuộc sống vẫn tiếp tục chảy trôi không ngừng. Có lẽ, cách kết truyện của Án mạng mười một chữ với một hiện thực phơi bày: ai cũng là nạn nhân, ai cũng là hung thủ và chẳng kẻ nào phải trả giá trước pháp luật là một cái kết khó chiều lòng tất cả độc giả, đặc biệt những ai muốn có sự rạch ròi, muốn kiếm tìm sự trắng – đen phân minh trong một tác phẩm trinh thám. Nhưng như đã nói, cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng thể phân rõ phải – trái, đúng – sai và dẫu sự thật có ra sao, người ta chọn cách sống thế nào, thì thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi, cuộc đời vẫn tiếp tục diễn tiến và con người vẫn phải tiếp tục hướng đến tương lai. Chỉ là, hận thù chắc chắn không thể giải quyết bằng hận thù, kéo dài đau thương, bi kịch chỉ khiến cho tâm hồn thơ dại, trong sáng của những đứa trẻ vô tội như cô bé Yumi càng thêm đau khổ mà thôi. Vậy tại sao, mỗi người không buông bỏ thù hằn, như nhân vật “tôi”, đã chấp nhận sự phức tạp của cuộc đời để có thể đối diện với tương lai bằng thái độ bình thản nhất: “Nhưng từ giờ mọi chuyện ra sao cũng được, tôi sẵn sàng đón nhận. Vì tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Dù ngày mai có xảy ra chuyện gì, thì hôm nay cứ đi ngủ cái đã.” *** Anh đang bị đưa vào tầm ngắm đấy.” Anh nghiêng ly rượu bourbon. Những viên đá trong ly lanh canh nhảy múa. “Bị đưa vào tầm ngắm?” Nghĩ anh đang đùa, tôi nhếch môi cười, hỏi lại. “Nhưng cái gì… bị ngắm cơ?” “Tính mạng anh.” Anh trả lời. “Hình như ai đó đang muốn giết anh.” Tôi vẫn cười. “Tại sao người đó lại muốn giết anh?” “À thì…” Anh im lặng chốc lát rồi tiếp tục. “Anh cũng không biết. Tại sao vậy nhỉ?” Giọng anh nặng nề quá đâm tôi không cười nổi nữa. Ngắm nghía khuôn mặt nhìn nghiêng của anh một hồi, tôi quay qua nhìn gương mặt người pha chế đang đứng quầy, rồi nhìn lại tay mình. “Tức là anh không biết tại sao, nhưng linh cảm thế à?” “Không chỉ linh cảm thôi đâu.” Anh nói. “Anh đang gặp nguy hiểm thật đấy.” Rồi anh gọi thêm một ly bourbon nữa. Tôi nhìn quanh, để chắc chắn không ai để ý, rồi mới quay sang gương mặt nhìn nghiêng của anh, cất lời: “Anh có thể giải thích rõ hơn được không? Rốt cuộc đã có chuyện gì?” “Thì đấy…” Anh uống cạn ly rượu, rồi châm lửa hút thuốc. “Anh đang gặp nguy hiểm. Vậy thôi.” Rồi anh nói khẽ: “Anh cũng thật là… Không định nói với em, mà lại lỡ lời. Chắc do ảnh hưởng của câu chuyện hồi trưa.” “Chuyện hồi trưa?” “Không có gì đâu,” anh lắc đầu. “Nói chung em không cần biết chuyện này.” Tôi chăm chú nhìn cái ly trong tay mình. “Vì em có biết cũng chẳng giải quyết được gì à?” “Không chỉ vì mỗi lý do đó.” Anh nói. “Em biết chỉ thêm lo thôi. Trong khi nỗi bất an của anh thì vẫn còn đó.” Tôi không đáp lại lời anh, chỉ bắt tréo hai chân đang để dưới quầy. “Này, tức là ai đó đang muốn hãm hại anh à?” “Ừ, cứ cho là vậy đi.” “Anh có thấy gì khả nghi không?” “Em hỏi lạ quá!” Lần đầu tiên anh bật cười kể từ lúc bước vào quán bar này. Làn khói màu trắng bồng bềnh phả ra từ kẽ răng. “Em nghĩ có ai đang yên đang lành lại kêu tính mạng mình đang bị đe dọa không? Em thì sao?” “Ừ thì…” tôi ngập ngừng. “Có thể không mà cũng có thể có. Vì em nghĩ chủ ý sát nhân xét cho cùng cũng giống với quan điểm sống thôi.” “Anh cũng nghĩ vậy.” Anh khẽ gật đầu. “Vậy là anh thấy gì đó khả nghi đúng không?” “Không phải tự mãn đâu, nhưng anh tìm được manh mối ở nhiều việc lắm.” “Nhưng anh lại không thể nói ra.” “Vì anh có cảm giác nếu nói ra rồi, thì những hoài nghi ấy sẽ trở thành sự thực.” Rồi anh tiếp. “Anh nhát gan lắm.” Sau đó chúng tôi im lặng ngồi uống rượu, đến khi mệt rồi thì đặt ly xuống, rời khỏi quán, thả bộ trên con đường mưa rơi. _Anh nhát gan lắm._ Tôi vẫn nhớ lời sau cùng của anh. 2 Tôi quen Kawadu Masayuki qua sự giới thiệu của một người bạn. Người bạn đó biên tập sách của tôi, tên Hagio Fuyuko. Fuyuko bằng tuổi tôi, là người phụ nữ chỉ biết đến công việc, và làm ở nhà xuất bản đã gần mười năm nay. Cô luôn đóng bộ áo vest đĩnh đạc như phụ nữ nước Anh, bước đi đầy tự tin. Tôi chơi với cô từ khi bước vào giới này, thấm thoắt cũng đã được ba năm. Nhưng khoảng hai tháng gần đây, một Fuyuko như thế bỗng nhiên lại hăng say bàn tán chuyện đàn ông nhiều hơn là bản thảo. Đúng cái hôm có thông báo quần đảo Amami sắp bước vào mùa mưa. “Tớ biết một anh chàng tuyệt lắm.” Cô nói với gương mặt nghiêm túc. “Một nhà văn tự do tên là Kawadu Masayuki. Cậu biết anh ấy không?” Tôi trả lời là không biết. Tên người cùng ngành lắm lúc tôi còn chẳng biết. Huống chi mấy nhà văn tự do. Theo lời Fuyuko kể thì anh Kawadu Masayuki đó sắp ra sách, và họ đã dần trở nên thân thiết sau vài lần tình cờ cùng tham gia mấy buổi họp xuất bản. “Anh ấy cao, đẹp trai lắm.” “Ừ.” Fuyuko mà lại nói về đàn ông cơ đấy, thật hiếm hoi làm sao. “Tớ thật muốn gặp người được Fuyuko khen hết lời như vậy một lần.” Nghe tôi nói, cô cười đáp: “Ừ, vậy để lần tới nhé.” Tôi chỉ tiện miệng nói chơi, mà hình như cô cũng chẳng cho là thật. Thế nên chẳng bao lâu sau tôi đã quên béng mất lời hẹn như mấy câu chuyện làm quà khác ấy. Nhưng sau đó vài tuần, rốt cuộc tôi cũng gặp Kawadu Masayuki. Anh tình cờ có mặt trong quán bar tôi đến cùng Fuyuko. Cùng đi với anh là một họa sĩ to béo đang mở triển lãm cá nhân tại Ginza. Kawadu Masayuki quả là một người đàn ông bảnh bao. Anh cao khoảng một mét tám, gương mặt thon gọn, rám nắng. Chiếc áo jacket màu trắng trông thật hợp với anh. Vừa nhìn thấy Fuyuko, anh liền vẫy cánh tay đang đặt trên mặt quầy gọi. Fuyuko thoải mái bắt chuyện với anh, rồi giới thiệu tôi. Đúng như tôi dự đoán, anh chưa từng nghe đến tên tôi. Kể cả khi nghe giới thiệu tôi là nhà văn viết truyện trinh thám, anh cũng chỉ gật đầu như thể đang bối rối. Hầu hết mọi người đều có phản ứng tương tự khi nghe tôi giới thiệu như vậy. Sau đó, cũng tại quán bar ấy, chúng tôi trò chuyện một lúc lâu. Giờ ngẫm lại, tôi vẫn thấy lạ, không hiểu sao chúng tôi có thể nói chuyện lâu đến vậy. Tôi cũng không nhớ nổi chúng tôi đã nói những gì với nhau. Trừ một việc là sau cuộc nói chuyện đó, chỉ có tôi và Kawadu Masayuki rời khỏi quán. Chúng tôi đi đến một quán khác, rồi rời đi sau khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi hơi say, nhưng chưa tới mức cần anh đưa về. Mà anh cũng không gượng ép đề nghị. Ba ngày sau, anh gọi điện, mời tôi đi ăn. Tôi không có lý do nào để từ chối, sự thực thì anh là một người đàn ông không tồi, nên tôi cũng chẳng mấy do dự, cứ thế nhận lời. “Tiểu thuyết trinh thám hay ở điểm nào vậy?” Anh hỏi khi chúng tôi đang nhâm nhi chút rượu vang ở nhà hàng trong khách sạn. Tôi không nghĩ ngợi gì, chỉ máy móc lắc đầu. “Nghĩa là cô không biết?” anh hỏi. “Tôi mà biết thì sách của tôi đã bán chạy hơn rồi,” tôi đáp. “Thế anh nghĩ nó hay ở điểm nào?” Anh vừa gãi gãi mũi vừa nói, “Hay ở điểm người ta đã tạo ra nó chăng?” “Những vụ án trong đời thực nhiều khi không phân định rạch rời trắng đen. Ranh giới giữa cái đúng và cái sai rất mơ hồ. Vậy nên dù vấn đề được đặt ra rồi, nhưng người ta lại không thể mong chờ một kết luận tương xứng. Bởi vì nó chỉ là một phần của cái gì đó lớn lao mà thôi. Nhưng ở điểm đó thì tiểu thuyết lại làm trọn vẹn. Đó là một dạng kết cấu. Và tiểu thuyết trinh thám chẳng phải là thể loại kỳ công nhất trong việc xây dựng kết cấu đó hay sao?” “Có lẽ là vậy,” tôi nói. “Anh đã bao giờ phải trăn trở trước ranh giới giữa cái đúng và cái sai chưa?” “Có chứ.” Anh nhếch môi. Tôi nghĩ anh không nói dối. “Rồi anh có đem nỗi trăn trở ấy viết vào sách không?” “Cũng có,” anh đáp. “Nhưng phần lớn là tôi không thể làm được.” “Tại sao lại không thể?” “Vì nhiều lý do lắm.” Gương mặt anh hơi khó chịu, nhưng chỉ một loáng sau anh đã lấy lại vẻ hiền lành vốn có, và rồi bắt đầu nói về tranh vẽ. Tối hôm đó anh đến căn hộ của tôi. Căn hộ vẫn còn vương lại mùi của người chồng cũ. Thoạt đầu trông anh có vẻ hơi lúng túng nhưng chỉ một lát sau anh lập tức quen ngay. “Anh ấy từng là nhà báo,” tôi nói về chồng cũ. “Anh ấy hiếm khi ở nhà. Rồi rốt cuộc cũng chẳng còn lý do nào để trở về ngôi nhà này nữa.” “Và thế là anh ta không quay lại đây nữa?” “Vâng.” Trên chiếc giường chồng cũ từng ôm ấp tôi, Kawadu Masayuki đã cho tôi những khoái cảm dịu dàng hơn rất nhiều so với người chồng cũ. Làm tình xong, anh còn vòng tay ôm vai tôi, đề nghị, “Lần sau em đến chỗ anh nhé?” Chúng tôi gặp nhau khoảng một, hai lần một tuần. Hầu hết là anh đến chỗ tôi, nhưng cũng đôi khi tôi tới nhà anh. Anh độc thân, hình như cũng chưa từng kết hôn, vậy mà phòng ốc lại ngăn nắp như thể phòng của người đã lập gia đình. Tới mức tôi còn tưởng tượng hay là có ai đó dọn dẹp phòng giúp anh? Rồi chẳng mấy sau đó, mối quan hệ của chúng tôi bị Fuyuko phát hiện. Số là Fuyuko đến chỗ tôi lấy bản thảo đúng lúc anh đang có mặt ở đó, nên tôi không thể bịa ra được lý do nào để giải thích. Mà thật ra tôi cũng đâu cần phải giải thích điều gì. “Cậu yêu anh ta à?” Fuyuko hỏi lúc chỉ có hai người chúng tôi. “Tớ thích anh ấy,” tôi trả lời. “Thế cậu có định kết hôn không đấy?” “Làm gì có chuyện.” “Vậy à.” Fuyuko thở phào như trút được gánh nặng, đôi môi khẽ nở một nụ cười duyên dáng. “Thấy hai người thân thiết, người bắc cầu như tớ đây cũng vui lắm. Nhưng cậu đừng sa đà quá. Cứ duy trì mối quan hệ như hiện tại thôi.” “Không sao đâu. Tớ đã có bài học nhớ đời rồi mà,” tôi nói. Rồi hai tháng trôi qua. Mối quan hệ giữa tôi và Kawadu Masayuki vẫn được duy trì đúng mực như lời hứa với Fuyuko. Ngay cả hồi tháng Sáu, khi chúng tôi đi du lịch cùng nhau, may thay anh cũng không đả động gì tới chuyện kết hôn. Bằng không hẳn tôi phải bối rối lắm. Nhưng nghĩ lại, dẫu anh có nhắc đến chuyện kết hôn thì cũng chẳng có gì là lạ. Anh đã ba mươi tư tuổi, tính chuyện lập gia đình cũng là lẽ đương nhiên. Hay là anh cũng đang cố duy trì một mức độ nhất định nào đó trong mối quan hệ với tôi? Nhưng nếu cứ mải bận tâm đến điều đó e là tôi sẽ làm mất đi ý nghĩa của mối quan hệ này mất. Thế rồi khi chúng tôi quen nhau được hai tháng. Thì Kawadu Masayuki chết ngoài biển. 3 Vào một ngày tháng Bảy, cảnh sát đến thông báo cho tôi về cái chết của anh. Anh ta điềm tĩnh, song vẻ ngoài tầm thường hơn nhiều so với những cảnh sát tôi vẽ ra trong tiểu thuyết của mình. Có thể dùng từ “có sức thuyết phục” để miêu tả về người này. “Sáng nay, người ta phát hiện một thi thể nổi trên vịnh Tokyo. Khi vớt thi thể ấy lên, từ di vật còn sót lại chúng tôi xác định đó là anh Kawadu Masayuki.” Vị cảnh sát nhỏ nhắn nhưng có vẻ khỏe mạnh gần bốn mươi tuổi thông báo. Bên cạnh anh ta là một cảnh sát trẻ khác. Anh này thì chỉ yên lặng đứng đấy. Tôi mất vài giây không thốt nên lời, sau đó nuốt nước bọt. “Vậy là các anh xác định được danh tính rồi ạ?” “Vâng,” vị cảnh sát thu cằm lại. “Nạn nhân quê ở Shizuoka. Em gái anh ta đã đến nhận dạng thi thể, ngoài ra chúng tôi cũng đã giám định răng và chụp X quang.” Rồi vị cảnh sát nhấn mạnh thêm, “Kết quả cho thấy đó là anh Kawadu Masayuki.” Thấy tôi vẫn im lặng, anh ta tiếp, “Có thể phiền cô bớt chút thời gian để chúng ta thong thả trao đổi không?” Cánh cửa trước sảnh ra vào vẫn đang mở. Tôi đề nghị họ đợi ở quán cà phê gần nhà, nghe vậy hai vị cảnh sát khẽ gật đầu rồi rời đi. Nhưng đến khi họ đi khuất, tôi vẫn đứng ở cái sảnh ấy, lơ đễnh nhìn ra bên ngoài, mãi sau mới thở dài, đóng cửa, đi về phòng ngủ, thay đồ để ra khỏi nhà. Đứng trước bàn trang điểm để tô chút son mà tôi như ngừng thở. Gương mặt phờ phạc của tôi phản chiếu trong tấm gương. Trông tôi có vẻ mệt mỏi ngay cả với việc biểu lộ cảm xúc. Tôi rời mắt khỏi cái gương, lấy lại nhịp thở, rồi nhìn lại khuôn mặt mình trong gương. Lần này có vẻ khá hơn rồi. Tôi gật gù hài lòng với biểu cảm ấy. Tôi thích anh ấy. Nhưng anh đã chết, tôi buồn là lẽ đương nhiên. Vài phút sau, tôi đã ngồi đối diện hai vị cảnh sát trong quán cà phê mình vẫn thường hay lui tới. Ở đây còn bán cả bánh ngọt nữa. Bánh ở đây tươi, vị ngọt thanh. “Anh ta bị sát hại,” vị cảnh sát nói như tuyên bố. Nhưng tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vì đó là lời mà tôi đã lường trước. “Anh ấy bị sát hại như nào vậy ạ?” tôi hỏi. “Cực kỳ khủng khiếp,” vị cảnh sát nhăn mặt. “Gáy bị đập mạnh bởi một vật cùn. Thi thể thì bị vứt lại bên cạnh vịnh. Chỏng chơ như rác.” Người yêu tôi đã bị người ta vứt ở đó như một đống rác. Vị cảnh sát ho một tiếng. Tôi ngẩng mặt lên. “Vậy nguyên nhân tử vong là do xuất huyết bên trong não hay là…?” “Không phải.” Anh ta ngắt lời, nhìn lại gương mặt tôi rồi nói tiếp. “Hiện tại chúng tôi chưa thể khẳng định chắc chắn điều gì. Tuy có dấu vết bị đập vào gáy, nhưng chừng nào chưa có kết quả giải phẫu thì tất cả chỉ là phỏng đoán.” “Vậy ạ?” Nghĩa là có khả năng anh ấy bị sát hại bằng một phương thức khác, nhưng sau đó hung thủ còn đập mạnh vào gáy và vứt anh đi ư? Nếu đúng như vậy, thì tại sao hung thủ phải tàn bạo đến mức đó? “Còn chuyện này…” Vị cảnh sát gọi tôi, chắc do thấy tôi lơ đễnh quá. “Hình như cô cũng gần gũi với anh Kawadu Masayuki nhỉ?” Tôi gật đầu. Chẳng có lý do gì để phủ nhận điều đó. “Cô là người yêu của anh ấy à?” “Tôi nghĩ vậy.” Vị cảnh sát hỏi quá trình chúng tôi gặp gỡ. Tôi trả lời thành thật. Tôi cũng sợ sẽ phiền đến Fuyuko nhưng cuối cùng vẫn nhắc đến tên cô. “Lần cuối cùng cô nói chuyện với anh Kawadu là khi nào?” Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời. “Tối hôm kia. Anh ấy gọi tôi tới.” Chúng tôi dùng bữa ở nhà hàng, sau đó uống rượu ở quán bar. “Hai người đã nói những chuyện gì?” “Chúng tôi nói nhiều chuyện lắm… trong đó…” Tôi cúi mặt, mắt nhìn cái gạt tàn bằng thủy tinh. “Anh ấy có nói rằng mình đang bị ai đó nhắm.” “Bị nhắm sao?” “Vâng.” Tôi kể những điều mình đã nghe từ anh trong buổi tối hôm kia. Đôi mắt vị cảnh sát bỗng sáng lên lấp lánh. “Và anh Kawadu cũng thấy có điều gì khả nghi?” “Tôi không dám khẳng định.” Vì anh cũng không khẳng định chắc chắn điều đó. “Nhưng cô thì không thấy có gì khả nghi à?” Tôi gật đầu. “Vâng.” Sau đó vị cảnh sát hỏi về quan hệ bạn bè và công việc của anh. Tôi hầu như không biết gì. “Tiện đây xin hỏi tối qua cô đã ở đâu vậy ạ?” Câu hỏi cuối cùng của anh ta nhằm mục đích xác nhận chứng cứ ngoại phạm của tôi. Họ không hỏi thời gian cụ thể hẳn là do chưa xác định được thời gian tử vong chính xác. Nên dù tôi có đưa ra thời gian cụ thể thì cũng chẳng giúp ích gì cho chứng cứ ngoại phạm của mình cả. “Hôm qua tôi ở nhà cả ngày,” tôi trả lời. “Tôi làm việc.” “Nếu có ai làm chứng được cho cô thì tốt.” Vị cảnh sát ngước lên nhìn tôi với vẻ kẻ cả. “Tiếc là không có,” tôi lắc đầu. “Việc đó e là không thể. Vì tôi ở nhà một mình, cũng chẳng có ai đến chơi cả.” “Tiếc thật. Cuộc đời đúng là có nhiều chuyện đáng tiếc quá.” Sau đó vị cảnh sát xin lỗi vì đã làm phiền tôi rồi đứng dậy. Đúng như tôi đoán, chiều tối hôm đó Fuyuko tới. Cô thở gấp như thể đã chạy như bay đến nhà tôi vậy. Khi ấy tôi đã mở sẵn văn bản để soạn thảo, dù chưa đánh được chữ nào, và đang uống bia. Trước khi uống bia tôi đã khóc. Khóc mệt nên tôi mới uống bia. “Cậu nghe rồi chứ?” Vừa nhìn thấy tôi, Fuyuko lập tức hỏi. “Cảnh sát tới đây rồi,” tôi đáp. Cô có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng chấp nhận điều hiển nhiên ấy. “Cậu có thấy gì khả nghi không?” “Tớ không, chỉ biết là anh ấy bị người ta nhắm đến thôi.” Đôi mắt Fuyuko tròn xoe, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi kể cho cô chuyện hôm kia. Cô ấy lắc đầu tiếc nuối y chang vị cảnh sát đó. “Chẳng nhẽ không có cách gì để ngăn chặn sao? Như là báo cảnh sát chẳng hạn.” “Tớ cũng không biết. Nhưng chắc anh ấy có lý do riêng nên mới không làm vậy.” Cô lại lắc đầu. “Vậy nghĩa là cậu không thấy có gì khả nghi à?’ “Không. Thật ra…” tôi ngập ngừng, rồi tiếp tục, “Tớ hầu như chẳng biết gì về anh ấy cả.” “Thế à?” Fuyuko nghe chừng thất vọng lắm. Biểu cảm của cô y hệt vị cảnh sát đến đây hồi trưa. “Từ nãy tới giờ tớ cứ nghĩ về anh ấy mãi,” tôi nói. “Nhưng mà tớ không biết gì cả. Có một đường kẻ được vạch ra giữa tớ và anh ấy, cả hai đều cố để không xâm phạm đường kẻ ấy. Mà vụ án lần này lại xảy ra bên vùng của anh ấy.” Tôi hỏi Fuyuko có muốn uống gì không, cô gật đầu nên tôi vào bếp mang bia ra. Giọng Fuyuko vang lên từ sau lưng tôi. “Trong số những chuyện anh ấy nói, có chuyện nào để lại ấn tượng với cậu không?” “Dạo gần đây bọn tớ không chuyện trò với nhau nhiều.” “Nhưng cũng phải nói chuyện gì chứ. Chẳng lẽ gặp nhau là lên giường ngay à?” “Cũng gần như là vậy đó,” tôi nói, má hơi rúm lại. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Mười Một Chữ của tác giả Higashino Keigo & Phương Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ám Ảnh Đen
Ba giờ sáng, khi những ồn ào của thành phố khép lại, những con phố bao trùm bởi bóng tối. Đó cũng là thời điểm thích hợp nhất cho những chuyến “săn đêm". Ám ảnh đen mở ra bằng một màn quảng cáo giật gân: một nữ ca sĩ dắt báo đen đi diễu phố. Nhưng rồi con vật ấy vùng chạy và mất hút trong lòng Ciudad Real, một thành phố Nam Mỹ rộng lớn. Chẳng bao lâu sau, người ta phát hiện ra thi thể một cô gái trẻ bị xé xác, rồi một cô gái khác… Cả thành phố chìm trong sợ hãi. Nỗi ám ảnh đen rình rập đâu đó trong các ngõ ngách và bụi rậm, với bước chân êm như nhung và móng vuốt sắc tựa dao cạo, sẵn sàng vồ lấy những nạn nhân xấu số. Trong khi cảnh sát mải mê tìm kiếm con báo “cuồng mồi” nguy hiểm kia, một người đã quyết định đào bới sâu hơn - truy lùng một sinh vật còn khủng khiếp hơn bất cứ loài dã thú nào…Một kế hoạch “đi săn” mới được vạch ra… *** Review Quynh Anh Thi Dang (Điền Yên) -------------------------- Lúc nhận được sách, tôi nghe nói nó giống Dolocher. Tôi hơi chờn chờn vì tôi xem Dolocher mãi không hết. Một ngày nắng như đổ lửa nọ, tôi mở Ám ảnh đen ra coi cho đời bớt chói. Và thế là bị hút vào luôn. Mở đầu giới thiệu hoàn cảnh không có gì lắm: một nữ diễn viên muốn chơi trội bằng cách dắt báo đi chơi. Ngờ đâu con báo lồng lên rồi chạy mất hút. Sau đó, liên tiếp các vụ án mạng khủng khiếp xảy ra. Nạn nhân đều là các cô gái trẻ, vì lý do gì đó, ở ngoài đường vào ban đêm vắng vẻ. Thảm trạng của nạn nhân rất kinh khủng: đều bị móng vuốt xé xác tơi tả nhưng không bị ăn thịt. Tràn ngập truyện là bóng tối - kẻ bất khả chiến bại, cứ 24 giờ một lần, đánh bại mọi đối thủ. Tác giả mô tả quá hay. Ví dụ như lúc Teresa đi trong hầm tối, bị bủa vây bởi nỗi sợ hãi, cô bé muốn chạy nhưng chân tay bủn rủn, chỉ còn cách chờ cái chết đến. Tôi nhớ đến những giấc mơ của tôi. Rất nhiều lần, tôi nằm mơ thấy mình rơi vào hiểm cảnh, lẽ ra tôi phải chạy thục mạng nhưng toàn thân tôi đơ cứng, không sao cử động nổi. Tim tôi đập thình thịch. Có lúc tôi còn nghĩ trong giấc mơ rằng Adrenalin quái quỉ gì, nghe nói sẽ khiến con người làm được những việc phi thường cơ mà, tại sao mình lại không chạy được? Và khi cái chết trùm bóng đen lên tôi thì tôi choàng tỉnh vì quá sợ hãi. Tôi chưa bao giờ chết trong mơ. Tiếp đến vụ Conchita. Chất điện ảnh của Ám ảnh đen hay kinh khủng. Những chi tiết đủ nhỏ để người đọc tự vẽ trong đầu cảnh tượng của truyện, cũng đủ uớc lệ để cảnh tượng đó của mỗi người sẽ khác nhau, tuỳ vào nỗi sợ hại của họ. Cùng một sự vật đó, dưới ngòi bút của tác giả, nó hiện lên khác hẳn bình thường, mà lại giống với cảnh phim kinh dị nào đó ta đã từng xem qua. Cô gái cuối cùng, trời, tôi muốn yêu cô ấy vì lòng can đảm tuyệt vời. Tôi là người đọc mà còn thấy hồi hộp đến mức mồ hôi lạnh ướt cả tay, thế mà cô ấy lại có thể chế ngự được nỗi sợ hãi, diễn vai mồi nhử từ đầu đến cuối không hề sai sót. Cái kết khá bất ngờ. Ngay từ đầu tôi đã không nghĩ là con báo vì nó sổng khi bị rọ mõm. Nó không bị giết thì cũng chết đói, sức đâu đi vồ người rồi bỏ đi. Nhưng tôi không nghĩ ra cái kết của tác giả. Cái bìa nhìn cũng hay đấy, nhưng không giống mô tả trong truyện, hoặc ít nhất là không giống tưởng tượng của tôi về hoàn cảnh trong truyện. Được cái lần này, tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả nào không :))) Chấm điểm: 8.25/10 *** Cornell Woolrich (1903-1968) là một trong những nhà văn “trinh thám đen” vĩ đại nhất thế kỷ XX. Ông để lại một kho tàng đồ sộ gần 200 truyện ngắn hình sự. Nhưng tiểu thuyết trinh thám mới là lĩnh vực ông để lại dấu ấn lớn hơn cả. Truyện của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cố định, nhưng vẫn cuốn hút độc giả bởi hình ảnh những con người bình dị phải vùng vẫy thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã bủa vây. Văn phong tinh tế, tình tiết đầy ám ảnh, kết thúc bất ngờ, tất cả đã tạo cho Woolrich một phong cách rất riêng. Ông được mệnh danh là “Poe của thế kỷ XX”. Cornell Woolrich cũng là một trong những nhà văn trinh thám có nhiều tác phẩm được dựng phim nhất: gần 60 lần chuyển thể lên màn ảnh rộng, trong đó có ba bộ phim gần chạm ngưỡng kinh điển là Phantom Lady, The Window và No Man of Her Own. Đạo diễn danh tiếng Alfred Hitchcock đặc biệt ưu ái khi chọn đến 5 truyện ngắn của ông để chuyển thể, nổi tiếng nhất là Rear Window. *** Trong khi người người dạo phố thì cô ngồi bên cửa sổ, đắn đo giữa một chùm nho pha lê và một bông dành dành tươi, không biết nên gài món đồ nào lên vai áo. Đúng lúc ấy, có tiếng ai đó gõ lên cánh cửa căn phòng nằm đối diện phòng lễ tân. Cho dù chọn món đồ nào, cô cũng biết nó sẽ trở thành một trào lưu lan khắp thành phố. Hàng trăm cô gái trẻ sẽ đua nhau đeo nho pha lê hoặc hoa dành dành tươi những tuần sau đó. Khó mà tin nổi mới mấy năm trước, chẳng ai quan tâm cô gắn thứ gì lên vai. Thật ra thì chẳng ai đoái hoài đến cô chút nào. Hồi ấy, cô vẫn còn đi đôi giày bệt mòn vẹt và liên tục bị mấy hàng ăn ven đường xoàng xĩnh tại Detroit cho thôi việc. Còn giờ đây… Cô không thể ngừng quay đầu lại để ngắm nó ngoài cửa sổ. Đó là minh chứng, là biểu tượng cho thấy cô quan trọng nhường nào, cho dù địa vị này có ngắn ngủi đến đâu. Chính cái hình bóng ngoài kia. CASINO HẠNG SANG KIKI WALKER en la gran revista de arte “TRIC-TRAC” Biển quảng cáo ấn tượng nhất thành phố nổi trên nền trời xanh cobalt của buổi chiều muộn. Trong buổi diễn mở màn tuần sau, khi dòng điện truyền vào, đến cả những người sống ở đầu kia quận Alameda cũng sẽ thấy được tên cô trên màn đêm. Đã có nhãn hiệu nước hoa và sơn móng tay đặt theo tên cô rồi, tất nhiên họ phải trả tiền mới được lãnh vinh dự ấy, và cả thức uống mới nhất tại quán bar Inglaterra sang trọng nữa, cocktail Kiki Walker (đầu đỏ rực và thấu tận óc, theo như cách giải thích của người pha rượu). Suốt mùa đông vừa rồi (từ tháng Sáu đến tháng Chín), cô đi diễu như nữ chúa khắp thành phố lớn thứ ba miền Nam kênh đào Panama này, với xe hơi và tài xế riêng, người hầu riêng và phòng khách sạn hạng sang. Đối với một cô gái đàn ca mua vui cho mấy quán xá Detroit bỗng vụt tỏa sáng thành một ngôi sao sau một tour diễn rong, điều đó không tệ. Không tệ chút nào. Cô vẫn chưa hiểu lắm là nhờ đâu mà mình được như thế này. Một chút tài năng nhảy múa, một xíu tài nghệ ca hát và cực kỳ nhiều may mắn đã hỗ trợ cô. Chủ yếu là cô đã vô tình ở đúng nơi, đúng lúc và không có đối thủ cạnh tranh. Hồi làm tại Detroit, bài hát của cô bị coi là rẻ tiền, nhưng tại đây thì chẳng ai hiểu ca từ nên thành ra chúng nghe có vẻ sâu sắc. Hồi ở Detroit, mái tóc đỏ của cô xuất hiện nhan nhản khắp nơi, nhưng ở đây nó lại trở thành mặt hàng hiếm. Và cô cũng phải thừa nhận rằng có khả năng, khả năng nhỏ thôi, là Manning cùng mấy cái trò điên rồ của anh ta đã góp phần be bé trong việc thu hút sự chú ý của công chúng về phía cô. Kiki không muốn nhớ về cuộc gặp đầu tiên của họ. Khi ấy Manning ngồi tại một quán cà phê ven đường, râu ria chưa cạo và cổ áo thì dơ dáy; còn cô thì tạt qua quán xem họ có cần tuyển thu ngân, hay thậm chí bồi bàn không. Anh ta mời cô một tách cà phê, bởi vì vẫn còn đủ tiền mua thêm một tách; còn cô trông có vẻ đang cần đến cà phê. Nửa tiếng sau, lúc cả hai rời bàn đứng lên, anh ta đã trở thành đại diện truyền thông của cô. Hai tuần sau, Kiki có công việc đầu tiên và Manning có một cái cổ áo sạch. Mình đã giúp anh ta thành danh, cô hay ngắt quãng dòng hồi tưởng khó chịu kia ở đoạn này. Chuyện anh ta góp phần tạo nên thành công của cô nghe thật không tưởng, chẳng đáng nghĩ đến dù chỉ một giây. Bất kể ai đã giúp ai thành danh, chỉ có điều này là chắc chắn: Giờ cả thành phố đang phát điên lên vì cô. Tiếng gõ cửa lại vang lên. “Maria, chắc là Senor Manning đấy,” cô gọi chị người hầu. “Cho ông ấy vào đi.” Cô nghe tiếng then kéo được mở ra, nhưng thay vì câu chào khe khẽ quen thuộc, chị hầu gái lại rú lên chí mạng. Có tiếng bước chân chạy rầm rập, tiếng ghế đổ cái rầm, như thể ai đó vừa ngã lăn ra. Kiki vội xoay người trên băng ghế, tò mò đứng dậy. Trước khi cô kịp làm gì khác, nó đã lộ diện. Cảnh tượng đáng kinh ngạc đến độ tâm trí dứt khoát không tin nổi vào hình ảnh mà cặp mắt thu được, ngay cả khi nó đang lồ lộ trước mặt. Một cái đầu áp sát mặt đất, bấy giờ đang chui qua cửa, tiến về phía cô. Trong khoảnh khắc hoảng loạn đầu tiên, cô chỉ có thể nhận ra đây là đầu của một con vật họ mèo. Mấy từ báo đốm, báo hoa nối đuôi nhau lướt qua bộ óc đờ đẫn vì sốc của cô. Bộ lông đen thẫm, cặp tai nhọn ép phẳng, mõm gí sát thảm, con vật bước đến rất nhanh, tấm thân thuôn dài gợn sóng một cách uyển chuyển. Cô chỉ nhịn được đến lúc ấy trước khi la hét thất thanh, hòa cùng tiếng hét của chị hầu gái. Cô quay lại và nhảy vọt lên bàn trang điểm với sự nhanh nhẹn đầy bản năng của một vũ công. Nước hoa, phấn hộp và đồ trang trí rơi tứ tung xuống khắp sàn nhà, một hộp nhạc nhỏ lập tức ngân nga ngay khi chạm đất. Cô đứng tít trên đó múa may loạn xạ, tóm lấy phần váy gần đùi và vung vẩy nó lia lịa để xua đuổi nỗi kinh hoàng kia. Chỉ đến khi ấy, cô mới để ý cái rọ mõm siết chặt bộ hàm con vật cùng sợi dây buộc đang căng ra, và cả gương mặt đậm chất Trung Tây quen thuộc của Jerry Manning đang nhòm cô từ phía sau. Tiếng la hét trở nên tròn vành rõ chữ hơn, nhưng không giảm âm lượng chút nào. Chắn giữa họ là cái thân mình duyên dáng, uyển chuyển, uốn éo chẳng khác nào loài bò sát của con vật. Bấy giờ nó đang kéo căng dây buộc, bụng áp sát sàn, các thớ cơ vai mạnh mẽ nổi gồ lên dưới lớp lông đen mượt mà, đuôi giật liên hồi, chân tìm cách vồ lấy cái hộp nhạc đang phát ra một giai điệu trong trẻo như tiếng sáo. “Lôi nó ra khỏi đây!” Kiki rú rít như đang ngân quãng tám. “Manning, anh mắc chứng quái gở gì thế, sao lại mang cái thứ đó vào trong này?” “Nó sẽ không làm hại cô đâu,” Manning tìm cách giải thích, đẩy cái mũ cối lên qua vầng trán. “Chẳng việc gì phải sợ cả. Ban nãy, chính tôi đã ngồi cùng nó trong xe chở nông sản suốt chặng đường đến đây. Con báo đã được thuần hóa hoàn toàn. Nó vốn được một tay sống ở ngoại ô nuôi dưỡng từ khi còn bé tí mà.” “Rồi, thế anh mang nó đến chỗ tôi làm gì?” Ít nhất cô cũng đã ngừng la hét. “Tôi tin là trong lúc thực hiện chuyến ngao du hàng ngày quanh khu Alameda, sẽ là ý hay nếu cô dắt theo con vật này.” “Dắt theo cái thứ đó ấy hả? Không bao giờ! Còn lâu tôi mới đi cùng nó ra cửa, chứ đừng nói là ngồi cùng một xe với nó rong ruổi khắp Alameda! Giờ nghe cho rõ đây, Manning, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi với sóng não nhà anh…” Anh ta tranh thủ đưa một tay lên châm điếu thuốc. “Hãy nghĩ thử mà xem, cô sẽ gây dậy sóng cỡ nào? Chỉ cần bước xuống khỏi xe với con báo bên cạnh, ghé vào quán Globo nhấm nháp vài hớp Martini trong mấy phút thôi. Chuyện ấy có gì khó khăn nhỉ? Tôi đã cài cắm nhiếp ảnh gia khắp quán để chụp cảnh cô dắt theo nó rồi. Tôi có thể giúp cô độc chiếm toàn bộ trang đôi của tờ Grafico Chủ nhật tới này, lão Herrera đã bật đèn xanh. Nguyên hai trang ảnh in ống đồng xanh, chỉ dành riêng cho cô. Nhìn này, tôi còn kiếm cho cô cả một cây roi vàng để mang cho đủ bộ.” “Anh tử tế với tôi quá!” Cô giận dỗi nói. “Chuyện này chỉ tốt cho cô, chứ không phải cho tôi,” anh ta dỗ ngon dỗ ngọt. “Tuần tới cô diễn mở màn rồi. Dân Mỹ Latin thích các siêu sao trông phải thật khác biệt. Cô muốn tour diễn thành công vang dội phải không?” “Tôi muốn tham gia biểu diễn, chứ không phải nằm băng bó đầy người trong một bệnh viện nào đó,” cô nói. “Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, giờ tôi còn cần chiêu trò làm gì nữa? Nếu là lúc mới bắt đầu sự nghiệp thì lại khác.” “Chẳng bao giờ cô xong xuôi trong cái ngành này được đâu. Thôi nào, Kick, chịu chơi đi. Xem này, nhìn tôi một tí nhé.” Con vật đang nằm ườn một bên, lười nhác liếm láp bên chân. Anh ta cúi xuống, gập ngón trỏ lại và nhẹ nhàng vuốt lớp lông mượt dưới bụng nó mấy lần. Nó lập tức lật ngửa lên theo đúng kiểu bọn mèo nhà, bốn chân giơ trên không, khẽ khàng tìm cách gạt ngón tay anh ta ra. “Cô không thể kiếm được con báo nào thuần hơn con này đâu. Cứ thử dắt nó xem. Chỉ cần thử thôi, xem cảm giác thế nào.” Anh ta vươn ra và chộp lấy bàn tay hãy còn ngại ngần của cô, luồn vòng dây buộc qua mấy ngón tay. Kiki vẫn đứng im trên bàn, trong lòng đã bắt đầu xuôi xuôi, dù không biểu hiện đồng tình ra mặt. Váy cô đã được thả xuống như cũ. Anh ta buông tay, sợi dây dắt nằm hoàn toàn trong lòng bàn tay cô. “Tôi sẽ ngồi trong một cái taxi ngay đằng sau và theo sát cô suốt cả chặng đường.” Riêng việc này thì cô kiên quyết rắn mặt, “Ồ không, anh sẽ không làm vậy. Hoặc anh đi cùng xe với tôi và ngồi trên ghế trước, hoặc là tôi sẽ ở lì trong này không thèm ló mặt ra đường.” Anh ta để dành lập luận hiệu nghiệm nhất của mình vào phút chót. Bằng kinh nghiệm bản thân, Manning biết chắc nó sẽ thuyết phục được cô ngay lập tức. Anh chàng này quả là một nhà tâm lý học ranh mãnh. “Cô nhìn mà xem, con báo hợp với bộ đồ cô đang mặc chưa kìa! Cô phải tận mắt thấy mình với nó hợp thành một bộ đôi ấn tượng ra sao! Xuống dưới này một phút thôi, Kick, đứng cạnh nó và nhìn vào gương đi! Đến cả hai vị nữ hoàng Zenobia và Cleopatra cũng không thể sánh được bằng cô!” Anh ta giơ tay lên đỡ cô xuống. Có vẻ đòn tấn công đã phát huy tác dụng. Tiếp tục liếc con báo đầy ngờ vực, Kiki dè dặt chúc mũi chân xuống, chuẩn bị đặt chân lên sàn một lần nữa. “Chết tiệt,” cuối cùng cô thốt ra, chút bỗ bã từ những tháng ngày lăn lộn ở Detroit tái trỗi dậy, “tôi thật đúng là biết hi sinh vì nghệ thuật!”   Mời các bạn đón đọc Ám Ảnh Đen của tác giả Cornell Woolrich.
Đêm Ngàn Mắt
Nguyễn Thị Hạnh (dịch) Đêm Ngàn Mắt (Night Has A Thousand Eyes) mang âm hưởng u tối như nhiều tác phẩm khác của Cornell Woolrich: đêm đen, bóng tối và cái chết bao trùm khắp câu chuyện tạo nên bầu không khí bất an và hồi hộp. Nhưng lần này, lưỡi hái tử thần không còn nằm trong tay một kẻ thủ ác bằng xương bằng thịt, mà là thứ gì đó đang ẩn mình trong bóng tối ngoài kia... Những vì sao lấp lánh trên bầu trời tựa như ngàn con mắt đang dõi theo ta, khiến ta không thể chối bỏ số phận cũng như chạy thoát khỏi thời khắc định mệnh. *** Vào một đêm hè đầy sao, chàng thám tử trẻ tuổi Shawn trên đường đi làm về đã cứu được một thiếu nữ định nhảy cầu tự tử. Cô gái xinh đẹp, trẻ trung lại là con gái độc nhất của một triệu phú. Nhưng cô có một nỗi sợ hãi kỳ lạ với những vì sao với một lý do lạ lùng hơn bao giờ hết: Một nhà tiên tri đã dự đoán cha cô sẽ bỏ mạng trong hàm sư tử vào đúng nửa đêm. Nghe Shawn báo cáo, một đội thám tử lập tức được cử đi bảo vệ cha con cô gái và điều tra hành tung nhà tiên tri bí ẩn. Ông ta thực sự nhìn thấu tương lai hay chỉ là một kẻ gian trá đang ấp ủ những âm mưu xấu xa? Thế lực đứng sau chi phối tất cả là một kẻ bằng xương bằng thịt hay là một thứ mang tên ĐỊNH MỆNH? *** Reivew Steven Nguyễn: "Đêm ngàn mắt" mở đầu bằng một không gian tăm tối cùng bầu khí tĩnh lặng, cô đơn pha chút lãng mạn, huyền hoặc. Nổi bật giữa khung cảnh đó là Shawn - chàng thanh tra trẻ tuổi - đang chậm rãi, khoan thai dạo bước trên cung đường quen thuộc, đắm chìm trong sự thanh bình của buổi hôm. Anh nào biết được rằng chỉ chốc nữa thôi, một sự kiện, một dấu mốc quan trọng sẽ diễn ra và khiến cuộc đời tầm thường, bình dị của anh thay đổi mãi mãi: cuộc chạm trán với một thiếu nữ xinh đẹp, giàu có nhưng lại mang trong mình nỗi ám ảnh khủng khiếp. Nó đuổi đeo cô dai dẳng, nó rút cạn sinh lực, bào mòn tinh thần, nó buộc cô phải tìm đến cái chết. Nó không phải ma quỷ, cũng chẳng phải một chứng bệnh tai ác, ta thậm chí không thể gắn nó với bất kỳ một khái niệm xấu xa nào. Người ta gọi nó bằng những cái tên rất đỗi mỹ miều: nó là vì sao, nó là định mệnh. "Sợ hãi" và "cuốn hút" là 2 từ đầu tiên xuất hiện trong đầu mình khi nhắc đến "Đêm ngàn mắt". Thuộc một trong số những tiểu thuyết tiêu biểu nhất của Woolrich, tác phẩm tiếp tục mang đến cho người đọc một cốt truyện đen tối với nhiều tình tiết ly kỳ, hấp dẫn và gợi tò mò đến độ một khi đã đắm mình vào thì không cách chi dứt ra được. Truyện kể theo hai ngôi thứ nhất và thứ ba với góc nhìn thay đổi linh hoạt theo từng chương. Một lần nữa, ngòi bút tài hoa của Woolrich lại được phô diễn qua việc xây dựng, chắp nối những tình tiết tưởng chừng như hết sức tầm thường thành một bức tranh nghệ thuật đầy ẩn ý, trừu tượng, kích thích trí tò mò, lòng ham muốn tìm tòi, khám phá của độc giả, nhưng đồng thời buộc họ phải thưởng lãm bức họa theo đúng cái cách mà tác giả mong muốn, tức chỉ thấy những cái nên thấy và được phép thấy. Như bao tác phẩm thuộc dòng Noir khác, điểm nổi bật nhất trong "Đêm ngàn mắt" chính là bầu không khí "đen" được tái hiện qua giọng văn trần thuật đầy ma mị của tác giả. Đặc biệt, trong tác phẩm này, bầu không khí nặng nề, căng thẳng đó được đè nén đến cực hạn bởi những mốc thời gian sát sao, những tình huống ngặt nghèo nhằm đẩy tâm lý nhân vật lên đến đỉnh điểm, để rồi vỡ òa ra vào những trang cuối tác phẩm trong một cái kết nặng nề và ám ảnh. Thật vậy, áp lực như toát ra ngoài trang sách, đi vào thế giới thực, xâm nhập và gây tác động mãnh liệt lên thần kinh độc giả. Đọc xong tác phẩm, mình trộm nghĩ, nếu cốt truyện "Đêm ngàn mắt" rơi vào bàn tay của một văn sĩ vụng về, có lẽ sẽ chẳng khác gì một mớ phế phẩm. Nhưng dĩ nhiên, Woolrich không vụng về, trái lại, ông đủ khả năng biến những thứ tầm thường thành điều phi thường. P/S: tác phẩm này không thuần trinh thám, nên xếp vào thể loại tâm lý - kỳ bí thì phù hợp hơn. *** Cornell Woolrich (1903-1968) là một trong những nhà văn “trinh thám đen” vĩ đại nhất thế kỷ XX. Ông để lại một kho tàng đồ sộ gần 200 truyện ngắn hình sự. Nhưng tiểu thuyết trinh thám mới là lĩnh vực ông để lại dấu ấn lớn hơn cả. Truyện của Woolrich không có một hình mẫu thám tử cố định, nhưng vẫn cuốn hút độc giả bởi hình ảnh những con người bình dị phải vùng vẫy thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã bủa vây. Văn phong tinh tế, tình tiết đầy ám ảnh, kết thúc bất ngờ, tất cả đã tạo cho Woolrich một phong cách rất riêng. Ông được mệnh danh là “Poe của thế kỷ XX”. Cornell Woolrich cũng là một trong những nhà văn trinh thám có nhiều tác phẩm được dựng phim nhất: gần 60 lần chuyển thể lên màn ảnh rộng, trong đó có ba bộ phim gần chạm ngưỡng kinh điển là Phantom Lady, The Window và No Man of Her Own. Đạo diễn danh tiếng Alfred Hitchcock đặc biệt ưu ái khi chọn đến 5 truyện ngắn của ông để chuyển thể, nổi tiếng nhất là Rear Window. Mời các bạn đón đọc Đêm Ngàn Mắt của tác giả Cornell Woolrich.
Kẻ Trừng Phạt
“Kẻ Trừng Phạt”, kích thích hơn “người giải mã tử thi” của Tần Minh, rúng động hơn “Tội ác tâm lý” của Lôi Mễ! Tác phẩm được các tác giả Liên Bồng, Lôi Mễ, Tri Thù, Tần Minh đặc biệt giới thiệu! “Kẻ Trừng Phạt”, tác phẩm mới nhất đánh dấu sự trở lại của tay bút được đánh giá là “hiện tượng” của dòng tiểu thuyết trinh thám trên trang Tianya.cn, kể về cuộc quyết chiến cuối cùng giữa CHÍNH NGHĨA và TÀ ÁC! Một “thi thể nữ” biết lái xe, một linh hồn “hồi sinh”, cuộc hẹn với người đã chết, những lời tiên đoán đáng sợ, khu trường học có “ma”… những tình tiết móc ngoặc, cảm xúc không ngừng thay đổi, yếu tố trinh thám dày đặc, biến thái, tuyệt mật, hồi hộp, những cách thức phạm tội tinh vi và hiện đại, chứng cứ vắng mặt hoàn hảo, những âm mưu quỷ kế không thể lật tẩy, những màn sương mù che phủ không thể làm tan biến, bạn sẽ đau tim đến cực độ, một cảm giác đọc sách thật đê mê! Với tên gốc trên mạng là “Rượt đuổi tới cùng”, trong nhiều ngày liên tiếp, “Kẻ trừng phạt” chiếm giữ vị trí đầu bảng trong bảng xếp hạng “Chuyện của Liên Bồng” (bảng xếp hạng những câu chuyện thần bí) trên trang Tianya.cn. Nhận được lượng chia sẻ vô cùng lớn, số lượt click trên 39.000.000, giành được sự quan tâm và bình luận rất nồng nhiệt của độc giả. Tiểu thuyết cũng được các tác giả tring thám đương đại hàng đầu Trung Quốc như Liên Bồng, Lôi Mễ, Tri Thù, Tần Minh đặc biệt giới thiệu. Phuc Minh Books hân hạnh giới thiệu đến độc giả! LỜI KHEN CHO KẺ TRỪNG PHẠT Vừa vào đầu sách đã đầy rẫy những điều kì bí bủa vây toàn cục, những bí ẩn cũ chưa kịp giải quyết, bí ẩn mới đã ập tới liên tục, khiến độc giả càng đọc càng bị cuốn hút. - Liên Bồng. Vi Nhất Đồng thông thạo các công tác cảnh sát và kiến thức tâm lí phạm tội, những đoạn phá án trong cuốn sách này không cố tình tiết lộ việc hung thủ là ai, mà đặt người đọc vào cùng vị trí với lực lượng cảnh sát chính nghĩa cùng nhau tìm ra câu trả lời, mỗi người đọc đều là một người phá án. - Lôi Mễ. “Kẻ trừng phạt” quả không hổ danh là cuốn sách tiêu biểu của dòng tiểu thuyết tội phạm và phá án, những tên hung thủ biến thái, những “kẻ khác biệt” đang ẩn náu trong hàng ngũ cảnh sát hình sự, những cảnh sát luôn lên tiếng vì chính nghĩa, thủ pháp khắc họa nhân vật một cách tỉ mỉ, chính xác, không cứng nhắc theo khuôn mẫu cũ. - Tri Thù. “Kẻ trừng phạt” không chỉ nói đến những kẻ phạm tội, mà hơn nữa là nhắc đến những người cảnh sát – hóa thân của sức mạnh chính nghĩa, chỉ có điều những tên hung thủ đứng trên danh nghĩa chính nghĩa mà gây tội ác, chúng chính là những kẻ đáng bị trừng phạt nhất. - Tần Minh. *** Nội dung bố cục câu truyện thì ở trang bìa sau đã nói rõ các vụ bí ẩn xảy ra, miêu tả chính xác độ ly kỳ của cuốn tiểu thuyết này, trinh thám gỡ từng lớp từng lớp bí ẩn đặt ra, một tử thi có thể lái xe và di chuyển từ trung tâm pháp y cảnh sát về nhà như chổ không người , pha các yếu tố ghê rợn không khác gì các bạn đang đọc 1 cuốn truyện kinh dị, nhưng chỉ là vài chương đầu thôi, về sau trinh thám hơi bị ly kỳ đấy. Vi Nhất Đồng đã dẫn dắt người đọc đi từ chứng cứ này đi đến chứng cứ khác, và có thể khi đã tìm ra chân tướng thực sự lại khiến vụ án đi vào lối mòn, và cho đến nhưng chương cuối cùng của tiểu thuyết, chân tướng dường như sáng tỏ rành mạch. hung thủ đã lộ diện và đã trả giá cho những gì hắn gây ra nhưng vụ án vẫn chưa kết thúc , và chỉ thực sự kết thúc khi người đọc được dẫn dắt đến trang cuối cùng. Điều tôi hoan nghênh nhất của tác giả là có sự xuất hiện nhân vật nữ ở giữa truyện, khiến tổ chuyên án như ” nắng hạn gặp mưa rào ” , cảnh sát nhân vật chính của chúng ta như được tưới tiêu ( về mặt tâm hồn và nhìn nhận thôi , ko có iu đương gì ở đây đâu nhé  … Đúng là có bàn tay phụ nữ vào thì mọi vấn đề sẽ hanh thông ! … nhân vật nữ xuất hiện là điểm nhấn hay nhất mà tôi thấy ở cuốn tiểu thuyết này ! Đúng như lời hung thủ bảo ” sự xuất hiện của cô ấy là bất ngờ trong kế hoạch của tôi, nếu không có cô ấy thì các cậu không tìm thấy tôi sớm vậy đâu ” … !!! ” Thiên và ác đôi khi chỉ cách nhau trong một ý niệm; tội ác và sự trừng phạt liệu có một ranh giới thật sự rõ ràng ” – Lục Dương Đây là câu tự hỏi khiến độc giả có thể suy nghĩ về hung thủ, về cảnh sát, về nạn nhân, thật sự là ai đáng thương và ai đáng trách ? Riêng bản thân tôi cũng xót thương cho những số phận trên, kẻ đáng chết đã chết, kẻ gây ra cũng đền tội, ai cũng có lý do để kể lễ cho hành động của mình, nhưng …. KHÔNG CÓ LÝ DO NÀO CÓ THỂ GIẢI THÍCH CHO VIỆC GIẾT NGƯỜI CẢ DÙ CHO NGƯỜI ĐÓ CÓ ĐÁNG CHẾT THẾ NÀO ! đó là điều tâm đắc của tôi nhiều tiểu thuyêt trinh thám đã được đọc qua .. Và 1 câu tôi cảm thấy tâm đắc khi đọc tiểu thuyết này : ” Hai chữ ” CẢNH SÁT ” gánh vác quá nhiều ước vọng, bao hàm vô số vinh quang, nhưng cũng đầy đau khổ và oan khiêng ! ” khiến cho tôi thấy công việc cảnh sát có thể có vinh quang nhưng cũng đầy mệt mõi, có nhiều vụ án đôi khi bản thân biết quá nhiều cũng không phải là điều tốt ! Review bởi Minh Lê *** thành tích xuất sắc, tôi được điều lên Đội Cảnh sát hình sự, bắt đầu chuỗi ngày điều tra các vụ án đủ thể loại. Làm trong ngành này, chứng kiến biết bao “kiểu” chết chóc, dù có nhát gan đến mấy cũng được luyện cho to gan lớn mật. Nhưng gần đây xảy ra một vụ án rất kì lạ, khiến mọi người vô cùng hoang mang, ngay cả những bậc tiền bối cũng phải sởn gai ốc. Sự việc bắt đầu khi một đồng nghiệp của tôi là Hồ Viễn bị tai nạn. Chiếc Sedan của cậu ta đâm trực diện vào một chiếc xe việt dã. Lúc đó trên xe có hai người, Hồ Viễn ngồi ở ghế phụ lái, còn người điều khiển là một phụ nữ. Hiện trường vụ tai nạn rất thảm khốc, cú va đập khiến Hồ Viễn tử vong tại chỗ, thi thể biến dạng, máu me đầm đìa. Điều kì lạ là, cơ thể người phụ nữ cũng bị biến dạng, nhưng lại không hề chảy giọt máu nào. Kết quả khám nghiệm tử thi cho biết... người phụ nữ này đã chết cách đây ba ngày. Những người đầu tiên có mặt ở hiện trường là lực lượng Cảnh sát giao thông. Họ tìm thấy thẻ Cảnh sát trên người Hồ Viễn, biết được đơn vị của cậu ấy, nên lập tức thông báo cho chúng tôi. Còn người phụ nữ không có bất cứ thứ gì để chứng minh được danh tính. Tôi hôm đó tới phiên tổ chúng tôi trực ban, ngoài trời mưa rả rích, mặt đường ướt nhẹp, thỉnh thoảng mới thấy bóng người đi lại, vô cùng vắng vẻ. Chúng tôi cứ nghĩ sẽ không có vụ án nào xảy ra, nên vừa ngồi buôn chuyện trong phòng trực vừa nhấm nháp đồ ăn đêm. “R... eng... eng...” Một hồi chuông điện thoại xé tan bầu không khí an nhàn. Nghe điện thoại xong, tôi vội báo cáo sự việc với anh Điên Tổ trưởng. Anh lập tức buông bát mì vừa mới ăn xuống. “Nhanh lên! Đi kiểm tra xem xảy ra chuyện gì!” Anh vừa nói vừa bước nhanh ra cửa, chúng tôi vội vã theo sau. Anh Điên tên thật là Dương Phong[1], tuổi ngoài bốn mươi, đầu đinh, nước da đen bóng, cơ thể cường tráng, vừa nhìn đã thấy ngay hình ảnh một viên cảnh sát hình sự. Do phong cách làm việc quả quyết và nhanh chóng, lúc nào cũng hừng hực khí thế nên mọi người đặt cho anh cái biệt hiệu ấy. Trên đường đến hiện trường, sau khi báo cáo tình hình với Đại đội trưởng, anh Điên ngồi im chẳng nói câu nào. Suốt mười năm làm cảnh sát hình sự, anh đã phá không biết bao nhiêu vụ án, có thể coi là một “thần thám” danh bất hư truyền. Nhìn thấy bộ dạng của anh lúc này, rồi nhớ lại nội dung cuộc điện thoại, tôi không khỏi thấy sởn gai ốc. Lần đầu tiên chúng tôi gặp phải sự việc quái dị như thế: người lái xe là một phụ nữ đã chết! Chúng tôi phóng như bay tới hiện trường, bây giờ xung quanh đã đông nghịt người, bên cạnh là một hàng xe dài, từ xe cảnh sát đến xe của bệnh viện và các đơn vị liên quan. Chúng tôi vội tìm một chỗ đỗ xe, rồi theo anh Điên chen vào đám người. Đầu chiếc Sedan màu đen hiệu Jetta của Hồ Viễn và chiếc xe việt dã kia đều bị bẹp rúm, trên mặt đất la liệt mảnh linh kiện và kính vỡ. Bên cạnh là hai cái xác được đậy vải trắng, một tấm đã nhuốm đỏ, màu máu hòa với nước mưa chảy sang bên cạnh, ứ lại thành một vũng, khiến ai nhìn cũng phải rùng mình. Anh Điên nhanh chóng giới thiệu rồi ngồi xuống lật tấm vải trắng nhuốm máu ra. Mặc dù khuôn mặt đã biến dạng, nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nạn nhân là Hồ Viễn. Anh Điên không nhìn thêm nữa, lập tức di chuyển sang chỗ tấm vải trắng bên cạnh. Tim tôi như bị bóp nghẹt, vì đây không phải một người chết thông thường, mà là một xác-chết-biết-lái-xe. Tấm vải được lật ra, trước mắt chúng tôi là một khuôn mặt đen sạm, có nhiều vết bầm, một vài lọn tóc ướt bết trên trán. Mặc dù không phải bác sĩ pháp y, nhưng tôi cũng đoán được nạn nhân đã tử vong trên hai mươi bốn tiếng. Khi tôi còn chưa hết kinh ngạc, anh Điên đã nhanh chóng đeo găng tay, tiến hành kiểm tra khuôn mặt người phụ nữ. Thực sự tôi không có tâm trạng nào nhìn cảnh đó, vội quay người đi tới chỗ cảnh sát giao thông, hỏi thăm tình hình người lái xe việt dã. Nạn nhân bị thương rất nặng, đã được đưa đến viện cấp cứu. Theo quan sát hiện trường, có thể chiếc Sedan đã bất ngờ di chuyển sang làn đường bên cạnh, đâm thẳng vào chiếc xe việt dã. Do quá bất ngờ, cộng thêm trời mưa khiến tầm nhìn giảm sút, lái xe việt dã không kịp tránh khỏi vụ tai nạn thảm khốc. Viên cảnh sát giao thông đã đứng tuổi, nên tôi thử hỏi trước đây anh ta có gặp vụ nào tương tự không. Anh ta lắc đầu, nói trong bao nhiêu năm phụ trách sự cố giao thông, anh chưa từng gặp, thậm chí chưa từng nghe một sự việc kì lạ như thế này. Tôi hỏi thêm về khả năng chiếc xe của Hồ Viễn do người khác lái, chẳng hạn, hắn nhảy ra khỏi xe ngay trước vụ va chạm rồi đưa thi thể người phụ nữ vào ghế lái xe? Nhưng anh ta trả lời chắc nịch: “Chắc chắn là không, lái xe nhất định là người phụ nữ đó.” Tôi đang định hỏi vì sao có thể khẳng định như vậy thì anh Điên gọi: “Lục Dương, mau lại xem đây có phải Tần Hiểu Mai không?” Tẩn Hiểu Mai? Cái tên này vừa quen vừa lạ, đến khi quay lại tôi mới chợt nhớ ra, cô ta là tội phạm giết người trong một vụ án mà Phòng Cảnh sát đã phải lập cả một tổ chuyên án. Lúc đó tôi mới chuyển đến, chưa có nhiều kinh nghiệm nên không được chọn, còn anh Điên và Hồ Viễn đều tham gia. Dưới bàn tay của anh Điên, khuôn mặt người phụ nữ đã khôi phục tám chín phần, tóc được vén gọn gàng. Sau khi nhận dạng, tôi gật đầu xác nhận, đúng là Tần Hiểu Mai. Điều này khiến vụ tai nạn càng trở nên li kì. Tần Hiểu Mai đã bị kết tội giết người, mấy ngày nay chính là thời gian hành hình, sao thi thể cô ta có thể lái xe đưa Hồ Viễn đi “tự sát” được? Không chần chừ một giây, anh Điên lập tức báo lên cấp trên. Lãnh đạo Phòng Cảnh sát thành phố ra lệnh, vụ án này có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, yêu cầu Đội Cảnh sát hình sự điều tra cặn kẽ, Dương Phong được chỉ định là người phụ trách chính. Anh Điên lập tức yêu cầu Đồn Cảnh sát khu vực thông báo cho cha mẹ Tần Hiểu Mai đến nhận diện. Tần Hiểu Mai là sinh viên, nên cha mẹ cô ta chắc chỉ ngoài bốn mươi, nhưng mặt đầy nếp nhăn, đầu lấm tấm bạc, đủ thấy sự việc của con gái khiến họ sốc nặng đến mức nào. Mẹ Tần Hiểu Mai khóc suốt từ lúc đến hiện trường, chỉ có cha cô ta đến xác nhận danh tính con gái. Anh Điên giao lại hiện trường cho hai đồng nghiệp khác trong nhóm. Cha mẹ Tần Hiểu Mai ngồi trong xe cảnh sát, xe của nhà tang lễ theo phía sau, tất cả cùng trở về Đội Cảnh sát hình sự. Vụ án này vô cùng kì lạ, rất có thể cần tiến hành giám định pháp y cả hai thi thể. Về đến nơi, thi thể giao cho bên pháp y, còn chúng tôi đưa cha mẹ Tần Hiểu Mai đi lấy lời khai. Cha Tần Hiểu Mai là Tần Xuyên cho biết con gái ông đã chết từ ba ngày trước. Theo phong tục, sau khi chết, gia đình phải để xác ở nhà bảy ngày rồi mới được hỏa táng. Trong thời gian đó, lúc nào cũng có người canh linh cữu. Mấy ngày nay tại linh đường không hề xảy ra việc gì kì lạ, chiếc quan tài đặt xác Tần Hiểu Mai vẫn đóng nguyên. Khi nhận được điện thoại của cảnh sát, gia đình tin rằng có sự nhầm lẫn nào đó, nhưng để chắc chắn, họ vẫn mở nắp quan tài ra, thì phát hiện thi thể Tần Hiểu Mai đã không cánh mà bay. Họ vội vã chạy tới chỗ cảnh sát. Tần Xuyên trình bày xong, anh Điên lại hỏi: “Hàng ngày canh linh cữu gồm những ai?” “Theo phong tục ở quê chúng tôi, người trên không được canh linh cữu người dưới, nếu không cả dòng tộc sẽ bị trời quở, nên đành để các anh chị em họ của Hiểu Mai canh. Cũng may có mấy người họ hàng giúp đỡ lo hậu sự, chứ mỗi hai chúng tôi thì không thể xoay xở nổi. Đã thế mẹ Hiểu Mai còn suy sụp thế kia...” Tôi thấy hơi ngạc nhiên. Vụ án Tần Hiểu Mai được xử công khai, hành vi giết bạn cùng phòng của cô ta vô cùng tàn nhẫn, về lí mà nói, với loại người này, họ hàng thân thích cũng muốn tránh xa. Vậy sao sau khi chết vẫn có nhiều người giúp đỡ thế? Tôi bèn hỏi: “Họ hàng không có ý kiến gì về việc Tần Hiểu Mai giết người sao?” “Nói láo! Hiểu Mai không thể là hung thủ giết người được!” Mẹ Tần Hiểu Mai ngẩng đầu, trừng mắt nhìn tôi quát. Tần Xuyên vội kéo tay áo vợ, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Bà nó à, con gái đã đi rồi, nói những lời này còn có nghĩa lí gì nữa?” “Các người đổ oan cho Hiểu Mai, nên nó mới chết không nhắm mắt. Nhất định là nó quay về tìm các người báo thù đấy! Ha ha ha...” Vốn đã hơi ghê người về vụ “xác chết lái xe”, giờ nghe mẹ Tần Hiểu Mai nói vậy, cộng thêm khuôn mặt méo xệch của bà ta, trong lòng tôi không khỏi ớn lạnh. Nỗi sợ hãi thường đến từ những điều chúng ta chưa hiểu rõ. Cho dù không muốn tin việc ma quỷ báo thù, tôi vẫn quay sang nhìn anh Điên với ánh mắt ái ngại, vì anh ấy cũng tham gia điều tra vụ Tần Hiểu Mai. Tần Xuyên có vẻ áy náy, vội vàng xin lỗi, mong chúng tôi hiểu cho nỗi đau mất con của vợ mình. Anh Điên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Tôi hỏi thêm vài câu nữa rồi gập cuốn sổ lấy lời khai lại, yêu cầu đến nhà Tần Xuyên kiểm tra linh đường, và bảo họ lập danh sách những người canh linh cữu trong ba ngày qua. Nhà Tần Xuyên nằm tại một thị trấn cách thành phố khoảng mười cây số, xung quanh hầu như đều là người bản xứ. Bây giờ trời đã tối, không có đèn đường, cũng rất ít người qua lại. Theo sự chỉ dẫn của Tần Xuyên, chúng tôi dừng xe trước một ngôi nhà nhỏ. Đó là kiểu nhà tự xây, có sân, khá phổ biến ở nông thôn. Linh đường của Tần Hiểu Mai được đặt giữa sân. Trong sân treo lác đác vài chiếc đèn lồng trắng tỏa ra những chùm sáng lạnh lẽo, bủa vây khu linh đường u ám. Xung quanh đặt bảy, tám vòng hoa, tất cả đều màu trắng, chính giữa treo bức di ảnh của Tần Hiểu Mai và một chữ “điện” rất lớn. Giữa khung cảnh ngập tràn màu trắng ấy, chiếc quan tài màu đỏ đậm ngay chính giữa sân càng trở nên nổi bật. Quan tài đặt trên hai chiếc ghế dài, bên dưới có một ngọn đèn dầu. Khi chúng tôi đến, trong sân không có một ai. Tần Xuyên nói, trước khi họ ra khỏi nhà, vì nghĩ ở đây cũng chẳng còn việc gì nữa, nên bảo họ hàng về hết rồi. Anh Điên quan sát một lượt khắp sân, rồi bước về phía chiếc quan tài. Vừa được mấy bước, Tần Xuyên đứng cạnh tôi bỗng “ớ” lên một tiếng. Ông bước nhanh qua tôi tiến về phía trước, vừa đi vừa nói: “Rõ ràng sau khi mở nắp quan tài để kiểm tra, tôi đã đậy cẩn thận rồi mà, sao giờ lại hé ra thế này?” Đúng lúc đó, một luồng gió lạnh thổi qua, mấy chiếc đèn lồng trắng khẽ đung đưa, những mảnh giấy trắng trên vòng hoa cũng lay động, bỗng chốc khiến khoảnh sân thêm phần ma quái. “Hiểu Mai về đấy...” Mẹ Tần Hiểu Mai hô lên rồi chạy về phía quan tài. Tôi nhíu mày hỏi Tần Xuyên: “Hay là ông nhớ nhầm?” Tần Xuyên do dự không dám khẳng định. Anh Điên xoa dịu không khí: “Có lẽ lúc đó họ đi vội quá nên nhớ nhầm”, rồi đưa tay kéo nắp quan tài. Tôi thở phào, vừa định bước tới giúp anh Điên một tay, thì nghe thấy mẹ Tần Hiểu Mai hét lên điên dại: “Hiểu Mai! Hiểu Mai!” Nói rồi bà ta lấy hết sức đẩy nắp quan tài sang một bên, khiến nó đổ “rầm” xuống đất. Ba người chúng tôi đều xông đến, ngó đầu vào bên trong. Tôi thấy miệng mình khô rát, cổ họng nghẹt thở: xác Tần Hiểu Mai rõ ràng phải nằm trong phòng khám nghiệm tử thi ở Đội Cảnh sát hình sự, sao giờ lại nằm sờ sờ trong quan tài? Sắc mặt cô ta vẫn còn nguyên vẻ đen sạm ấy, với vài chỗ bầm tím, chỉ khác là mắt cô ta đang mở trừng trừng, hai khóe mắt có vệt đỏ như hai hàng lệ máu, làn môi dường như cũng hồng nhuận hơn trước. Tôi sợ đến độ không thốt nên lời, định bỏ chạy nhưng đôi chân như bị đóng đinh tại chỗ. Cũng may anh Điên nhanh chóng đẩy tôi ra, nói lớn: “Gọi điện về Đội, cho người đến kiểm tra phòng khám nghiệm tử thi ngay!” Mời các bạn đón đọc Kẻ Trừng Phạt của tác giả Vi Nhất Đồng.
Người Lạ Trên Tàu
Đã quen với những tay sát nhân máu lạnh, với những âm mưu tỉ mỉ được lên kế hoạch kĩ càng, độc giả hẳn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng khi bước chân vào thế giới của Người Lạ Trên Tàu. Dưới ngòi bút bậc thầy của Patricia Highsmith, ngay cả những con người bình thường nhất cũng có khả năng phạm phải những tội ác ghê gớm nhất. Guy và Bruno, hai con người với tính cách hoàn toàn đối lập, tình cờ gặp nhau trên một chuyến tàu. Trong khi Guy là một kiến trúc sư tài hoa đang cố gắng li dị cô vợ hư hỏng, thì Bruno là một cậu ấm vô công rồi nghề, đang tìm cách thoát khỏi vòng kìm kẹp của cha mình. Sau một tối ngập trong rượu, Bruno bốc đồng đề nghị Guy và cậu ta giết người hộ nhau: Guy giết cha cậu ta và đổi lại cậu ta sẽ giết vợ Guy. Một phi vụ giết người hoàn hảo. Câu chuyện đi theo Guy và Bruno qua những âm mưu, giằng xé đạo đức, những mối quan hệ phức tạp và mối liên kết không thể phá vỡ dần hình thành giữa họ.  *** “Khi trở nên kích động, thì chỉ cần một chuyện nhỏ nhặt nhất thôi cũng có thể đẩy con người ta xuống vực thẳm.” Đây là một câu nói thấm đẫm triết lý trong “Người lạ trên tàu” – một lời phản biện mà Charles Bruno dành cho Guy Haines khi tranh cãi về việc trong cuộc đời sẽ có ít nhất một kẻ nào đó mà ta thực lòng muốn thủ tiêu để thấy hạnh phúc hơn. Quyển “Người lạ trên tàu” dường như đã bị người ta lãng quên bởi sự thành công của bộ phim chuyển thể. Sự xuất sắc của đạo diễn Alfred Hitchcock khi chuyển thể ít nhiều đã làm lu mờ đi tác phẩm gốc của Patricia Highsmith đến nỗi mà người không nghĩ đây là tựa của một quyển sách nữa. Thực lòng thì cuốn sách cực kỳ hay và bộ phim cũng thế nên tôi thích cả hai phiên bản này. Tôi nghĩ bạn cũng thử xem cả phim và sách để có cái nhìn đối chiếu hoàn thiện hơn. “Người lạ trên tàu” là câu chuyện về Guy Haines một anh chàng kiến trúc sư tài hoa và nhà xã hội học giàu có Charles Bruno. Hai người gặp nhau trên một chuyến tàu khi Guy đang về nhà để yêu cầu vợ là Miriam ly hôn để anh ta có thể kết hôn với Anne Morton – một người ăn chơi, giàu có và tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Trước đó, Miriam đã từng đồng ý ly hôn, nhưng lần này Guy có căn cứ để cho rằng Miriam đang mang thai và Guy tin chắc chắn rằng anh không phải là cha. Tuy nhiên, trong lòng Guy vô cùng băn khoăn về việc ấy và nghĩ rằng cô vợ sẽ gây ra nhiều rắc rối để làm chậm trễ tiến trình ly hôn. Những nỗi lòng ấy được tâm sự với Bruno và một kế hoạch kỳ quái đã được đề ra. Nếu Guy đồng ý giết cha của Bruno thì anh ta sẽ giết Miriam dùm Guy. Sở dĩ Bruno đưa ra lời đề nghị kinh dị này bởi vì đối với anh ta thì người bố ấy là nguồn gốc của mọi sự khốn khổ trong cuộc sống của anh ta. Kế hoạch này dường như có lợi cho cả hai bên vì một kẻ tiêu diệt được người thân đáng ghét còn một kẻ sẽ tiếp tục thuận lợi trong con đường hôn nhân. Tuy nhiên, Guy không phải là một kẻ giết người máu lạnh và khi nghe được lời đề nghị đó, anh chàng đã bị sốc vô cùng và ngay lập tức gạt bỏ ý tưởng điên rồ ấy rồi xuống tàu với quyết định sẽ không bao giờ gặp lại con người kia. Nhưng mọi chuyện không hề êm đẹp như ước muốn của Guy bởi không lâu sau đó, Miriam bị giết và nghiễm nhiên là Guy biết ai là kẻ thủ ác. Tự nhiên Guy bị cuốn vào trò chơi giết người ấy dù không hề mong muốn. Kịch bản “mèo vờn chuột” luôn được tận dụng hoàn hảo trong các tác phẩm của Highsmith và “Người lạ trên tàu” cũng không ngoại lệ. Những sự tuyệt vọng của Guy khi cố thoát khỏi trò chơi của Bruno đã mang lại sự kịch tính cho truyện. Một Bruno loạn trí và một Guy mâu thuẫn trong nội tâm cùng chơi một “game thú vị”. Mạch truyện sau đó cho thấy không hề có yếu tố lãng mạn trong “Người lạ trên tàu”. Anne Morton là kiểu phụ nữ muốn tạo ra một vỏ bọc hôn nhân hoàn hảo cho bản thân, và dường như cô ta chỉ cần biết bản thân có chút thích anh chàng đó và không mấy quan tâm việc người đàn ông ấy có yêu mình hay không. Guy, may mắn thay, lại là người rất yêu Anne. Anh ấy có tầm nhìn về sự nghiệp của mình và biết cha của Anne có ảnh hưởng lớn đối với sự thành bại trong tương lai. Nhưng, nếu Guy dính líu đến vụ giết Miriam, thì anh ta chỉ có thể nói lời tạm biệt với Anne và những khao khát về nghề nghiệp. Trong khi mối quan hệ giữa Guy và Anne không phải là điều gì quá thú vị thì mối quan hệ giữa Guy và Bruno ngày càng trở nên phức tạp và mơ hồ. Bruno rõ ràng có rất nhiều vấn đề và những vấn đề này cũng mở rộng sang lĩnh vực tình dục. Một người đàn ông quá loạn trí khi tham gia vào bất cứ điều gì lành mạnh và mối quan hệ kỳ lạ của anh ta với cha mẹ, đặc biệt là với mẹ anh ta, ngăn cản anh ta phát triển mối quan hệ dị tính hoặc đồng tính trong quá khứ. Tuy nhiên, sự tiến triển trong mối quan hệ giữa Guy và Bruno rất hấp dẫn, đặc biệt là khi chúng ta chứng kiến sự suy đồi về tình cảm và đạo đức của Guy. Một số người có thể xem anh ta như một nạn nhân nhưng tôi thì không vì Guy hoàn toàn tỉnh táo, và anh ta đủ nhận thức để phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Những câu văn trong “Người lạ trên tàu” mang lại cho tôi cảm giác vô cùng căng thẳng và hồi hộp, đôi khi không thể để đặt cuốn sách xuống ngay cả khi ngủ. Cảnh mà Bruno giết Miriam đặc biệt hồi hộp, và mặc dù tôi biết những gì sắp xảy ra, nhưng tôi thực sự không kịp chuẩn bị tinh thần cho tình cảnh đó. Đây là một cuốn sách miêu tả nội tâm nhân vật cực hay và phần lớn sự hồi hộp diễn ra trong tâm trí của Guy và Bruno. Highsmith khiến tôi hồi hộp và cắn móng tay vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo cả. Với cách miêu tả kỹ lưỡng, tỉ mỉ từng chi tiết giằng xé nội tâm của hai nhân vật, từ những ngôn ngữ, cử chỉ, hành động cho đến những suy nghĩ điên rồ bệnh hoạn của Bruno; từ những đau đớn tột cùng của Guy khi bị Bruno chi phối, làm ảnh hưởng trầm trọng đến gia đình, tình yêu, sự nghiệp của Guy, cái cách mà Guy khốn khổ, vật vã khi không thể thoát ra khỏi sự bủa vây của Bruno trong tâm trí cũng như cuộc sống… đối với nhiều độc giả ưa thích motif nhanh, cuốn, không quá chuyên sâu vào việc lột tả tâm lý nhân vật, ưa thích những đòn cân não, những vụ án máu me, những suy luận sắc bén, hoặc đơn giản là không thích những cốt truyện mà tác giả tiết lộ hung thủ ngay từ đầu, có thể sẽ cảm thấy nó là lê thê, rệu rã, mất kiên nhẫn, là không đúng với gu của mình. Nó là quá trình hình thành nên cái bản ngã độc ác của một con người, nó từ lương thiện, hiền lành, khi gặp đúng hoàn cảnh thích hợp, nó sẽ tha hóa, biến chất, trở thành một tên sát nhân qua ngòi bút tỉ mỉ, đôi khi pha chút hóm hỉnh, những ví von hài hước nhưng cũng không kém phần mỉa mai, nhạo báng của Patricia Highsmith. “Cái ác ghê gớm nhất bắt nguồn từ chính chúng ta – Jean Jacques Rousseau”. Đọc “Người lạ trên tàu” – một tác phẩm xuất sắc của Patricia Highsmith để có câu trả lời cho bạn nhé. *** “Người lạ trên tàu là một cuốn trinh thám đơn giản đến ngỡ ngàng. Không có những pha hành động nguy hiểm, không có những sát thủ máu lạnh, không có những âm mưu tỉ mỉ được lên kế hoạch kỹ càng. Không có những cú twist hay những pha đấu trí căng thẳng. Không có những màn suy luận sắc sảo. Tội phạm được lộ diện ngay từ đầu. Nhưng chính cái sự đơn giản đến ngỡ ngàng của Người lạ trên tàu lại khiến người đọc bị thu hút. Tác giả tập trung vào khai thác tâm lý của nhân vật khiến ta phải giật mình suy ngẫm. Việc giết người được diễn ra dưới một cách thức hết sức đơn giản, tầm thường không cần phải sắp xếp hay theo một kế hoạch nào cả. Thủ phạm trong Người lạ trên tàu cũng rất đặc biệt. Anh ta muốn trả giá cho hành động của mình nhưng các mối quan hệ phức tạp khiến anh ta giằng xé và đấu tranh.” (Binh Boog) *** Con tàu lao đi vùn vụt với guồng quay bất ổn đầy giận dữ. Nó phải dừng chân ở các trạm thường xuyên hơn, nơi nó sẽ nôn nóng đứng chờ trong giây lát rồi lại tiếp tục tấn công thảo nguyên. Nhưng biến động mà nó gây ra lại quá đỗi nhỏ bé. Thảo nguyên chỉ khẽ dập dờn, như một chiếc chăn hồng mênh mông bị rũ nhẹ một cách thờ ơ. Tàu chạy càng nhanh thì những chuyển động dập dờn ấy lại càng trôi nổi trong gió với vẻ nhạo báng. Guy rời mắt khỏi khung cửa sổ, tiếp tục ngồi dính chặt vào ghế. Miriam sẽ cố gắng trì hoãn vụ ly dị lâu nhất có thể, anh nghĩ thầm. Vì tiền, có khi cô ta còn chẳng muốn ly dị cũng nên. Cứ thế này thì liệu anh có thể thật sự cắt đứt với cô ta không? Anh bắt đầu nhận ra sự căm ghét đang dần làm tê liệt suy nghĩ của mình, tạo ra những lối rẽ nhỏ tối tăm trên con đường mà logic đã chỉ ra khi anh còn ở New York. Anh có thế cảm nhận Miriam đang ở trước mặt, không còn xa xôi, làn da hồng hào và rám nắng, đầy tàn nhang, phát ra hơi nóng bệnh tật, như thảo nguyên bên ngoài khung cửa sổ kia. Sưng sỉa và thô lỗ. Anh tìm thuốc lá trong vô thức, lần thứ 10 nhớ tới quy định không được phép hút thuốc trong toa cao cấp, nhưng cuối cùng vẫn rút ra một điếu. Anh gõ điếu thuốc lên mặt đồng hồ rồi xem giờ, như thể điều đó vẫn còn có ý nghĩa trong ngày hôm nay, 5 giờ 12 phút. Anh đút điếu thuốc vào khóe miệng trước khi đưa que diêm lên. Thế rồi que diêm trên tay được thay thế bằng điếu thuốc, anh hít vào từng hơi thật đều và chậm rãi. Hết lần này tới lần khác, đôi mắt nâu của anh rơi xuống vùng đất bướng bỉnh và hấp dẫn bên ngoài cửa sổ kia. Một bên cổ áo mềm mại hơi vểnh lên. Trên hình ảnh phản chiếu được ráng chiều in lên cửa kính, viền cổ áo trắng dọc quai hàm gợi lại phong cách ăn mặc của thế kỷ trước, cũng giống như mái tóc đen được vuốt cao, rũ xuống trên đỉnh đầu rồi thu gọn lại sau gáy. Mái tóc vuốt lên và đường dốc của chiếc mũi dài khiến vẻ ngoài của anh mang theo nét mạnh mẽ và bạo dạn, dù hàng lông mày ngang rậm rạp và khuôn miệng lại cho thấy sự trì trệ và bảo thủ. Anh mặc một chiếc quần vải flannel phẳng phiu, áo khoác sẫm màu rũ xuống trên cơ thể dong dỏng và có màu tím nhạt ở những nơi được ánh sáng chiếu vào, cà vạt len màu cà chua được thắt cẩn thận. Anh không nghĩ Miriam sẽ có bầu trừ phi cô ta muốn. Điều đó cũng có nghĩa là người tình của cô ta có ý định cưới xin. Nhưng vì sao cô ta lại gọi cho anh? Cô ta không cần sự có mặt của anh thì mới có thể nộp được đơn ly dị. Và vì sao anh cứ lặp lại những luận điệu ngu ngốc mà anh đã nghĩ tới cách đây 4 ngày khi nhận được thư của cô ta? 5 hay 6 dòng gì đó bằng nét chữ viết tay tròn trịa của Miriam chỉ nói rằng cô ta sắp có con và muốn gặp anh. Anh lập luận rằng việc cô ta có bầu sẽ đảm bảo cho vụ ly dị được tiến hành, nhưng vì sao lúc này anh lại thấy lo lắng cơ chứ? Điều khiến anh bị tra tấn nhất là ở một vùng đất sâu thẳm trong tâm hồn, anh thấy ghen tị vì cô ta đang mang thai con của một người đàn ông khác, nhưng lại từng bỏ đi đứa con của anh. Không, anh tự nhủ rằng chẳng có gì ngoài cảm giác xấu hổ khiến anh bực bội, xấu hổ vì anh đã từng yêu một người như Miriam. Anh dập tắt điếu thuốc lên mặt lò sưởi. Đầu thuốc lăn xuống chân và anh đá nó vào phía dưới lò sưởi. Hiện giờ, có rất nhiều thứ để hướng tới. Ly dị, công việc ở Florida - gần như chắc chắn Ban giám đốc sẽ duyệt các bản vẽ của anh và trong tuần này thôi, kết quả sẽ ngã ngũ - rồi cả Anne nữa. Bây giờ, anh và Anne đã có thể bắt đầu lên kế hoạch được rồi. Hơn 1 năm qua, anh đã chờ đợi, cáu bẳn, mong đợi chuyện này xảy ra để anh được tự do. Cảm nhận được sự hạnh phúc đang bùng nổ một cách dễ chịu, anh thả lỏng người trên chiếc ghế xa hoa. Thật sự, suốt 3 năm qua, anh vẫn mong chờ chuyện này xảy ra. Anh có thể trả tiền để ly dị, tất nhiên, nhưng anh chưa bao giờ gom góp được nhiều tiền tiết kiệm như lúc này. Không có nhiều phúc lợi vì anh không làm việc ổn định ở một công ty nào, khởi nghiệp là một kiến trúc sư chưa bao giờ là một điều dễ dàng và ngay cả bây giờ cũng vậy. Miriam chưa bao giờ đòi lấy thu nhập của anh, nhưng cô ta yêu sách anh theo cách khác, nói chuyện về việc anh ở Metcalf như thể họ vẫn còn tốt đẹp lắm, như thể anh tới New York chỉ để thể hiện bản thân và cuối cùng sẽ đưa cô ta tới cùng. Thỉnh thoảng, cô ta lại viết thư vòi tiền anh, những khoản tiền nhỏ thôi nhưng rất phiền nhiễu, anh vẫn gửi bởi vì cô ta có thể thản nhiên khởi động một chiến dịch chống lại anh ở Metcalf, mà mẹ anh thì vẫn đang ở đó. Một chàng trai trẻ tóc vàng, cao ráo, mặc bộ vest màu nâu đồng vừa ngồi phịch xuống chiếc ghế trống đối diện Guy và nở một nụ cười có phần thân thiện, sau đó dịch người vào trong góc. Guy liếc nhìn khuôn mặt nhỏ thó, xanh xao của cậu ta. Có một cái mụn lớn ở giữa trán cậu. Guy lại đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Chàng trai ngồi đối diện có vẻ đang đấu tranh xem nên bắt chuyện hay đánh một giấc. Khuỷu tay của cậu ta liên tục trượt dọc bục cửa số và mỗi khi hàng lông mi rậm rạp mở ra, đôi mắt xám đỏ quạch lại nhìn anh cùng với một nụ cười mỉm trên môi. Có lẽ cậu ta đang ngà ngà say. Guy mở sách ra đọc, nhưng đầu óc anh lại đi lang thang ngay sau một nửa trang giấy. Anh ngẩng lên khi hàng bóng đèn huỳnh quang trắng lập lòe chiếu xuống từ nóc toa tàu, ánh mắt vẩn vơ chạm vào một điếu xì gà chưa được châm đang xoay tròn lơ đãng bởi một bàn tay xương xẩu sau lưng ghế, sau đó anh nhìn vào hàng chữ viết hoa được lồng vào nhau đang lắc lư trên một sợi dây vàng mỏng vắt qua cà vạt của chàng trai ngồi đối diện. Hàng chữ ấy là CAB, chiếc cà vạt bằng lụa xanh lục, bên trên là những cây cọ chướng mắt màu da cam được vẽ bằng tay. Cơ thể thon dài mặc bộ đồ màu nâu đồng ấy đang nằm duỗi ra một cách ẻo lả, đầu ngả ra phía sau khiến cho cái nhọt lớn hoặc vết sưng trên trán kia trông như một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đó là một khuôn mặt thú vị, dù Guy không biết vì sao. Trông nó chẳng già cũng chẳng trẻ, không thông tuệ cũng chẳng hoàn toàn ngu đần. Giữa vầng trán dô hẹp và quai hàm nhô ra, mọi thứ hõm xuống một cách nguyên thủy, hõm sâu nơi miệng hằn thành một đường thẳng, nhưng sâu nhất thì phải nói đến cái hõm xanh chứa hai mi mắt nhỏ hình vỏ sò. Da dẻ mịn như con gái, thậm chí là trơn nhẵn, như thể mọi bụi bẩn đã được rút sạch đế nuôi dưỡng cái mụn. Trong giây lát, Guy lại đọc sách. Các con chữ dần có ý nghĩa và bắt đầu xua tan sự lo lắng trong anh. Nhưng Plato* có thể giúp gì cho anh trong chuyện Miriam cơ chứ, một giọng nói trong lòng anh cất tiếng hỏi. Nó đã hỏi anh câu đó ở New York, nhưng anh vẫn mang cuốn sách theo, một cuốn sách cũ từ lớp triết hồi trung học, có lẽ là một sự tùy hứng để bù đắp cho việc anh phải tới gặp Miriam. *Plato (427 - 347 trước Công nguyên), là nhà đại hiền triết và nhà giáo dục của Hy Lạp cổ, đồng thời cũng là một trong các nhà tư tưởng quan trọng nhất, đã viết ra nhiều tác phẩm giá trị, tạo nên ảnh hưởng rộng lớn trong nền Triết học phương Tây. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, mắt chạm vào hình ảnh của chính mình đang vuốt phẳng cổ áo cong tớn. Anne luôn giúp anh làm việc đó. Đột nhiên, anh cảm thấy bất lực khi không có cô. Anh chuyển tư thế, vô tình va vào bàn chân duỗi ra của chàng trai đang ngủ, thích thú quan sát khi hàng lông mi của cậu ta nhíu lại rồi mở ra. Đôi mắt đỏ quạch hẳn đã tập trung nhìn anh từ nãy đến giờ qua hàng lông mi. “Xin lỗi,” Guy lầm bầm. “Không sao,” cậu ta nói, ngồi thẳng dậy và lắc đầu thật mạnh. “Chúng ta đang ở đâu?” “Đang vào Texas.” Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trên Tàu của tác giả Patricia Highsmith.