Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mối Thù Thiên Thu (Jack London)

Mối thù thiên thu là một phần thuộc tập 10 truyện trinh thám nổi tiếng Thám Tử Conan của Jack London. Liệu diễn biến tiếp theo của câu chuyện sẽ xảy ra nư thế nào!?***

Jack London sinh ngày 12-1-1876 tại San Francisco, tiểu bang California, với tên khai sinh đầy đủ là John Griffith Chaney trong một khu nghèo khổ của thành phố - "bên kia đường ray" như sau này ông viết. Những thanh ray của tuyến tàu điện chính ngăn San Francisco ra làm 2 nửa: phía bắc là khu của những người giàu; còn phía nam đường ray - người nghèo, thất nghiệp và ăn mày chen chúc.

Jack London đã được sinh ra tại chính khu này và lại là đứa con ngoài giá thú. Ông không bao giờ biết được cha mình là ai, chỉ nghe nói lại đó là một nhà chiêm tinh với những thủ thuật đáng ngờ, một kẻ luôn trốn tránh trách nhiệm làm cha. Tuổi thơ của Jack ngập trong đói nghèo và sự khốn cùng.

Trong một cuốn tiểu sử tự thuật ông viết sau này, ông thú nhận năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên ông phải đi ăn cắp - do cái đói thúc bách - một mẩu sandwich của một cô bé. Mãi tới năm 9 tuổi Jack mới có chiếc áo sơ mi đầu tiên. Tuy là một chiếc áo cũ nhàu nát, nhưng "Tôi phấn khởi biết dường nào. Nhiều ngày liền tôi không cởi áo ra để cho mọi người biết mình cũng có sơ mi mặc như ai", như Jack đã viết như thế.

Tác giả của "33 đầu sách cùng rất nhiều truyện ngắn và mẩu tin trên báo" được coi là một trong những nhà văn hiện thực Mỹ hàng đầu. Nét nổi bật trong những cuốn sách của ông là vốn sống thực tế với những bi kịch của cuộc đời. Cho đến nay, Jack London vẫn là một trong những tác giả được bạn đọc khắp thế giới ưa thích nhất. Cách đây một thế kỷ. Tìm mua: Mối Thù Thiên Thu TiKi Lazada Shopee

Vào tháng 11-1916, khi tin ông từ trần được loan báo khắp thế giới, rất nhiều độc giả không muốn tin vào sự thật phũ phàng đó. Họ thêm vào một trong những huyền thoại nữa về nhà văn vĩ đại: Jack London không tự vẫn, mà ông lẩn khuất ở một nơi nào đó…

***

Xe lướt tuyết rền rĩ những âm điệu như than vãn hoà với tiếng rèn rẹt của dây cương và tiếng leng reng của những quả chuông buộc nơi cổ những con chó đầu đàn; nhưng người và vật đều mệt mỏi nên chẳng buồn cất tiếng. Con đường mòn nằm lấp dưới lớp tuyết dày đặc mới rơi xuống. Họ đã vượt một khoảng đường xa, và những bàn trượt nặng trĩu dưới những tảng thịt nai rừng nặng như đá, bám rít lấy mặt tuyết chưa kết đông và chậm lại một cách bướng bỉnh hầu như có người xúi giục vậy. Màn đêm xuống dần, nhưng đêm hôm đó họ không có ý định cắm trại. Tuyết lả tả rơi trong bầu trời êm ả, không thành băng tuyết mà thành những mảnh pha lê li ti đủ hình thể xinh đẹp. Trời thực ấm áp - chỉ ngót 10 độ[1] dưới không độ - và mọi người cảm thấy thoải mái. Meyers và Bettles đã lật hai cánh mũi che tai lên, và Malemute Kid* lại còn tháo cả bao tay ra.

Đàn chó đã mệt mỏi từ lúc xế trưa, nhưng lúc này chúng lại tỏ ra hăng hái như vừa được tiếp một nguồn sinh lực mới. Trong đám những con chó khôn, có một vẻ bồn chồn - chúng hung hăng nhưng bị dây kéo cản lại, chúng hỉnh mũi đánh hơi và dỏng tai lên nghe ngóng. Chúng bực tức với những con có vẻ thờ ơ, thúc dục những con này bằng cách táp nhẹ vào mông chúng. Những con bị trách móc như vậy cũng dúm lại và hùa vào làm cho vẻ hung hăng lan rộng thêm. Sau cùng con đầu đàn của chiếc xe dẫn lộ rít lên một tiếng mãn nguyện, rạp mình sát xuống tuyết rồi lao tới phía trước. Những con khác cũng rít lên như vậy. Các đoàn sau đi túm tụm lại, dây kéo siết lại gần nhau; những chiếc xe lướt trên tuyết băng tới trước, và mọi người nắm chặt lấy cây cột, nhấc chân bước mạnh mẽ càng lúc càng mau để khỏi bị xe lướt tuyết cán lên. Dường như họ vừa trút được hết sự mỏi mệt lúc ban ngày, và họ lên tiếng hò khuyến khích đàn chó. Chúng đáp lại bằng những tiếng sủa ăng ẳng vui vẻ. Họ đang tiến với một sức phi mau như gió qua bóng tối đang xuống dần.

Mọi người lần lượt kêu mấy tiếng “Quẹo! Quẹo!” trong khi chiếc xe lướt tuyết bất chợt rời bỏ đường chính, họ điều khiển những xe lướt tuyết đó như đoàn thuyền lướt trong gió.

Sau đó là cuộc chạy nước rút một trăm thước tới cái cửa sổ che bằng tấm da bên trong có ánh sáng le lói như báo cho mọi người biết đó là cái chòi có người ở, có lò lửa kiểu Yukon đang cháy rực, và những ấm trà đang bốc hơi nghi ngút. Người và vật đã đổ xô tới chiếc chòi đó. Chừng sáu chục con sủa vang như khiêu khích, và có những con vật lông xù to lớn xông lại phía những con chó kéo chiếc xe đi đầu. Cánh cửa mở bật ra, một người mặc áo màu đỏ tía thuộc Cảnh Sát miền Tây Bắc bước một cách khó khăn giữa những con vật hung hăng, lông chúng che phủ tới đầu gối người đó; ông dàn hoà chúng một cách bình tĩnh và vô từ bằng cái cán roi. Sau đó mọi người bắt tay chào hỏi, và Malemute Kid được người lạ bắt tay mời vào căn lều của chính mình.

Stanley Prince, lẽ ra phải ra đón anh, và có nhiệm vụ trông chừng cái lò và trà nóng, lại đang bận rộn khách khứa. Họ chừng hơn chục người, thật là một nhóm người hỗn tạp phụng sự Hoàng gia Anh để thi hành luật pháp hoặc phân phát thư tín. Họ thuộc nhiều nhân chủng khác nhau, nhưng cuộc đời thường nhật đã tạo họ thành một hạng người đặc biệt - một loại người dong dỏng và gân guốc, có bắp thịt cứng rắn vì phải đi lại đường rừng, khuôn mặt xạm nắng và tâm hồn thanh thản, cặp mắt sáng luôn luôn nhìn thẳng và thành thực. Họ đánh xe do chó của Hoàng gia kéo, gieo sợ hãi vào lòng những kẻ bất lương, họ ăn những thực phẩm thanh đạm của chính phủ ban cho và lấy thế làm sung sướng. Họ đã từng trải đời, tạo được nhiều thành tích, và sống những giờ phút nên thơ mà họ không ngờ.

Họ sống rất thân mật và hồn nhiên. Hai người trong bọn nằm dài trên giường của Malemute Kid, miệng hát những bài ca mà tổ tiên người Pháp của họ đã hát khi mới đặt chân tới mảnh đất miền Tây Bắc và sống chung với người Da Đỏ ở đó. Giường của Bettles cũng bị chiếm; ba hay bốn “khách du hành” lực lưỡng vừa cựa quậy ngón chân của họ trong đống chăn mền vừa nghe chuyện một người đã từng phụng sự trong lữ đoàn hải thuyền cùng với Wolseley khi ông này chiến đấu mở đường đi tới Khartoum. Và khi anh này mệt rồi, một chàng “chăn bò” thuật lại về những triều đình cùng những ông hoàng bà chúa mà anh ta đã thấy hồi Buffalo Bill đi lưu diễn tại các kinh đô bên Âu Châu. Trong một góc phòng có hai chàng lai, cựu đồng ngũ trong một cuộc bại trận, ngồi sửa lại dây cương và đàm luận về hồi mà miền Tây Bắc đang chìm trong khói lửa của cuộc nổi loạn và Louis Riel làm chúa tể.

Những lời giễu cợt và trò nghịch tinh thô lỗ ồn ào như vỡ chợ, và những cuộc mạo hiểm gian truân trên những nẻo đường và khúc sông được kể lại như chuyện tầm thường, nhưng sở dĩ nó được nhắc lại là vì nó có đượm vẻ khôi hài hoặc ngộ nghĩnh. Prince say sưa theo dõi chuyện của những vị anh hùng không tên tuổi này, những người đã chứng kiến lịch sử diễn biến, đã coi những chuyến vĩ đại, những chuyện hào hùng là chuyện tầm thường hoặc tình cờ trong cuộc sống thường nhật mà thôi. Chàng đem thuốc lá quý ra cho mọi người chuyền tay quấn hút một cách lãng phí; rồi trí nhớ dường như được mài dũa lại, mọi người đua nhau thuật lại những chuyện phiêu lưu kỳ thú cho anh nghe.

Khi buổi chuyện trò tàn và những kẻ du hành kia nhồi thuốc lá vào ống điếu cuối cùng rồi trải ra những cái túi ngủ bằng da thú được cuộn chặt, Prince quay lại bạn để hỏi thêm tin tức.

Malemute Kid, đang bắt đầu cởi giầy, cất tiếng trả lời: “Anh biết chàng chăn bò là ai rồi, và chắc anh cũng đoán được một cách dễ dàng là người nằm cùng giường với hắn có máu Anh Cát Lợi. Còn những người kia đều là dòng dõi của những tay lục lâm, lai với không biết bao nhiêu dòng máu khác. Hai người đang ở ngoài cửa đi vào thì lai máu Eskimo. Anh chàng có cái khăn quàng bằng len đan - hãy để ý cặp lông mày và cằm hắn - một người Tô Cách Lan đã từng khóc trong chiếc lều ám khói của người mẹ Da Đỏ của hắn. Và thằng đẹp trai đang đặt cái áo khoác xuống để gối đầu là một thằng lai Pháp - anh đã nghe hắn nói chuyện đó; hắn không ưa hai thằng Da Đỏ vào sau hắn. Anh hiểu không, khi bọn “lai” nổi loạn dưới sự chỉ huy của Riel thì bọn “thuần tuý”, (không lai) lại cứ phớt tỉnh, và từ ngày đó tới giờ họ vẫn không ưa gì nhau mấy”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jack London":Tiếng Gọi Nơi Hoang DãCô Gái Băng TuyếtGót SắtJack London Truyện Ngắn Chọn LọcJack London Tuyển TậpMartin EdenMối Thù Thiên ThuTừ Bỏ Thế Giới Vàng

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mối Thù Thiên Thu PDF của tác giả Jack London nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Núi Thần (Thomas Mann)
Nếu như Buddenbrooks là ngôi sao tỏa sáng trong sự nghiệp của Thomas Mann, hay Chết ở Venice là một cuốn tiểu thuyết ngắn nhưng vô cùng hoàn hảo của ông, thì Núi thần lại là kiệt tác thể hiện những tư tưởng lớn lao của nhà văn cũng như những đối lập trong nền văn hóa châu Âu. Lấy bối cảnh là một viện điều dưỡng trên vùng núi cao ở Thụy Sĩ trong những năm trước Thế chiến thứ nhất, Núi thần là bản tổng hòa của một tác phẩm kinh điển trường phái hiện đại, một bildungsroman (tiểu thuyết triết lý) truyền thống, màn kịch đầy đủ những tính cách, và bức tranh về giới tư sản châu Âu đầu thế kỷ 20. Người ta có thể thấy trong Núi thần tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn và những tư tưởng cấp tiến, tình yêu và trách nhiệm. Núi thần còn là cuốn tiểu thuyết về bệnh tật, không chỉ là bệnh tật trong cơ thể mà còn là bệnh tật trong tâm hồn. Và nơi bệnh tật ngự trị cũng là triệu chứng của sự suy thoái của chủ nghĩa tư bản và giới tư sản Âu châu. Ở một cấp độ cao hơn, Núi thần cũng đặt ra câu hỏi về bản chất của thời gian, thời gian là phương tiện và được phản ánh qua trải nghiệm của nhân vật chính, chàng kỹ sư trẻ tuổi Hans Castorp. Núi thần là cuốn sách đầy sự thông thái với ngòi bút tả thực mỉa mai, đập nhịp cùng sự sống giữa cái chết u ám.***Paul Thomas Mann (1875 - 1955) là nhà văn Đức đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý. Văn của Thomas Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kỹ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ; ông sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. Năm 1913, cuốn tiểu thuyết ngắn Der Tog in Venedig (Chết ở Venice) được xuất bản, cùng với Tonio Kroger được coi là những tác phẩm xuất sẳc nhất thuộc thể loại này. Tìm mua: Núi Thần TiKi Lazada Shopee Thế chiến thứ nhất đã đẩy nhà văn vào một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng, ông viết tập ký 600 trang Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918) trong thời gian này. Sau chiến tranh ông trở lại với văn học nghệ thuật, hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của minh là Der Zauberberg (Núi thần, 1924). Năm 1929, ông được nhận giải Nobel, chủ yếu vì bộ tiểu thuyết vĩ đại Buddenbrooks - Verfall einer Familie. Từ những năm 1930, Thomas Mann tích cực tham gia các hoạt động chính tri chống chủ nghĩa phát xít; dưới thời Đức quốc xã sách của ông bị cấm và bị đốt ở Đức, ông bị tước quốc tịch Đức (1936), phải sống lưu vong. Năm 1938 ông sang Mỹ và trở thành công dân Mỹ (1944). Sau chiến tranh ông về thăm cả Đông và Tây Đức, được đón tiếp long trọng nhưng ông không ở lại Đức mà sang định cư ở Zurich (Thụy Sỹ) cho đến khi mất. Ngoài giải Nobel, ông được cả Đông và Tây Đức trao tặng giải thưởng Goethe năm 1949; ông cũng được Đại học Oxford và Đại học Cambridge trao bằng danh dự.***Khi tới nhà điều dưỡng để thăm anh họ của mình, kỹ sư Hans Castorp không biết trước rằng, thay vì ở đó một vài tuần như dự định, anh sẽ ở lại nhiều năm, suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết dày ngàn trang của Thomas Mann. Với những người bạn Âu châu mà tôi trở nên đủ thân thiết để hỏi: cuốn tiểu thuyết nào là cuốn bạn thích nhất, câu trả lời “Núi thần” xuất hiện với một tần suất lớn đáng ngạc nhiên. Tôi thử tự lý giải như thế này: Các nhân vật chính hay phụ trong sách: từ Hans Castorp người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời trong khu điều dưỡng cho những người lao phổi, Joachim Ziemßen người anh họ ốm yếu nhưng chỉ có một hoài bão là được ra trận, bà Chauchat người phụ nữ mà Hans Castorp yêu trong tâm tưởng và ghen tuông, bác sĩ trưởng Behrens, nhà hiền triết Settembrini cho đến ông Pepperkorn, chồng của bà Chauchat người chỉ xuất hiện vào nửa cuối của truyện, đều là những nhân vật vô cùng đặc sắc. Đây là một cuốn sách đậm đặc phong vị của châu Âu, đầy sự lịch lãm và hài hước, những gì mà người châu Âu coi là sự biểu đạt của văn hóa. Nhưng cái quan trọng nhất có lẽ lại là cái khác. Đó là thái độ của Hans đối với một cuộc sống tù túng và vô nghĩa, cuộc sống của người bệnh nằm dài ngoài ban công của tòa nhà điều dưỡng, mình cuộn trong tấm chăn mỏng dệt từ lông lạc đà, miệng ngậm hàn thử biểu, nằm để chờ đợi một cái gì khủng khiếp xảy ra, có thể là cái chết, có thể là chiến tranh. Cả chiến tranh và cái chết sẽ đều tới thật. Tiếp nhận cuộc sống như một tấn bi kịch tàn độc và vô nghĩa, với một nụ cười tủm tỉm là lựa chọn của Hans, có lẽ của Thomas Mann và của nhiều người trong số chúng ta. Ngô Bảo Châu ***CÁNH CỬA MỞ RỘNGTủ sách hợp tác giữanhà toán học Ngô Bảo Châu,nhà văn Phan Việtvới Nhà xuất bản TrẻTủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG được thực hiện nhằm mục đích giới thiệu những đầu sách có giá trị của thế giới và trong nước đến bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ, góp phần thúc đẩy việc đọc sách, tinh thần hiếu học, coi trọng tri thức và những giá trị sống. Các tựa sách trong tủ do nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt tuyển chọn và giới thiệu. Tủ sách được phân thành ba mảng: văn học, khoa học xã hội - kinh tế, và khoa học tự nhiên; trước mắt cấu tạo tủ sách gồm 80% các sách có khả năng tiếp cận đông đảo bạn đọc và 20% cho các sách chuyên ngành.***Câu chuyện của Hans Castorp mà chúng tôi dự định kể hầu quý vị - không phải kể về bản thân chàng ta (vì quý độc giả sẽ gặp ở đây một chàng trai trẻ rất đỗi bình thường, mặc dù cũng không kém phần đáng mến), mà kể về câu chuyện theo thiển ý của chúng tôi rất đáng lưu truyền (có lẽ cũng nên vì Hans Castorp xin lưu ý quý vị rằng đây là câu chuyện của chàng ta, và không phải bất kỳ ai cũng có được một câu chuyện để kể): một câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, có thể nói rằng những lớp rỉ sét lịch sử đã phủ đầy lên đó, và vì vậy phải được kể bằng thời quá khứ xa xưa nhất. Điều này chẳng phải là một điểm bất lợi cho câu chuyện, đúng ra phải coi đó là lợi điểm; vì đã là chuyện kể thì phải xưa cũ chứ, và có thể nói không ngoa rằng chuyện càng lùi xa vào dĩ vãng lại càng hấp dẫn, càng có lợi cho bản thân câu chuyện lẫn cho người kể chuyện, kẻ rì rầm đọc thần chú gợi lên một thời quá khứ chưa khép lại. Tuy nhiên đối với câu chuyện này, cũng như giờ đây đối với mọi người và dĩ nhiên trong số họ bao gồm cả những người kể chuyện, phải hiểu rằng: nó già cỗi hơn rất nhiều so với tuổi của mình, sự già nua tuổi tác không thể tính bằng ngày bằng tháng, không thể tính bằng những vòng quay của trái đất quanh mặt trời; nói một cách ngắn gọn: mức độ xa xưa của nó đúng ra không được đo bởi thời gian - một nhận định kín đáo ám chỉ và lưu ý ta về tính khả nghi và bản chất tráo trở của cái yếu tố bí hiểm tên gọi thời gian. Để cho sự việc không bị bao phủ dưới bức màn thiếu tự nhiên, xin được giải thích: tính cổ xưa của câu chuyện này bắt nguồn ở chỗ, chuyện xảy ra trước một ranh giới đồng thời là bước ngoặt lịch sử, một vực thẳm xẻ ra trống hoác trong cuộc sống và trong tiềm thức… Chuyện xảy ra, hay, để tránh dùng thời hiện tại một cách có dụng ý, chuyện đã xảy ra và đã từng xảy ra khi ấy, trước kia, vào những ngày xa xưa, trong một thế giới đứng trước cuộc chiến tranh lớn mở đầu cho biết bao nhiêu sự kiện, và sự mở đầu này cho đến nay vẫn còn chưa kết thúc. Vậy là câu chuyện này đã xảy ra trước đó, mặc dù trước đó chẳng bao lâu. Nhưng phải chăng tính xưa cũ của một câu chuyện càng sâu đậm, trọn vẹn và thần thoại khi diễn biến của nó càng xích lại gần thời điểm “trước đó”, trước cái mốc lịch sử kia? Như vậy thì rất có thể câu chuyện của chúng ta, với nội dung của nó, cũng có chút hơi hướng liên quan với thần thoại.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Núi Thần PDF của tác giả Thomas Mann nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nửa Kiếp Hồng Trần, Một Khúc Du Ca (Diệp Lạc Vô Tâm)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nửa Kiếp Hồng Trần, Một Khúc Du Ca PDF của tác giả Diệp Lạc Vô Tâm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nửa Đêm Trảng Sụp (Bình Nguyên Lộc)
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi 1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất. Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn.*** Làm xong bài toán hình học không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem lại đồng hồ tay thì thấy đã mười giờ bốn mươi rồi. Cô nữ sinh đệ tứ ấy xếp giấy má sách vở lại, đứng lên toan tắt ngọn đèn tọa đăng rồi đi ngủ, nhưng còn chần chờ đứng lại trước bàn để lắng nghe tiếng mưa đêm xào xạc ngoài vườn, và tiếng gió hú đằng xa, nơi cánh đồng vắng sau nhà. Sanh hứng, cô ngâm lên bài ca dao hay bài thơ của ai, cô không còn nhớ nữa: Tìm mua: Nửa Đêm Trảng Sụp TiKi Lazada Shopee Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu Con trời lấy chú chăn trâu cũng kỳ Một là duyên, Hai là nợ … Bỗng tiếng mở cửa buồng bên trái làm Nhan giựt mình. Nàng day lại thì thấy ông Tám Huỳnh, cha của nàng, hiện ra nơi khung cửa buồng ấy, trong ánh mờ của cây đèn dầu bàn học của nàng. Tám Huỳnh mặc áo mưa, đi giày ống bằng cao su và tay cầm một chiếc nón lá cũ. Hai cha con lặng lẽ nhìn nhau rồi Tám Huỳnh như sợ con, trốn mắt nó và ngó xuống gạch. - Ba! Trời mưa mà ba đi đâu vậy ba? Tám Huỳnh ú ớ không nói được, lâu lắm ông mới thốt ra vài tiếng, nhẹ như hơi gió thoảng, Nhan cố lắng tai mới nghe: - Ba đi, con ở nhà vài bữa với bà Tư. Nhan châu mày rồi hỏi: - Có phải ba đi việc đó không ba? Tám Huỳnh đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra hiệu bảo con chớ có to tiếng rồi đáp: - Ừ … - Con sợ quá ba à! Nhan nói mà giọng nàng run run. - Không sao, con cứ an lòng. - Con không muốn ba đi nữa … - Ba đã hứa nghe lời khuyên can của con, nhưng còn phải chờ dịp như ba đã cắt nghĩa, mà dịp ấy chưa đến. Nhan nghẹn ngào, cố nuốt nước mắt, nàng cắn môi dưới lại để khỏi khóc ra tiếng. Ông Tám Huỳnh bước tới và đứng gần con. Ông xẳng giọng, nghiêm mặt lại mà rằng: - Con biết tánh ba hay tin dị đoan. Người trong nghề, ai cũng thế. Con đừng làm cho ba sợ, con nghe chưa? Nhan sợ hãi, lấm lét, liếc lên nhìn trộm cha. Ông Tám Huỳnh ngày thường trông cũng hiền từ, nhưng hễ ông nổi giận thì gương mặt ông hung tợn lạ kỳ, khiến cho người con gái độc nhứt và được thương mến hết sức của ông cũng phải kinh hoảng, không dám hó hé. Thương con quá, ông Tám dịu mặt và dịu gọng lại rồi nhỏ nhẹ nói: - Con ở nhà đừng thức khuya, hôm nào mưa thì đừng đi học, kẻo mắc mưa sanh bịnh. Đây, ba cho con tiền chợ và tiền bánh hàng. Ông Tám vừa nói vừa móc trong túi ra một ghim giấy bạc một trăm, đặt lên bàn học của con và dặn thêm: - Ai có hỏi, nói ba đi Sài Gòn uống thuốc. Nhan nhìn xấp giấy bạc rồi nức nở thêm: - Nín, kẻo bà Tư hay! Ông Tám lại xẳng giọng. Nhưng Nhan không còn sợ nữa, nàng nói: - Con... thương …ba! - Cố nhiên, ba lại không biết hay sao. Nhưng chính vì ba cũng thương con nên... - Con đi buôn gánh bán bưng nuôi ba được. - Đã lỡ rồi con à, đặt lại vấn đề làm gì. Ba có muốn theo nghề nầy đâu, nhưng hoàn cảnh đã đưa đẩy ba tới đó, rồi ba không thoát được nữa. Nhưng ba sẽ cố gắng làm vừa lòng con. Con nên nén lòng đợi một thời gian. Thôi, ba đi con nhé! Nhớ đóng cửa cẩn thận. Tám Huỳnh lặng lẽ bước tới mở hé cửa rồi lách mình ra ngoài. Nhan cũng vội bước theo cha, rồi nhìn vào bóng tối. Chớp nhoáng lên và nàng trông thấy bóng dáng dình dàng của cha nàng dưới chiếc nón lá và chiếc áo tơi, bước mau trong mưa gió: ông Tám quẹo ra sau nhà để tiến vào rừng sâu. Bóng đêm lại tràn ngập không gian, khiến Nhan kinh sợ, vội đóng cửa lại và cài then cẩn thận. Đoạn nàng tắt đèn và đánh diêm lên soi đường để đi vào buồng nàng ở phía hữu. Ông Tám Huỳnh góa vợ từ lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi con. Nhà chỉ có ba người: ông Nhan và bà Tư, một người dì họ của ông. Bà nầy ngủ ớ nhà sau, vì thế mà ông ra đi bằng cửa trước cho khỏi bị một người như bà bắt chợt bí mật của ông. Bí mật ấy, cách đây một tháng, do một sự tình cờ; Nhan đã khám phá được, sau nhiều năm nghi hoặc. Nàng đã khóc thầm nhiều ngày, rồi rốt cuộc quyết định cật vấn cha. Thấy không thể chối cãi được, ông Tám đành thú nhận với con rằng ông buôn lậu, hơn thế ông chỉ huy một toán tải hàng lậu từ biên giới Việt-Miên đến một khu rừng gần chợ Trà Võ để giao lại cho đoàn khác đưa về Sài Gòn bằng xe hơi. Nhan đã khuyên dứt cha, nhưng ông Tám bảo không khá lắm, phải đợi tìm dịp để xoay nghề mới, mới buông nghề cũ được, và nhứt là phải tìm chỗ ở mới cho thật xa, vì hễ cải tà qui chánh thì phải trốn bọn đồng đảng cũ, chúng sợ bị tố cáo, dám thủ tiêu ông lắm. Chỉ có một đứa con, mà là con mất mẹ, ông Tám cưng Nhan vô cùng, vì thế nên nàng tríu mến cha y như là tríu mến mẹ. Nên chi nàng đã âm thầm đau khổ nhiều sau cuộc khám phá đó, phần lo sợ cho an ninh của cha, phần ngại cho danh dự của gia đình vì ông Tám Huỳnh đă được thiên hạ kính nể bởi nếp sống ra mặt của ông, không có vết nhơ và không ai biết đời sống thứ nhì bí ẩn của ông hết. Nhan đi nằm nhưng trằn trọc mãi không sao nhắm mắt được. Nàng lắng tai nghe mưa gió và hình dung ra người cha già đang lướt đi dưới phong vũ, trong bóng đêm, có thể lâm nguy bất cứ vào lúc nào. Nàng xấu hổ mà nghĩ rằng tiền nàng ăn xài từ thuở giờ do một nguồn lợi bất chính mà ra, và thầm trách cha đã làm xằng. Tuy nhiên đêm nay, như bao đêm rồi, rốt cuộc Nhan vẫn tha thứ cho cha vì có bằng cớ hiển nhiên là ông Tám đã không muốn thế và chỉ bị hoàn cảnh đẩy đưa vào đó thôi.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Bình Nguyên Lộc":Cõi Âm Nơi Quán Cây DươngĐò DọcGieo Gió Gặt BãoQuán Tai HeoLữ Đoàn Mông ĐenNguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt NamNửa Đêm Trảng SụpTỳ Vết Tâm LinhSau Đêm Bố RápThầm LặngTruyện Ngắn - Bình Nguyên LộcĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nửa Đêm Trảng Sụp PDF của tác giả Bình Nguyên Lộc nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nửa Đêm Trảng Sụp (Bình Nguyên Lộc)
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi 1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất. Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn.*** Làm xong bài toán hình học không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem lại đồng hồ tay thì thấy đã mười giờ bốn mươi rồi. Cô nữ sinh đệ tứ ấy xếp giấy má sách vở lại, đứng lên toan tắt ngọn đèn tọa đăng rồi đi ngủ, nhưng còn chần chờ đứng lại trước bàn để lắng nghe tiếng mưa đêm xào xạc ngoài vườn, và tiếng gió hú đằng xa, nơi cánh đồng vắng sau nhà. Sanh hứng, cô ngâm lên bài ca dao hay bài thơ của ai, cô không còn nhớ nữa: Tìm mua: Nửa Đêm Trảng Sụp TiKi Lazada Shopee Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu Con trời lấy chú chăn trâu cũng kỳ Một là duyên, Hai là nợ … Bỗng tiếng mở cửa buồng bên trái làm Nhan giựt mình. Nàng day lại thì thấy ông Tám Huỳnh, cha của nàng, hiện ra nơi khung cửa buồng ấy, trong ánh mờ của cây đèn dầu bàn học của nàng. Tám Huỳnh mặc áo mưa, đi giày ống bằng cao su và tay cầm một chiếc nón lá cũ. Hai cha con lặng lẽ nhìn nhau rồi Tám Huỳnh như sợ con, trốn mắt nó và ngó xuống gạch. - Ba! Trời mưa mà ba đi đâu vậy ba? Tám Huỳnh ú ớ không nói được, lâu lắm ông mới thốt ra vài tiếng, nhẹ như hơi gió thoảng, Nhan cố lắng tai mới nghe: - Ba đi, con ở nhà vài bữa với bà Tư. Nhan châu mày rồi hỏi: - Có phải ba đi việc đó không ba? Tám Huỳnh đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra hiệu bảo con chớ có to tiếng rồi đáp: - Ừ … - Con sợ quá ba à! Nhan nói mà giọng nàng run run. - Không sao, con cứ an lòng. - Con không muốn ba đi nữa … - Ba đã hứa nghe lời khuyên can của con, nhưng còn phải chờ dịp như ba đã cắt nghĩa, mà dịp ấy chưa đến. Nhan nghẹn ngào, cố nuốt nước mắt, nàng cắn môi dưới lại để khỏi khóc ra tiếng. Ông Tám Huỳnh bước tới và đứng gần con. Ông xẳng giọng, nghiêm mặt lại mà rằng: - Con biết tánh ba hay tin dị đoan. Người trong nghề, ai cũng thế. Con đừng làm cho ba sợ, con nghe chưa? Nhan sợ hãi, lấm lét, liếc lên nhìn trộm cha. Ông Tám Huỳnh ngày thường trông cũng hiền từ, nhưng hễ ông nổi giận thì gương mặt ông hung tợn lạ kỳ, khiến cho người con gái độc nhứt và được thương mến hết sức của ông cũng phải kinh hoảng, không dám hó hé. Thương con quá, ông Tám dịu mặt và dịu gọng lại rồi nhỏ nhẹ nói: - Con ở nhà đừng thức khuya, hôm nào mưa thì đừng đi học, kẻo mắc mưa sanh bịnh. Đây, ba cho con tiền chợ và tiền bánh hàng. Ông Tám vừa nói vừa móc trong túi ra một ghim giấy bạc một trăm, đặt lên bàn học của con và dặn thêm: - Ai có hỏi, nói ba đi Sài Gòn uống thuốc. Nhan nhìn xấp giấy bạc rồi nức nở thêm: - Nín, kẻo bà Tư hay! Ông Tám lại xẳng giọng. Nhưng Nhan không còn sợ nữa, nàng nói: - Con... thương …ba! - Cố nhiên, ba lại không biết hay sao. Nhưng chính vì ba cũng thương con nên... - Con đi buôn gánh bán bưng nuôi ba được. - Đã lỡ rồi con à, đặt lại vấn đề làm gì. Ba có muốn theo nghề nầy đâu, nhưng hoàn cảnh đã đưa đẩy ba tới đó, rồi ba không thoát được nữa. Nhưng ba sẽ cố gắng làm vừa lòng con. Con nên nén lòng đợi một thời gian. Thôi, ba đi con nhé! Nhớ đóng cửa cẩn thận. Tám Huỳnh lặng lẽ bước tới mở hé cửa rồi lách mình ra ngoài. Nhan cũng vội bước theo cha, rồi nhìn vào bóng tối. Chớp nhoáng lên và nàng trông thấy bóng dáng dình dàng của cha nàng dưới chiếc nón lá và chiếc áo tơi, bước mau trong mưa gió: ông Tám quẹo ra sau nhà để tiến vào rừng sâu. Bóng đêm lại tràn ngập không gian, khiến Nhan kinh sợ, vội đóng cửa lại và cài then cẩn thận. Đoạn nàng tắt đèn và đánh diêm lên soi đường để đi vào buồng nàng ở phía hữu. Ông Tám Huỳnh góa vợ từ lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi con. Nhà chỉ có ba người: ông Nhan và bà Tư, một người dì họ của ông. Bà nầy ngủ ớ nhà sau, vì thế mà ông ra đi bằng cửa trước cho khỏi bị một người như bà bắt chợt bí mật của ông. Bí mật ấy, cách đây một tháng, do một sự tình cờ; Nhan đã khám phá được, sau nhiều năm nghi hoặc. Nàng đã khóc thầm nhiều ngày, rồi rốt cuộc quyết định cật vấn cha. Thấy không thể chối cãi được, ông Tám đành thú nhận với con rằng ông buôn lậu, hơn thế ông chỉ huy một toán tải hàng lậu từ biên giới Việt-Miên đến một khu rừng gần chợ Trà Võ để giao lại cho đoàn khác đưa về Sài Gòn bằng xe hơi. Nhan đã khuyên dứt cha, nhưng ông Tám bảo không khá lắm, phải đợi tìm dịp để xoay nghề mới, mới buông nghề cũ được, và nhứt là phải tìm chỗ ở mới cho thật xa, vì hễ cải tà qui chánh thì phải trốn bọn đồng đảng cũ, chúng sợ bị tố cáo, dám thủ tiêu ông lắm. Chỉ có một đứa con, mà là con mất mẹ, ông Tám cưng Nhan vô cùng, vì thế nên nàng tríu mến cha y như là tríu mến mẹ. Nên chi nàng đã âm thầm đau khổ nhiều sau cuộc khám phá đó, phần lo sợ cho an ninh của cha, phần ngại cho danh dự của gia đình vì ông Tám Huỳnh đă được thiên hạ kính nể bởi nếp sống ra mặt của ông, không có vết nhơ và không ai biết đời sống thứ nhì bí ẩn của ông hết. Nhan đi nằm nhưng trằn trọc mãi không sao nhắm mắt được. Nàng lắng tai nghe mưa gió và hình dung ra người cha già đang lướt đi dưới phong vũ, trong bóng đêm, có thể lâm nguy bất cứ vào lúc nào. Nàng xấu hổ mà nghĩ rằng tiền nàng ăn xài từ thuở giờ do một nguồn lợi bất chính mà ra, và thầm trách cha đã làm xằng. Tuy nhiên đêm nay, như bao đêm rồi, rốt cuộc Nhan vẫn tha thứ cho cha vì có bằng cớ hiển nhiên là ông Tám đã không muốn thế và chỉ bị hoàn cảnh đẩy đưa vào đó thôi.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Bình Nguyên Lộc":Cõi Âm Nơi Quán Cây DươngĐò DọcGieo Gió Gặt BãoQuán Tai HeoLữ Đoàn Mông ĐenNguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt NamNửa Đêm Trảng SụpTỳ Vết Tâm LinhSau Đêm Bố RápThầm LặngTruyện Ngắn - Bình Nguyên LộcĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nửa Đêm Trảng Sụp PDF của tác giả Bình Nguyên Lộc nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.