Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đại Đường Nê Lê Ngục

Trăng sáng giữa trời chiếu xuống cây ngô đồng, in bóng vào cửa sổ khiến cành cây giống như sừng rồng. Có lẽ ngày xưa Thôi phán quan đã treo cổ trên chính cành cây này. Bóng cành cây trên cửa sổ lay động trong gió, trông như phía dưới có người treo cổ tự sát, thi thể đung đưa, lắc qua, lắc lại… Đây mới chỉ là khởi đầu khi cao tăng Huyền Trang đặt chân đến huyện Hoắc Ấp. Nơi đây đang có một âm mưu hết sức kỳ quái. Ma trong huyện nha không phải ma. Người vạch kế lại không phải người. Miếu phán quan trở thành đất hung tà. Chùa Hưng Đường như hang hổ hang sói.  *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** #review KHÔNG SPOIL ~ 81 ÁN TÂY DU (Đại đường Nê Lê Ngục) người review Camellia Phoenix Tác giả: Trần Tiệm. Dịch giả: Losedow Thể loại: Trinh thám cổ đại TQ Đánh giá: Xuất sắc Sau bộ Trâm, bộ Liên Hoa Lâu và “Nữ ngỗ tác họa cốt”, Biển vẫn chờ để gặp được một bộ trinh thám cổ đại hay tương tự như vậy. Cứ đọc sách cũ hoài nên lâu lâu tự thưởng cho mình quyển sách mới tinh, thế là phát hiện một câu chuyện còn hay hơn cả Liên Hoa Lâu. Biển xếp “81 Án Tây Du – Đại Đường Nê Lê Ngục” là sách hay nhất đọc trong tháng 10/2018 và là một trong những quyển sách ưa thích nhất của mình. Bối cảnh câu chuyện diễn ra ở đời Đường phồn hoa thịnh thế, Lý Thế Dân đang cai trị, lấy niên hiệu là Trinh Quán – nghĩa là dẹp yên thiên hạ, mở rộng chính đạo. Nhà sư Huyền Trang đã một lần dâng biểu xin đi Tây Trúc thỉnh kinh nhưng vì biên cương còn loạn lạc nên nguyện vọng của ngài chưa được chuẩn tấu. Trước khi dấn thân vào chuyến vân du không biết khi nào trở lại, Huyền Trang muốn truy tìm tung tích nhị ca là Trần Tố, xuất gia chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương với pháp danh Trường Tiệp, đã giết sư phụ Huyền Thành rồi bỏ trốn, sau đó còn dùng lời lẽ yêu mị xúi giục Huyện lệnh Hoắc Ấp là Thôi Giác treo cổ tự vẫn. Manh mối đưa đến huyện Hoắc Ấp, tại đây Huyền Trang được nhờ chữa bệnh cho phu nhân của tân Huyện lệnh Quách Tể. Chưa ở lại nội trạch của Quách Tể được một ngày thì Huyền Trang đã mấy lần gặp nguy hiểm tính mạng, vì vậy quyết định cùng người hầu Ba La Diệp đến chùa Hưng Đường cách huyện Hoắc Ấp vài dặm đường để trú lại. Những sự kiện thần bí cứ liên tục xảy ra xung quanh khiến Huyền Trang không thể không nghĩ rằng mình đang vướng vào một âm mưu rất lớn nào đó... Trong phần 1 của “81 Án Tây Du”, những độc giả từng say mê “Tây Du Ký” sẽ được thấy một Huyền Trang rất mới mẻ khác biệt, dùng tư duy của một vị cao tăng nhiều năm nghiên cứu kinh luận để làm thám tử, thật là đặc sắc! Ngài luôn bình tĩnh (có lúc cười nhạt lạnh lùng), suy luận nhạy bén, ý chí sắt đá và can đảm có thừa, không hề giống nhân vật Đường Tăng yếu yếu đuối đuối cứ phải trông chờ sự bảo vệ và giải cứu của Tôn Ngộ Không. Tác giả Trần Tiệm cũng không tả nhân vật của mình anh tuấn tiêu sái mỹ mạo tuyệt luân như trong những truyện TQ khác, tuy vậy Huyền Trang vẫn được khắc họa rất rõ nét qua suy nghĩ của các nhân vật khác về ngài: “… vị hòa thượng trẻ tuổi thoạt nhìn ngu ngơ ngốc nghếch này có lòng dạ thâm trầm, ý chí kiên cường, ánh mắt nhạy bén, rất dễ khiến người khác thấy khó xử. Dường như ở trước mặt ngài, người nào cũng không thể che giấu điều gì, dường như hết thảy sự vụ trên đời đều hiển hiện rõ trong đôi mắt từ bi mà bình thản của ngài”. Còn nhiều đoạn tả hay hơn nữa nhưng Biển để dành cho các bạn tự đọc và thưởng thức. Vị mỹ nữ Lục La trong truyện khiến Biển nhiều lần nghĩ đến Tử Tây trong “Ngọc xuyến án”. Cùng là thiếu nữ mà hai người một trời một vực, cách biệt không tưởng. Tử Tây xuất thân bần hàn nhưng duyên dáng tinh tế, hiểu người hiểu chuyện, còn Lục La bất kỳ lời nào hành động nào cũng khiến Biển ê buốt cả răng, chỉ hận không thể bỏ qua những đoạn có nàng để đọc tiếp! Tuy hoàn cảnh và cuộc đời Lục La quả thật đáng thương nhưng Biển nghĩ nàng có thể lựa chọn một tâm thế hoàn toàn khác để quyết định số phận của mình. Dù sao thì “một gáo nước chứa ba ngàn phù du, trong hạt cát có thế giới vô tận”, giữ chấp niệm quá sâu thì kẻ đau khổ nhất vẫn là chính mình. Dù đọc truyện với một tấm lòng hết sức trong sáng vô tư nhưng Biển vẫn nhìn ra chút hint đam mỹ giữa Huyền Trang và Ba La Diệp: tên người hầu Thiên Trúc này nhiều lần bảo vệ che chở, thậm chí là cứu mạng Huyền Trang; còn vị cao tăng này lúc gặp nạn ngã lên người Ba La Diệp thì tay chạm đâu không chạm lại cứ phải chạm trúng điểm nhạy cảm (kaka). Nhưng nghiêm túc mà nói thì Biển nghĩ tác giả không cố tình đưa hint đam mỹ vào, chỉ viết như vậy để tăng thêm độ thú vị cho câu chuyện thôi. ____ Chi tiết cảm động nhất trong truyện là khi một nam nhân vai năm tấc rộng thân mười thước cao, là dũng tướng nơi sa trường giết giặc như rạ lại bằng lòng yêu thương một góa phụ, sau lại bằng lòng thả cho góa phụ đó - cũng là thê tử của mình - chạy trốn cùng tình lang. Đối với Biển, đoạn ấn tượng nhất trong truyện là: “Trời đất bao la, phu nhân của lão tử là lớn nhất! Kẻ nào dám tổn thương phu nhân của lão tử, dù có to lớn đến đâu lão tử cũng một đao chém thành hai đoạn!”. Vẫn biết đó chỉ là nhân vật trong sách, nam nhân như vậy không thể tồn tại ngoài thực tế, nhưng đôi lúc đọc được những chi tiết ngôn-tình-giả-tưởng như vậy thì vẫn có thể mỉm cười. Tuy biết không được xem nhẹ tài trí của người xưa nhưng những cơ quan mật đạo được miêu tả trong “81 Án Tây Du” quả thật hơi hoang đường: xây những “buồng thang máy” bằng gỗ chạy bằng sức gió + nước để lên xuống núi, hoặc lắp ròng rọc để di chuyển cả những công trình nặng hàng trăm tấn… Tuy nói là hơi hoang đường nhưng trong lúc đọc vẫn không thấy có điểm nào vô lý, chỉ thầm tán thưởng đầu óc của tác giả Trần Tiệm đã tưởng tượng ra và dùng bút lực trác tuyệt để diễn tả lại tất cả những khung cảnh hoành tráng đó. Truyện không có những đoạn khiến người đọc phải cười lăn lộn nhưng vẫn có thể cảm nhận sự hài hước ngấm ngầm, làm dịu đi những yếu tố đáng sợ. Đọc truyện mà Biển nhớ đến bộ phim hoạt hình 3D TQ từng xem là “Họa giang hồ chi bôi mạc đình” và “Họa giang hồ chi bất lương nhân”. Nay mới biết “Bất lương nhân” là một tổ chức tình báo – sát thủ do Lý Thế Dân sáng lập ra. Trong bộ Trâm từng có câu “Nhất thế Trường An”, trong quyển “81 Án Tây Du” này cũng nhiều lần miêu tả Trường An như một “kinh đô ánh sáng”. Biển thắc mắc không biết thành phố này hoa lệ cỡ nào mà được nhiều người ca ngợi nên đã tìm hiểu được chút thông tin sau: “Trong thời hoàng kim của mình, Trường An từng là thành phố lớn nhất và đông dân nhất thế giới. Dưới thời nhà Đường, kinh đô Trường An là thành phố đông dân nhất bấy giờ” (theo wikipedia). Đây là lần đầu Biển đọc truyện TQ chứa đựng rất nhiều điển tích lịch sử Trung Hoa mà không chán, đọc nhiều kiến thức Phật pháp mà không buồn ngủ, thậm chí còn hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Từng câu từng chữ trong quyển sách dày này đều như châu như ngọc, xứng đáng nuốt vào bụng, thu vào tâm. Trong thời gian ngắn (khoảng 11 tiếng) liên tục đọc khá nhiều từ Hán-Việt khiến Biển hơi choáng váng, tuy nhiên vì thích sử dụng từ Hán-Việt nên đã cố gắng đọc và ghi chú lại. Quyển “81 Án Tây Du - Đại Đường Nê Lê Ngục” có thiết kế bìa rất đẹp, giấy sạch chữ rõ, đặc biệt KHÔNG CÓ một lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào. Tuy được biết dịch giả Losedow đã nổi danh trong giới dịch thuật nhưng Biển vẫn xin phép khen ngợi phần chuyển ngữ của bác ấy trong quyển sách này, đọc vô cùng mượt mà dễ hiểu, những đoạn giữ nguyên từ Hán-Việt thì tao nhã thi vị. Mọt sách đọc được quyển sách hoàn hảo cũng giống như người sành ăn được thưởng thức món ăn ngon lành tinh tế. Cuốn sách khổ lớn 542 trang này sẽ là một tuyệt phẩm đối với các bạn thích thể loại trinh thám cổ đại, riêng Biển thì đọc xong sẽ đem tặng. Cái gì mình yêu thích mà không sở hữu được thì sẽ càng thương nhớ nó nhiều hơn. (Sea, 18-10-2018) P.S.1: Truyện có đề cập đến cách cứu người chết đuối rất hay ho, không rõ có thể áp dụng ngoài thực tế không. *** LỜI DẪN 1 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ tư, Ích Châu, chùa Không Tuệ. Vạt tăng bào của hòa thượng quét qua thềm đá phủ rêu xanh, thanh giới đao dài ba xích cọ lên nền đá xanh phát ra âm thanh chói tai. Ánh nắng rực rỡ, bên trong thiền phòng dường như vắng vẻ không người, chỉ có tiếng chim hót từ xa xa vọng lại. Giới đao là đao của tăng nhân, một trong những dụng cụ được mang theo bên người sau khi xuất gia. Theo giới luật chỉ cho phép dùng để cắt quần áo, không được dùng để sát sinh. Do sử dụng hạn chế, nên gọi là “giới đao”. Một xích bằng mười thốn, xấp xỉ 33,33 centimet. Tuy nhiên khi hòa thượng bước lên thềm đá, bên trong thiền phòng lại vang lên một tiếng thở dài già nua: “Trường Tiệp, tuy là gây chuyện giết người, mặc dầu cũng là mở tâm bồ đề, nhưng nếu giữ niệm sát nhân, con sẽ phải chịu đọa sinh vào cõi thấp.” Hòa thượng khẽ run lên, tay cầm giới đao, chậm rãi mở cửa bước vào. “Cuối cùng con vẫn nhất định phải xuống tay sao?” Lão tăng ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, mỉm cười nhìn hắn. Nước trào qua khóe mắt, hòa thượng nâng giới đao trong tay lên, đờ đẫn nói: “Thanh đao này, đệ tử đã ngâm dưới suối sâu ba đêm, mặt đao bọc ba ngàn phù du, lại phơi nắng ba ngày, trên phủ thêm phật quang trăm thước. Nay đến để đưa tiễn sư phụ.” Lão tăng chỉ mỉm cười nhìn hắn, nét mặt tỏ rõ nỗi niềm thương tâm không kìm nén được: “Sau hôm nay, đối với lão nạp mà nói, không ngoài một cái chết mà thôi, công đức toàn vẹn, mọi ác nghiệp đều được tịnh trừ. Ba cõi giới trong trần đời thế tục cũng coi nhẹ như không, không để lọt vào trong mắt nữa. Nhưng con, sau hôm nay, thần phật chư thiên sẽ không còn ban phúc cho con, người đời và thân hữu sẽ không còn tán tụng con, thiên hạ Đại Đường này sẽ không còn nơi sống yên ổn cho con. Giới luật trong lòng con cũng theo đó mà sụp đổ, cả đời con sẽ phải ẩn nấp trong bóng tối, trốn tránh nội tâm của chính mình. Đường tu hành của con sẽ vĩnh viễn không thể viên mãn, sau khi chết bị đày xuống Nê Lê đại địa ngục A Tì, chịu ức vạn kiếp khổ, vô cùng vô tận… Những điều này con có thể chịu đựng được không?” Trong “Thập Bát Nê Lê kinh”, đại địa ngục A Tì là ngục thứ mười ba - Huyết Trì địa ngục là ngục nặng nhất. Đối chiếu với “Bát đại địa ngục/ Bát nhiệt địa ngục” thì đại địa ngục A Tì được xét là một khám lớn, phân tách thành mười sáu địa ngục nhỏ hơn, trực thuộc Vô gián địa ngục. A Tỳ nghĩa là không xen hở, không gián đoạn. Đây chỉ cho cảnh giới địa ngục đau khổ nhất, trong ấy tội nhân bị hành hạ liên tục. “Đệ tử…” Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán, nhưng hòa thượng vẫn cắn răng nói: “Đệ tử dù chết chín lần cũng không hối hận.” “Chết là chuyện đơn giản nhất!” Lão tăng lắc đầu, thở dài một tiếng: “Có lẽ đây chính là đường tu hành của con! Tay không, cầm cán cuốc. Đi bộ, ngồi lưng trâu. Trên cầu người đi lại. Cầu trôi, nước chẳng trôi*. Ôi…!” Trích “Cảnh Đức truyền đăng lục - Quyển 27 - Đại sĩ Thiện Tuệ”. Toàn bộ bài thơ này, kỳ thực là điều hòa mâu thuẫn, hướng tới “Tính Không”, chỉ cần thuyết minh một chữ “không” thôi, cũng đã bao hàm toàn bộ vũ trụ vạn hữu rồi. Nghĩa là “không tức thị sắc, sắc tức thị không”. Hát xong bài kệ, lão tăng từ từ nhắm mắt lại, tựa như nhập định. Hòa thượng đột nhiên không cầm được nước mắt, quỳ rạp xuống khóc lớn, sau đó giới đao trong tay vung lên, máu bắn cao ba thước, đầu lão tăng đã rơi xuống đất. Giới đao rơi xuống đất kêu leng keng. Trong một khoảnh khắc này, trên mặt hòa thượng dính đầy máu tươi, lại thoáng lộ ra vẻ nanh ác. Hắn dùng vạt tăng bào bọc lấy đầu lão tăng, loạng choạng đứng dậy, lê từng bước rời khỏi thiền đường. Thiền đường cổ ngàn năm, bậc đá xanh trăm tuổi, xuất hiện một vệt máu tươi chạy dài… *** LỜI DẪN 2 Đại Đường, năm Vũ Đức thứ sáu, đạo Hà Đông, huyện Hoắc Ấp. Đạo là một đơn vị hành chính cổ dùng để phân chia địa giới, tương đương với tỉnh ngày nay. Huyện nha nằm ở phía đông thành, trước mặt là đường cái quan, lúc nào cũng đông đúc, huyên náo. Cửa nha môn dựng ở hướng nam, hai bên tường xây mở chéo theo hình chữ bát, trên tường dán đủ các loại thông cáo, theo thời gian dầm mưa dãi nắng, chất giấy cũng mục nát, nhòe mực nhìn không ra chữ, một cơn gió thổi qua, mảnh giấy nát bung ra khỏi mặt tường, bị gió cuốn bay đi mất. Hoắc Ấp là trọng trấn của Hà Đông, muốn một đường vượt sông Hoàng Hà, theo từ bến Bồ Châu đến Thái Nguyên, nhất định phải đi qua chốn này, nơi đây dân ngụ cư đông đúc, khách buôn tấp nập, huyện thành náo nhiệt vô cùng. Hoàng hôn hôm đó, trong dòng người đông vui tấp nập trên đường cái, một hòa thượng đi giày rơm, mặc sa y màu xám từ xa đi tới. Trong tay hòa thượng cầm một chiếc mõ bằng gỗ đàn hương đỏ, tay kia cầm dùi gỗ gõ mõ theo nhịp tụng, tiếng mõ phát ra nhàn nhã, xa xăm, rất không hài hòa với sự huyên náo trên phố lớn. Hòa thượng này đi đến bên ngoài bức tường kè theo hình chữ bát của huyện nha, liếc nhìn chiếc trống kêu oan kê trên bậc thềm, nhưng không tới gõ trống mà bỗng mỉm cười, có phần kỳ quái, vừa gõ mõ vừa cất bước đi lên bậc thềm. Trên công đường, huyện lệnh Hoắc Ấp - Thôi Giác, ngồi nghiêng người trên tấm thảm lông cừu nền đỏ thêu hoa, lật xem chỗ công văn đặt trên án kỷ. Bỗng dưng nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài cửa, cùng tiếng gõ mõ đều đều bên tai. “Có chuyện gì thế?” Thôi Giác bực mình hỏi. Vị huyện lệnh này tuổi mới hai mươi tám, tướng mạo nho nhã, trên mặt thoáng ý cười cười nhàn nhạt. Dù mặc áo quan màu xanh, đội mũ cánh chuồn cũng không có vẻ uy nghiêm khí phách mà có phần phiêu dật, rất ra dáng danh sĩ thời Ngụy - Tấn. Ngoài cửa có một gã tư lại chạy vào báo: “Khởi bẩm đại nhân, bên ngoài nha môn có một gã hòa thượng muốn xông vào, nhất quyết đòi gặp ngài. Hạ quan nói đại nhân đang xử lý công vụ, sẽ vào báo lại sau, nhưng hắn lại gõ mõ rất to.” Danh từ cổ chỉ chức quan coi việc bắt giặc cướp. Sau chỉ chức quan nhỏ. Còn gọi là thư lại. Tư lại này còn chưa nói xong, trong tiếng mõ, một tiếng phật kệ vang lên: “Một bát cơm ngàn nhà, thân vượt vạn dặm xa. Chỉ vì chuyện sinh tử, xin độ pháp ngày qua.* Tri phủ đại nhân anh minh, bần tăng vượt vạn dặm xa xôi đến đây, cốt chỉ mong được gặp đại nhân để hóa duyên.” Bài thơ ca ngợi Đức Phật Thế Tôn, qua hình ảnh người khoác y áo đơn sơ, tay chỉ cầm một chiếc bát mộc, nhưng dáng vẻ lại thanh thoát, vân du tự tại đi hóa độ chúng sinh. Thôi Giác cười: “Vị hòa thượng này xem chừng cũng thú vị đây, mời vào!” Hòa thượng được sai dịch dẫn lối, vẻ mặt bình thản đi vào công đường, cũng không cần mời đã khoanh chân ngồi xuống đối diện với Thôi Giác. “Đại sư pháp hiệu xưng hô thế nào?” Thấy hòa thượng này ngông cuồng, Thôi Giác cũng không đứng lên, chỉ lạnh nhạt hỏi. “Pháp hiệu là gì?” Hòa thượng trợn mắt, lạnh lùng nói: “Lòng chỉ cầu một cơ duyên đối trước Phật, cần chi đến danh hiệu chốn trần gian nhơ nháp này đây.” “Ơ?” Lúc này Thiền tông còn chưa phát triển rộng rãi, Tịnh độ tông vẫn là tông phái tu chính ở Đại Đường, chưa có nhiều hòa thượng nói chuyện kiểu này. Thôi Giác cảm thấy rất mới lạ, mỉm cười hỏi tiếp: “Đại sư từ đâu đến? Định đi tới nơi đâu?” Tịnh độ tông là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, do Cao tăng Trung Quốc Huệ Viên sáng lập. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại Tây phương Cực lạc Tịnh độ của Phật A Di Đà. Thiền tông là tông phái Phật giáo Đại thừa, sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ VI, thứ VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với sự hấp thụ một phần nào đạo Lão. Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. “Từ trong thai mẹ đến, đi tới bình bát của Phật.” Hòa thượng đáp. Thôi Giác ngán ngẩm: “Vậy… đại sư đến tìm hạ quan có chuyện gì? Cần hóa duyên gì đây?” “Thứ bần tăng cần hóa, chỉ đại nhân mới có. Nên mới vượt đường xa vạn dặm mà đến, chỉ có điều không biết đại nhân chịu cho hay không thôi.” Hòa thượng nói, có phần ngạo mạn. Thôi Giác khẽ cười: “Hạ quan có thứ gì mà người khác không có?” “Cái mạng này của đại nhân!” Hòa thượng vừa cười vừa nói, nét mặt cổ quái: “Cái đầu trên cổ, túi da ngoài thân.” Thôi Giác mặt biến sắc, ngồi thẳng lên, dùng bộ dáng âm trầm lặng lẽ quan sát, đánh giá vị hòa thượng đang mỉm cười như trêu ngươi người khác kia: “Đại sư hẳn đang đùa ta thì phải?” “Trên đường tới đây, sương gió đã mài rách của bần tăng ba tấm sa y, đất vàng cào nát của bần tăng chín đôi giày cỏ.” Hòa thượng chậm rãi nói: “Chỉ có chiếc mõ trong tay bần tăng càng mài càng sáng, có thể chiếu rõ tâm bần tăng. Có phải là thật hay không, bản thân bần tăng nhìn thấy rất rõ.” Thôi Giác cẩn thận quan sát cho kỹ, thấy hòa thượng này tuổi áng chừng khoảng ngoài ba mươi, da mặt sạm đen, thô ráp, lộ rõ vẻ phong sương, sa y mặc trên người vá chằng vá đụp, rách nát như tàu lá chuối gặp mưa rào. Đôi giày cỏ đi dưới chân đã thủng cả đế, gót chân trực tiếp giẫm trên mặt đất. Đôi bàn tay với khớp xương to dài, vết chai sạn dày cộp. Xem ra quả thật đã đi vạn dặm đường, không phải đến đây nói đùa với mình. “Cái mạng này của hạ quan tại sao lại khiến đại sư cảm thấy hứng thú?” Tâm tình Thôi Giác dần ổn định lại, trên mặt thậm chí còn mang ý cười. “Đại nhân sinh năm Khai Hoàng Tiền Tùy thứ mười bốn, ba tuổi có thể đọc hiểu sách “Luận Ngữ”, bảy tuổi có thể làm văn thơ, tuổi tròn nhược quán đã nổi danh khắp Tam Tấn, văn chương thi phú được xưng tụng đệ nhất Tiền Tùy, người đương thời khen là con của phượng hoàng, vì vậy đại nhân lấy Phượng Tử làm hiệu. Có điều đại nhân số mệnh trái ngang, đường làm quan không được như ý. Sau khi thành danh, còn chưa kịp thi triển tài năng đã gặp lúc Tùy Dạng Đế ba lần viễn chinh Cao Ly, thiên hạ rối ren, dân chúng lầm than, đành phải vào núi lánh nạn, lánh một mạch năm năm. Đại nhân có cảm thấy chua xót vì chí hướng cao xa khó có thể thực hiện hay không?” Thời xưa đàn ông hai mươi tuổi đều làm lễ đội mũ (quán), xem như thành niên, nhưng cơ thể còn chưa có tráng kiện, tương đối niên thiếu, nên xưng là “nhược”. Năm 595 TCN, thời kỳ sơ khai của nhà Tùy, dưới sự cai trị của Tùy Văn Đế - Dương Kiên - Niên hiệu: Khai Hoàng (581 - 600), Nhân Thọ (601 - 604). Lời nói của hòa thượng gây nên sóng gió ngập trời trong lòng Thôi Giác, vẻ mặt bình thản dần chuyển sắc, nhợt nhạt hẳn đi, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm nói: “Quả thật đúng như đại sư nói.” Hòa thượng cũng không để ý, tiếp tục nói: “Năm năm sau, đương kim hoàng thượng* dời Thái Nguyên, nghe nói đến tài danh của đại nhân nên mời làm quân sư ở lại trấn phủ. Đại nhân vốn cho rằng có thể tiếp tục thăng quan, thực hiện hoài bão của mình, không ngờ năm sau hoàng thượng đã khởi binh phản Tùy. Sau đó hoàng thượng lập nên Đại Đường, nếu không ngoài dự liệu, đại nhân theo hoàng thượng tiến vào Trường An, đến nay dù thế nào cũng là trọng thần trong triều. Nhưng đại quân tiến đánh xuống phía nam, phải qua Hoắc Ấp, đại nhân lập được công lớn, công này lại thay đổi cả cuộc đời đại nhân. Hoàng thượng bị ngăn trở, Thôi đại nhân ngài hiến kế bao vây dụ địch, đánh tan quân Tùy của Tống Lão Sinh. Thế là hoàng thượng lệnh đại nhân làm huyện lệnh Hoắc Ấp, trấn giữ vùng yếu địa. Đại quân của Tống Kim Cương áp sát dưới thành, đại nhân chỉ có ba trăm dân quân mà dám đánh úp ban đêm. Tướng phòng thủ Hoắc Ấp là Tầm Tương định đầu hàng địch, đại nhân liền dẫn theo hai gia nhân chạy tới phủ của hắn hành thích. Hoắc Ấp bị phá, đại nhân dẫn bách tính toàn thành chạy vào núi Hoắc tị nạn, ngay cả một hạt lương thực cũng không để lại cho quân địch. Sau khi Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương bị diệt, đại nhân cai trị Hoắc Ấp, người người không nhặt của rơi, đêm đêm không cần đóng cửa, bách tính ai ai cũng an cư lạc nghiệp. Ta muốn hỏi đại nhân, công lớn như thế, vì sao hoàng thượng đã trị vì bao nhiêu năm mà ngài vẫn chỉ là một huyện lệnh?” Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) sau quy hàng theo Lưu Vũ Chu (một thủ lĩnh quân phản Tùy) dấy binh đánh nhà Đường. Danh tướng nhà Tùy, trấn thủ Hoắc Ấp khi quân nhà Lý tiến đánh xuống phía nam. Vốn ỷ thành cao, muốn tính kế dài chờ nhà Lý cạn lương thực mới diệt, nhưng bị Lý Uyên lừa, giả đánh thua rồi chạy, quân Tùy mắc bẫy bị bao vây, nhà Lý cho đồn Tống Lão Sinh đã chết, quân Tùy vì thế mà đầu hàng, Lão Sinh để mất thành nên tự sát. Tức Đường Cao Tổ Lý Uyên, niên hiệu Vũ Đức. Nghe hòa thượng này nói tỉ mỉ những chuyện mình đã trải qua suốt nửa cuộc đời, Thôi Giác không khỏi ngây ra như phỗng, tay nắm chặt một cuộn công văn, đến độ đốt ngón tay chuyển sắc trắng bệch: “Xin đại sư chỉ điểm!” Hòa thượng đột nhiên quát lên: “Bản tâm như lửa địa ngục thiêu đốt, dục vọng không mời gọi cũng tự đó mà khởi sinh. Ba ngàn cõi giới đầy phiền não, tựu trung lại cũng chỉ là một hố lửa hung hiểm mà thôi! Ngài mặc dù tướng mạo thư sinh, nhưng mắt ngài lại bùng cháy dã tâm và dục vọng trần trụi không hề che giấu. Trên đời này, không có cái gọi là mục đích cuối cùng, ngài vĩnh viễn không biết tự thỏa mãn, không biết điểm dừng. Thân là kẻ ngồi ở ngôi cao, nếu không biết mục tiêu mà ngài đeo đuổi là gì, sao hoàng thượng dám tin dùng ngài đây?” Thôi Giác chấn động, nhất thời rơi vào trầm tư. “Ha ha, bần tăng sẽ chỉ cho ngài một con đường sáng.” Hòa thượng cười một tiếng quái dị: “Đại nhân chắc cũng biết, thế giới quỷ ma phương Tây tồn tại một cõi địa ngục Nê Lê?” “Địa ngục Nê Lê?” Thôi Giác thoáng lộ vẻ kinh ngạc. Hắn đã đọc qua kinh điển của các giáo, đương nhiên không cảm thấy xa lạ, vì thế gật đầu: “Theo cách nói của nhà Phật, địa ngục Nê Lê là một trong sáu đạo dục giới. Đạo Phật có ‘Thập Bát Nê Lê kinh’, nói con người sau khi chết, người làm nhiều việc thiện lên trời, người làm nhiều việc ác vào cõi Nê Lê. Nê Lê tổng cộng có mười tám tầng, tám nóng, tám lạnh, du tăng, cô độc. Có người gọi là Nê Lê, có người gọi là Nại Lạc Ca, cũng có người gọi nó là địa ngục.” Địa ngục, tiếng Hồ gọi là Nê Lê, tiếng Phạn gọi là Nại La Ca. “Nại Lạc” có nghĩa là người. “Ca” có nghĩa là ác. Người ác sinh ra ở nơi đó nên gọi nơi đó là Nại Lạc Ca. Do những con người ác đó lúc sinh thời đã gây ra những hành động cực kỳ tàn ác về thân, khẩu, ý cho nên phải tái sinh và tiếp tục ở cõi đó. Bởi vậy mới gọi là Nại Lạc Ca. Hòa thượng bấm ngón tay mỉm cười: “Cái danh Phượng Tử quả không phải ngoa truyền. Bần tăng nguyện đưa ngài tới Nê Lê một chuyến, đại nhân có chịu hay không?” Thôi Giác bàng hoàng kinh ngạc. “Có vua Nê Lê tên là Viêm Ma La muốn mở ngục Nê Lê ở Đông Thổ, quản lý luân hồi của Nê Lê, xét xử thiện ác của lục đạo, bây giờ còn thiếu một phán quan. Trí tuệ của đại nhân có thể coi là có một không hai ở Đông Thổ, đôi mắt có thể nhìn thấu lòng người, trăm họ ở Hoắc Ấp đồn rằng đại nhân tra xét thiện ác chưa từng sai lầm, tâm của mười vạn bách tính Hoắc Ấp xét ra vẫn còn thua, thua xa trái tim có bảy lỗ* của đại nhân đây. Nê Lê dơ bẩn, là nơi quy tập tội ác của nhân gian, vừa lúc có thể mượn nghiệp hỏa vô minh ngàn trượng của đại nhân để đè ép tà uế. Không biết ý đại nhân thế nào?” Ý chỉ người thông tuệ, có lương tâm thuần chất. Tương tự với Tỷ Can trong “Phong thần diễn nghĩa” sở hữu “thất khiếu linh lung tâm”. Hòa thượng cười nhạt, trong mắt rực lên tia sáng quái dị. “Bản quan… ta… “ Thôi Giác nghẹn lời, mồ hôi trên trán chảy xuống như mưa, lại không biết trả lời thế nào. “Uổng mang tài cao, tham vọng khó đạt. Nhân gian này đã không có duyên với đại nhân, ngục Nê Lê có lẽ là nơi để đại nhân thi triển khát vọng.” Hòa thượng cười ha hả: “Bần tăng dừng lời tại đây, duyên này có hóa hay không, đại nhân cứ tự mình suy nghĩ.” Dứt lời, hòa thượng cười to rồi rời khỏi huyện nha. Trời đã vào đêm, trong nha môn âm trầm u ám, chỉ còn tiếng mõ khoan thai xa dần. Đêm đó, huyện lệnh Hoắc Ấp Thôi Giác dùng một dải lụa trắng tự vẫn dưới gốc cây trước sân.   Mời các bạn đón đọc Đại Đường Nê Lê Ngục của tác giả Trần Tiệm & Losedow (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Án Mạng Thứ Sáu
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của "Vua trinh thám Việt" - nhà văn Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lí trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Vụ án mạng thứ sáu là tác phẩm tiếp theo trong Series truyện Thám tử Kỳ Phát, đánh dấu sự trở lại của Kỳ Phát sau một thời gian ở ẩn. Đón chờ chàng thám tử tài ba của chúng ta là một vụ án khá hóc búa. Hai cụ già, có thân phận và hoàn cảnh không liên quan gì đến nhau nhưng lại lần lượt bỏ mạng bởi một sợi dây thừng siết chặt quanh cổ. Thủ phạm sau khi ra tay đã để lại những lời cảnh báo đầy ngạo mạn, tự xem mình là "sứ giả" được Trời sai xuống để "hóa kiếp" cho các cụ già tới số. Bí mật ẩn sau những vụ án mạng này là gì? Thân phận thật sự của kẻ giết người là ai? Liệu Kỳ Phát có thể tìm ra thủ phạm trước khi có thêm những nạn nhân mới. *** Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Vụ Án Mạng Thứ Sáu Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Kỳ Phát giết người: Một hôm, nhận được thư của Cúc, Kỳ Phát vội vàng tới gặp tình cũ. Chồng Cúc mới qua đời, đứa con trai tên Hoàn lại bị bắt cóc, khiến cho nàng vô cùng hoang mang, đau đớn. Cùng lúc đó, một cậu bé tên Hoàn khác cũng mất tích. Kỳ lạ là trong cả hai vụ, hai gia đình đều bị trộm đột nhập nhưng chỉ mất mấy đôi đũa. Ai là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả mọi chuyện? Kỳ Phát phải làm gì để tìm được con trai Cúc? Bí mật nào ẩn giấu đằng sau hai vụ bắt cóc và những đôi đũa bị đánh cắp? *** Qua con đường Sông Máng ngoằn ngoèo khúc khuỷu, tới gốc đa cụt, rẽ theo con đường điện thoại lối hai trăm thước thì đến đầu làng Văn Bối. Người ta có cảm tưởng như vừa bước vào một ngôi đền rộng lớn, vì ở đây, cổng làng dựng theo kiểu tam quan, và từ đó trở đi, đường lát toàn bằng đá phiến màu xanh biếc, bên lề lại có hàng thông, tiếng reo theo gió vi vu... Ngay cổng làng có hai dãy hàng quán: mấy lều bán nước, một hiệu thợ giày, một nhà chữa xe đạp, còn thì toàn hàng thịt chó. Ở đây, hình như có mấy tay chuyên môn làm thịt chó đã nổi tiếng từ xưa ở Hà Nội, vẫn thường được triệu đến khi các nhà quyền quý muốn thiết khách phương xa một bữa tiệc thịt chó cầu kỳ. Tới đây, chàng thiếu niên chợt dừng bước, ngơ ngác nhìn quanh, vì như thoáng nghe tiếng gọi: - Ông Kỳ! Ông Kỳ! Không thấy ai là người quen thuộc, chàng lại toan cất bước, ngờ rằng cặp tai mình bị huyễn hoặc theo dư âm của tư tưởng vừa thoáng qua. Nhưng không, quả có tiếng người gọi: - Ông Kỳ! Tiếp đó là tiếng người vừa hỏi, vừa cười ha hả: - Ông Kỳ Phát, ông đã chóng quên anh em thế? Kỳ Phát nhận ra người gọi mình là một người vào trạc tứ tuần, nhỏ bé, vận một bộ com-lê màu rêu rộng thùng thình, dáng chừng mua lại của một hàng quần áo cũ nào đó, đầu đội một chiếc mũ cát-két bằng da báo. Người ấy rướn cổ nhòm ra, trước một cửa hàng thịt chó, những toan chạy theo ra hẳn nếu Kỳ Phát không dừng bước. Sự thực, tuy ngờ ngợ quen quen, Kỳ Phát cũng chưa nhận ra là ai cả. - Ông Kỳ, thì ông hãy vào đây đã nào, ông hàng đây không lấy tiền chỗ ngồi của ông đâu mà sợ. Ông hàng thịt chó cũng đon đả tiếp: - Nhà cháu vừa pha ấm nước ngon lắm! Người đội mũ cát-két vênh mặt lên bảo ông chủ hàng: - Uống nước là thế nào? Hôm nay thì ông Kỳ phải ở lại đây xơi rượu đã! Và thấy Kỳ Phát có vẻ lúng túng, chưa biết trả lời ra sao thì người ấy lại phá lên cười: - Lòng người chóng thay đổi thực, ông quên tôi chứ tôi quên ông thế nào được? Vậy ông không phải họ Kỳ tên Phát, là chàng trinh thám muôn đời vẫn còn trẻ mãi trong lòng người ư? Ông quên thiên hạ, đã bao năm nay kín tiếng bặt hơi, nhưng thiên hạ quên ông sao được, người ta vẫn nhớ ông mãi, nhớ ông là người anh hùng trong bao vụ án rắc rối ly kỳ như vụ “Nhà sư thọt”, “Ba viên ngọc bích”... Người ấy nói nhiều quá, làm cho Kỳ Phát ngượng và không còn cách nào hơn là bước vào hàng: - Tôi gần đây không được khỏe lắm nên trí nhớ kém đi nhiều... Người ấy vỗ vào vai chàng, gật gù đỡ lời: - Nào tôi có dám trách gì ông đâu! Năm, sáu năm rồi còn gì nữa! Nhưng để tôi nói ông nghe... Thế này thì ông sẽ nhớ ra ngay tức khắc: tôi chính là bác Ba “thợ cạo” vẫn ngồi làm ở cửa nhà ông... gì này này, bạn ông ấy mà... Kỳ Phát reo lên mừng rỡ: - Bác Ba Hùy! Người đội mũ cát-két cũng reo lên nhắc lại: - Ba Hùy, đúng rồi, chắc ông không bao giờ lại ngờ “tha hương ngộ cố nhân” đấy nhỉ? Kỳ Phát không ngờ, vì chàng không bao giờ tưởng tới lại có thể gặp ở chỗ hẻo lánh này người thợ cạo mà chàng vẫn gọi đùa là Ba Hùy, người mà bạn chàng, hoặc chàng, mỗi khi đi vắng lại khóa cửa dặn: - Này, bác Ba Hùy, hễ có ai gọi hỏi gì thì bác nói giùm rằng chúng tôi đi hai hôm nữa mới về nhé! Bác Ba Hùy, vì hàng ngày vẫn bắc chiếc ghế vải ngồi cắt tóc cho khách ngay ngoài cửa nhà này, nên đã thành một “nhân viên thường trực” không lương cho hai chàng thanh niên ưa hoạt động. Kỳ Phát ngắm nghía Ba Hùy lại một lần nữa, rồi cười bảo: - Trông bác sang thế này, khác hẳn trước, thì tôi nhận ra sao được! Ba Hùy vỗ vào túi áo rồi đặt chiếc mũ cát-két xuống, trả lời: - Nghĩa là cũng “hình thức” cả thôi, ông ạ. Được cái tản cư thế này com-lê com liếc hay quần nâu áo vải, ăn vận thế nào cũng được, láo nháo chẳng ai để ý đến ai cả. Quay lại ngắm nghía Kỳ Phát, giây lâu, Ba Hùy tiếp: - Trông ông thì vẫn thế, chẳng thay đổi chút nào cả. Vẫn cặp mắt sáng nhanh, vẫn cái cười nửa miệng, còn cách ăn vận đối với ông thì chẳng kể được, ngay thời bình cũng vậy, ông luôn luôn thay hình đổi dạng đố ai nhận ra được nữa là... Ngừng lại một phút để suy nghĩ bác lại tiếp: - Đã hai lần tôi gặp ông đi qua đây, song không dám gọi vì thấy ông đi vội, và lại tôi cũng ngại sợ ông bận việc gì. Kỳ Phát mỉm cười, lắc đầu bảo: - Tôi có bận gì đâu, ít lâu nay chẳng làm gì, chỉ nằm một chỗ xem sách nên sinh ra lười, không giống như ngày xưa luôn luôn ưa hoạt động... Ba Hùy nhìn Kỳ Phát chăm chú giây lát, bỗng thở dài nói: - Nếu thế thì tiếc lắm nhỉ, tôi cứ tưởng rằng óc trinh thám của ông vẫn còn ưa tìm tòi hoạt động nên muốn hiến ông một vụ... Bỗng Ba Hùy dừng bặt, bước sấn lại bên Kỳ Phát, nắm chặt lấy hai vai chàng, nhìn sát lại gần thật kỹ, rồi ha hả cười lớn: - Có thể chứ, Kỳ Phát bao giờ cũng là Kỳ Phát của thời xưa. Tôi thấy mắt ông sáng quắc hẳn lên khi thoáng nghe có chuyện ly kỳ bí mật, tôi biết chắc rằng ngọn lửa thiêng trong lòng chàng thanh niên trinh thám số một của nước Việt Nam vẫn cháy bất diệt suốt ngàn đời... Kỳ Phát mỉm cười, kéo Ba Hùy ngồi xuống rồi bảo: - Điều này tôi nhận xét thì chắc không sai được, đó là ông Ba Hùy của tôi dạo này nói nhiều lắm, thao thao bất tuyệt, tôi không tài nào theo kịp được. Quay lại phía ông hàng thịt chó, Kỳ Phát vui vẻ tiếp: - Mà rượu của ông hàng chắc hẳn phải ngon lắm, nên ông bạn tôi đây càng uống càng ngọt giọng nói nhiều... Ba Hùy gật gù cười khi, ngắt lời Kỳ Phát: - Chết chửa, mải chuyện lôi thôi quên ngay mất điều cốt tử. Rượu hàng đây là của lò ngon nhất Đồng Văn, uống ngọt giọng mà say phải biết. Ông hàng cho thêm đũa chén ra đây, ông Kỳ phải uống với tôi một bữa thực là say túy lúy! Kỳ Phát lắc đầu từ chối: - Thôi, ông để cho khi khác. Ông cũng chẳng còn lạ gì, tôi có uống được rượu đâu, góc chén hạt mít thì đã gọi là say túy lúy, mặt bấy giờ sẽ hệt như Quan Công hiển thánh... Ba Hùy vẫn không lưu ý đến lời Kỳ Phát, vẫn ung dung lấy giấy bản lau đũa chén cho chàng rồi rót rượu: - Điều ấy không can hệ gì mấy, ông Kỳ ạ! Tôi chỉ muốn biết: ông thích tôi kể cho ông nghe vụ án ly kỳ hiện đương làm cho nhà chuyên trách vùng này rối như tơ vò không? Kỳ Phát gật đầu: - Điều ấy thì đã hẳn rồi, ông còn hỏi tôi thì khí thừa một chút! Ba Hùy gật gù đắc ý: - Vậy thì ông Kỳ ạ, ông không nên từ chối gì hết, hãy uống rượu và nhắm món rựa mận đi đã, ông sẽ thấy rằng ông hàng đây quả đã xứng danh là vô địch trong khoa nấu nướng thịt cầy... Kỳ Phát lắc đầu: - Ngồi chơi với ông thôi, chứ uống rượu thì chịu, tôi có uống được đâu... Ba Hùy ngắt lời: - Không nói lôi thôi gì hết, tôi chỉ biết có một điều kiện: ông có thích nghe chuyện thì đánh chén thịt chó với tôi, bằng không thì tôi nhất định nửa lời cũng không nói nữa... Kỳ Phát biết rằng Ba Hùy đã nắm được nhược điểm của mình, đành đấu dịu: - Vâng, thì tôi xin uống rượu thôi, chứ còn thịt chó thì chịu... - Sao lại chịu? “Sống ở trên đời chén miếng dồi chó” mà lại! - Không, tôi không biết ăn thịt chó thực! - Lại không biết! Cái gì mà đầu tiên người ta chẳng không biết, vậy rồi mà cũng biết tất. Ông Kỳ Phát ạ, ông không nên thoái thác, ông xơi một hớp rượu, rồi nhắm một miếng chả chó xem nó có “thú lý tình” không? - Tôi không biết ăn thực! - Tôi đã bảo không sao mà lại, rồi biết tất. Vả lại, ông chớ có quên, tôi chỉ có một điều kiện, ông phải đánh chén thịt chó với tôi, nếu không... Ngừng lại một phút, Ba Hùy nheo cặp mắt tinh nghịch nhìn Kỳ Phát: - Mà vụ án ly kỳ đặc biệt ông ạ, một án mạng, hai ba án mạng, rồi không chừng năm sáu án mạng nữa tiếp theo... Kỳ Phát gợi chuyện: - Ông nói đúng đấy, đã có hai ba thì sẽ tiếp theo năm sáu là thường, nhưng phải biết rõ người bị giết đầu tiên đã. Ông có thấy gì đáng để ý... Ba Hùy cười ha hả, gắp một miếng chả chó đặt vào bát Kỳ Phát rồi tủm tỉm cười: - Tôi tuy vô phép ông mà uống trước mất non một cút rượu rồi, nhưng tôi vẫn chưa đến nỗi say đâu, ông ạ, và không say, lẽ tất nhiên tôi không dại gì mà ông chưa đánh chén với tôi, tôi đã khờ khạo đi nói chuyện cho ông nghe về vụ án, dù là một đoạn mở đầu! Nào, xin rước ông, ta hãy đưa cay đi đã, rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Kỳ Phát biết Ba Hùy đã nhất định đưa mình vào con đường cụt, khó thoát lối nào được nữa. Chàng gắp miếng chả chó lên rồi lại ngần ngại đặt xuống bát. Ba Hùy khuyến khích: - Ông cứ xơi thử mà xem, ngọt hơn thịt bò mà đậm hơn thịt gà, ông ạ, ăn một miếng thịt chó làm đúng cách thì dư vị còn ngon đến ba ngày sau không ít... Người ta vẫn nói, sức mạnh của tuyên truyền lợi hại thực, có nói thành không, không thành có là thường. Kể ra thì Ba Hùy tuyên truyền cho cái sự ngon lành của món ăn hoàn toàn Việt Nam ấy cũng đã mạnh, nhưng Kỳ Phát lúc nhắm miếng thịt chó đầu tiên trong đời vẫn thấy rùng mình ghê rợn, và chàng vội vàng tợp ngay một hớp rượu đưa cay... Ba Hùy ha hả cười lớn: - Khá lắm, có thể chứ, biết mùi rồi, chỉ sợ từ nay ông lại chẳng ngày nào cũng lại đây đánh chén thịt chó tì tì! ... Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Thứ Sáu của tác giả Phạm Cao Củng.
Đứa Con Xa Lạ
Đứa con xa lạ là tiểu thuyết của nhà văn Anh - Rachel Abbott. Tác phẩm vừa được Nguyễn Xuân Hồng dịch, Nhà xuất bản Văn học và Văn Việt Books phát hành. Câu chuyện mở đầu bằng một vụ tai nạn khó hiểu trong một đêm không trăng. Caroline Joseph lái xe đưa con gái sáu tuổi Natasha về nhà sau bữa tối cùng họ hàng thì nhận một cuộc điện thoại bí ẩn. Sau cuộc điện thoại, chiếc xe của cô bị trượt trên đường và lật ngửa. Caroline qua đời còn con gái cô - Natasha - biến mất không dấu vết. Sáu năm sau, Natasha đột ngột xuất hiện trong nhà như một bóng ma bí ẩn. Bố cô là David lúc này đã đi bước nữa với Emma và có cậu con trai nhỏ tên Olive. Natasha đối xử với bố và dì như những kẻ thù với sự lạnh lùng, tàn nhẫn mà khó ai ngờ một đứa trẻ 12 tuổi có thể làm được. Cô bé cũng không hé một lời về sáu năm qua của mình và vì sao cô có thể quay trở về. Cuộc điều tra của cảnh sát dần hé lộ thân phận của Natasha. Ngoài sự căm hận với bố, Natasha còn phải đứng trước lựa chọn hoặc làm theo hoặc bị những kẻ điều hành giết. Trong thời gian đó, chính Natasha bị cảm hóa bởi sự kết nối lạ lùng với người mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ.Trong khi David cố tìm cách để kết nối lại với con gái, vợ anh là Emma cảm thấy bất an trước sự xuất hiện lạ lùng của Natasha. Khi Emma ra ngoài để tránh sự ngột ngạt trong gia đình, con trai cô Olive đã bị Natasha giao cho những kẻ bí ẩn. Tác phẩm cũng dần hé lộ người liên quan tới vụ tai nạn của Caroline Joseph năm nào. Sâu xa của vụ việc là những mối quan hệ làm ăn bí hiểm, những lựa chọn, đấu tranh để giữ gìn hạnh phúc... *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Thêm mười phút nữa, và cô sẽ an toàn ở nhà. Caroline Joseph rùng mình khoan khoái vì chuyến đi dài đằng đẵng sắp kết thúc. Chưa bao giờ cô thích việc lái xe ban đêm và cô luôn cảm thấy hơi mất kiểm soát. Từng cặp đèn pha tiến đến gần dường như đều hút cô về phía chúng, thứ ánh sáng màu trắng của chúng soi tỏ không gian trong xe, trong khi cô nắm chặt vô lăng, cố hướng chiếc xe thẳng về phía trước. Nhưng giờ thì không còn lâu nữa. Cô mong được đem Natasha đi tắm nước ấm, uống một cốc sô cô la nóng, và ủ con bé trên giường. Sau đó cô có thể dành nốt thời gian còn lại của buổi tối cho David. Anh đang gặp chuyện gì đó bực bội, và Caroline nghĩ rằng nếu họ có thể ngồi trước đống lửa cùng với một ly rượu vang khi Natasha đã say ngủ thì cô có thể thuyết phục được anh nói ra mọi chuyện. Chắc chắn phải là chuyện gì đó liên quan đến công việc. Cô liếc nhìn cô con gái quý báu của mình qua gương chiếu hậu. Tasha đã sáu tuổi - hay sáu ba phần tư, như cách cô vẫn thích đem khoe - mặc dù thân hình mảnh khảnh của con bé khiến nó trông nhỏ tuổi hơn. Mái tóc vàng nhạt của nó buông thành những lọn quăn mềm mại trên vai, và những đường nét thanh tú của nó thỉnh thoảng lại sáng bừng lên trong thứ ánh sáng vàng khi họ đi qua những ngọn đèn đường. Mắt con bé nhắm chặt, và Caroline mỉm cười trước vẻ bình an của con bé. Hôm nay Tasha thể hiện tính cách dịu dàng như thường lệ, chơi rất vui vẻ với anh chị em họ trong khi đám người lớn bận rộn làm theo lệnh bố của Caroline. Ông cụ đã đưa ra một “chỉ dụ” - lần này tuyên bố rằng Caroline, cùng với các anh chị em và gia đình của họ, phải đến dự một bữa tối trước dịp Giáng sinh. Bình thường, tất cả mọi người đều vâng lời. Tất cả mọi người có nghĩa là trừ David ra. Đường rẽ vào những con hẻm dẫn tới nhà họ vùn vụt tiến lại gần, Caroline liếc nhìn Natasha lần chót. Khi họ rời khỏi đường chính và xa dần những khung cửa sổ của các cửa hiệu đèn đuốc sáng choang, quầng sáng màu hổ phách của những ngọn đèn đường cao vút, khoang sau xe chìm vào bóng tối. Con bé ngủ suốt cả chuyến đi, nhưng lúc này bắt đầu cựa quậy. “Con ổn chứ, Tasha?” Caroline hỏi. Đứa bé chỉ làu bàu đáp lại, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn để trả lời trong lúc đưa mu bàn tay dụi dụi mắt. Caroline mỉm cười. Cô đạp nhẹ phanh và chuyển số để rẽ. Tất cả những gì cô phải làm là chạy nốt vài dặm đường cuối cùng của chuyến đi này, dọc theo những ngõ phố hẹp có hàng giậu hai bên, chìm sâu trong bóng tối, và rồi cô có thể nghỉ ngơi. Cô chợt thấy lo lắng về David. Anh biết cô rất ghét lái xe buổi tối, và lẽ ra anh có thể cố gắng - vì Natasha, nếu không phải vì cô. Hôm nay cả hai người đều nhớ anh. Có một chuyển động đột ngột bên trái thu hút ánh mắt của Caroline, và cô xoay đầu về phía đó, tim cô đập nhanh trong lồng ngực. Một con cú xà thấp xuống hàng giậu, phần ngực trắng xóa của nó bắt trọn quầng ánh sáng từ đèn pha của cô, sáng rỡ trên nền trời đen. Cô thở phào. Trời không có trăng, và mặt đường đen kịt trên các ngõ phố dẫn tới ngôi nhà của họ lấp loáng những hạt sương. Mọi thứ xung quanh cô dường như yên tĩnh hoàn toàn, như thể cả thế giới vừa dừng lại, và giờ nếu con cú bay đi thì cô là vật duy nhất vẫn còn chuyển động. Caroline biết, nếu cô mở cửa sổ, sẽ chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng động cơ xe ầm ì khe khẽ. Phía trước hay đằng sau đều chẳng có ánh sáng, và trong phút chốc, nỗi sợ bóng tối rất tự nhiên của cô nhăm nhe ụp xuống. Cô rướn người về phía trước, bật radio với âm lượng nhỏ, cảm thấy bình tâm nhờ sự vui tươi của những ca khúc dịp lễ. Chẳng mấy cô sẽ phát ngán với những âm thanh này nhưng ngay lúc này, sắc thái vui vẻ thường lệ của chúng khiến cô thấy thư thái. Cô mỉm cười khi điện thoại trên ghế ngồi cạnh mình bắt đầu reo. Chắc chắn rằng đó là David muốn hỏi khi nào cô về, cô chỉ hơi liếc nhìn màn hình, nhưng đúng khoảnh khắc cuối cùng cô nhận ra, cuộc gọi đến từ một số đã được ẩn. Cô chạm vào màn hình và hủy cuộc gọi. Dù là ai thì cũng cứ đợi tới lúc cô về đến nhà đã. Cô đánh lái bằng một tay để cua nhanh trong lúc đặt điện thoại trở lại ghế ngồi, khiến chiếc xe hơi trượt đi trên mặt đường lạnh lẽo. Cô cảm thấy hơi hoảng. Nhưng chiếc xe vẫn vững, và cô lại thở bình thường. Caroline ngoặt thật cẩn thận ở những chỗ tiếp theo, nhưng đôi vai căng cứng của cô trùng xuống khi cô chạy đến một đoạn đường thẳng có bờ giậu cao che chắn, cùng những đường rãnh sâu dọc hai bên. Caroline rướn sát vào kính chắn gió, đăm đăm nhìn sâu vào màn đêm. Đèn pha xe cô đang rọi vào một khoảng tối thẫm hơn - có gì đó trong ngõ phố phía trước. Cô hơi đạp phanh và ve một số, chạy chậm lại vẻ phòng xa. Cô chuyển tiếp về số hai để tiến gần vật cản, hãi hùng nhận ra đó là một chiếc xe hơi, xoay nghiêng chắn ngang đường, hai bánh trước của nó vùi xuống rãnh bên mé phải đường. Cô nghĩ mình nhìn thấy một bóng đen trong xe, như thể có ai đó đổ gục trên vô lăng. Khi Caroline chầm chậm tiến về phía chiếc xe, tim cô bỗng đập rộn, cô nhấn nút để hạ kính cửa sổ. Trông như có người cần được giúp đỡ. Điện thoại lại reo vang. Ý nghĩ đầu tiên của cô là mặc kệ, nhưng nếu đã xảy ra một vụ tai nạn thì cô có thể cần gọi thêm hỗ trợ. Cô vớ lấy điện thoại trên ghế và trả lời cuộc gọi, nhận ra tay mình đang run bắn. “A lô?” “Caroline, em về nhà chưa?” Đó là một giọng nói cô mơ hồ nhận ra, nhưng không sao xác định rõ được. Mắt cô không rời vật cản phía trước trong lúc cô dừng lại và mở dây an toàn. “Vẫn chưa. Nhưng sao? Ai đấy?” “Nghe anh này. Cho dù em làm gì, em cũng đừng dừng xe lại. Cho dù có chuyện gì xảy ra, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng dừng xe lại.” Người đàn ông nói nhỏ và nhanh. “Về nhà. Về thẳng nhà. Em nghe anh nói không?” Vẻ hoảng hốt của giọng nói trong điện thoại tương ứng với tâm trạng lo lắng dần tăng của chính Caroline. Cô ngập ngừng. “Nhưng có một chiếc xe nằm ngang đường, và trông như có người bên trong. Có thể họ bị bệnh, hoặc họ vừa gặp tai nạn. Tại sao tôi không thể dừng lại? Có chuyện gì vậy?” “Cứ làm như lời anh đang bảo, Caroline. Đừng ra khỏi xe. Đạp chân xuống ngay và chạy qua chiếc xe đó, đừng có dừng lại vì bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì. Cứ làm đi.” Giọng nói khẩn trương, gấp gáp. Caroline cảm thấy nỗi sợ dâng lên trong cổ họng. Chuyện này là sao? Cô liếc nhìn gương chiếu hậu, và quyết định. Cô ném điện thoại di động lên ghế cạnh mình, nắm lấy vô lăng bằng cả hai tay. Chiếc xe nằm bẹp kia dài và thấp, choán hầu hết bề rộng mặt đường với hai bánh sau hơi hẫng khỏi mặt đất vì ca-pô chếch xuống rãnh. Không có nhiều chỗ để vòng qua phần thùng sau của chiếc xe, nhưng cô có thể làm được. Cô phải làm được. Cô đạp mạnh chân xuống sàn. Lốp xe trượt trên mặt đường lạnh lẽo, nhưng vẫn bám được, và cô đánh xe sang trái. Bánh xe bên trái cô leo lên bờ đường bên dưới hàng giậu và chiếc xe lượn một góc khá nguy hiểm. Cô xoay vô lăng trở lại bên phải và chiếc xe của cô nện mạnh xuống, hướng thẳng mé bên kia đường. Caroline lại đánh lái sang trái để chỉnh thẳng hướng, động cơ rồ lên khi cô tăng tốc. Đột nhiên cô cảm thấy mình bắt đầu trượt đi. Cô cuống cuồng xoáy vô lăng hết hướng này lại hướng khác, nhưng cho dù cô làm gì, chiếc xe vẫn chẳng nghe lời. Băng phủ mặt đường, và cô đang đi quá nhanh. Cô nhớ đã được dặn cách lái xe ở chế độ trượt, nhưng cách đó cũng không ổn. Trong đầu cô vụt lóe lến một cái tên. Cô đột nhiên nhận ra ai vừa gọi cho mình. Nhưng tại sao lại là anh ta? Cô gọi to tên anh ta, nhưng cô biết rằng lúc này anh ta chẳng thể làm được gì. Mắt cô bị hút về phía gương, về phía khoang sau tối om của chiếc xe, nơi tất cả những gì cô nhìn thấy là màu trắng trong đôi mắt mở to, hãi hùng của Natasha. Cô đạp mạnh chân phanh, nhưng chẳng ăn thua. Chiếc xe trượt nghiêng, va vào bờ đường lần nữa, chồm lên một góc và bật tung, lăn lông lốc, va mạnh qua hàng giậu và đâm sầm xuống rãnh, cơ thể gãy rời của Caroline văng đi rồi nằm yên nửa trong nửa ngoài ô cửa sổ để ngỏ. Viên cảnh sát lái xe dọc theo những ngõ phố hẹp, tận hưởng khoảnh khắc bình yên hiếm hoi trong thời khắc sắp đến Giáng sinh. Một người giấu tên gọi đến báo có một chiếc xe hơi văng khỏi đường ở đâu đó quanh đây, nhưng theo nhân viên điều phối, người gọi đến không cung cấp thêm được chi tiết nào nữa. Viên cảnh sát hy vọng vụ này chỉ là một gã đần nào đó phá xe vì bị cạn xăng hoặc trục trặc. Anh đã phải xử lý quá đủ đám say xỉn vào cái mùa tiệc tùng này rồi, và một chiếc xe xinh xắn bị bỏ lại sẽ lại khiến anh phải rời khỏi đường một lúc - thậm chí có khi đến hết ca trực luôn. Dần dần anh nhận ra rằng không thể tìm được sự lạc quan ấy của mình. Những ánh đèn khiến anh phải tin. Không ai vứt bỏ xe của mình mà đèn vẫn sáng cả, và đằng trước anh còn nhìn thấy một ngọn đèn trắng đứng yên, chiếu sáng quắc, soi tỏ những hàng cây trơ trụi bên đường. Lúc anh lại gần hơn, quầng ánh sáng chói chang từ cặp đèn pha khiến anh lóa mắt. Anh dùng mu bàn tay che bớt mắt, hết sức thận trọng tiến lại gần phòng trường hợp có người nằm trên đường mà anh không thể nhìn thấy. Anh tiến đến cách chiếc xe khoảng hai mươi mét và tắt động cơ. Ngay lập tức anh thấy rằng tình hình rất tệ. Chiếc xe bị lật ngửa, phần trước ghếch lên một bên bờ hẻm. Nhưng chính tiếng động mới khiến anh rùng mình sởn tóc gáy. Xen lẫn với tiếng nổ đều đều êm ả của động cơ xe đắt tiền vang lên trong không gian thôn dã tĩnh mịch xung quanh, chính là nhạc nền rất huyền ảo không lẫn đi đâu được của bài White Christmas của Bing Crosby. Tiếng nhạc thư thái tuôn vào không khí buổi đêm lạnh lẽo qua một ô cửa để ngỏ, nơi đầu của một người phụ nữ thò ra ở một góc rất khó tin khiến viên cảnh sát không cần đến gần chiếc xe cũng biết cô ấy đã chết. Anh chầm chậm tiến lại phía chiếc xe dựng ngược để tắt động cơ, và cả tiếng nhạc. Anh đã có thể hít thở trở lại. Giờ thì đây chỉ là một vụ tai nạn giao thông trên đường với duy nhất một chiếc xe gặp nạn, mặc dù rất thảm khốc. Anh với lấy bộ đàm. Trong lúc đợi nhân viên cấp cứu đến, biết rõ rằng họ chẳng thể làm gì hơn là xác nhận những gì anh đã biết, viên cảnh sát tiến hành chặn đường, gọi nhóm chuyên gia đến điều tra vụ tai nạn và đề nghị kiểm tra trên hệ thống máy tính cảnh sát toàn quốc về chiếc xe để xác định chủ sở hữu. Anh vớ lấy một chiếc đèn pin cực mạnh trong ngăn hành lý của mình và rọi quanh ngõ phố, rọi xuống hào, dọc theo bờ đường, cố tìm kiếm xem có ai từng tìm cách bò ra khỏi chiếc xe, có thể bị thương, hoặc thứ gì đó trên đường có thể là nguyên nhân khiến chiếc xe bị mất lái không. Chẳng có gì cả. Con đường trống trơn. Viên cảnh sát thấy nhẹ người khi không khí yên ắng bị phá vỡ bởi những tiếng còi rúc càng lúc càng gần, và chỉ vài phút sau xe cứu thương vụt đến, ánh đèn của xe làm hiện ra một người đi xe đạp một mình đang ngập ngừng tiến lại hiện trường. Người đàn ông nhảy xuống xe và đứng cách một quãng. Viên cảnh sát tiến lại phía anh ta. “Xin lỗi, thưa ông - ông cần lùi lại.” “Vâng, thưa ngài sĩ quan. Tôi chỉ đang trên đường về nhà thôi.” “Tôi hiểu, nhưng tôi không thể để ông đi qua đoạn đường này vào lúc này, thưa ông. Tôi tin chắc ông thông cảm chuyện đó.” “Có người bị thương à? Trông như xe của Caroline Joseph. Tôi nói có đúng không?” Người đi xe đạp hỏi. “Lúc này tôi chưa khẳng định được, thưa ông.” Người đàn ông ngó qua viên cảnh sát để nhìn chiếc xe rõ hơn. “Tôi nhìn thấy kia là cô ấy thì phải? Ôi lạy Chúa. Cô ấy chết rồi, phải không?” Anh ta nhìn viên cảnh sát, miệng há ra vì sốc. “David tội nghiệp. Đó là chồng cô ấy. Anh ấy sẽ suy sụp mất.” Viên cảnh sát không nói gì. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ người đàn ông cách hiện trường vụ tai nạn càng xa càng tốt cho tới khi lực lượng hỗ trợ đến, nhưng ngay cả từ khoảng cách này, vẫn nhìn thấy rất rõ phần đầu của người phụ nữ. “Không có Natasha đi cùng cô ấy sao?” Người đi xe đạp hỏi, giọng anh ta run lên. “Cô gái bé bỏng của cô ấy? Đứa bé đáng yêu nhất.” Viên cảnh sát lắc đầu, có phần nhẹ người. “Không, thưa ông. Ghế cho trẻ con có ở phía sau nhưng thật may là trống không. Không có ai khác ở trong xe.” Mời các bạn đón đọc Đứa Con Xa Lạ của tác giả Rachel Abbott.
Say Ngủ
Bạn sẽ chấp nhận đi bao xa để níu giữ những người mình yêu thương? Khi Olivia Brookes gọi điện tới đồn cảnh sát, trình báo sự việc chồng con mình mất tích, trong cô đồng thời có một niềm tin mãnh liệt rằng cô sẽ không bao giờ gặp lại họ lần nữa. Tại sao ư? Bởi đây không phải bi kịch duy nhất từng xảy đến trong đời cô. Hai năm sau đó, thanh tra thám tử Tom Doughlas lại được cử đến điều tra gia đình ấy, nhưng lần này, chính Olivia mới là người biến mất. Tất cả mọi bằng chứng đều cho thấy cô đã ở đây, trong chính ngôi nhà này vào buổi sáng hôm ấy. Thế nhưng ô tô của cô vẫn ở trong gara, bóp tiền vẫn nguyên trong túi xách đặt trên mặt bàn bếp. Cảnh sát muốn phát lệnh tìm kiếm và cầu cứu sự giúp đỡ, song chẳng hiểu vì sao, từng bức ảnh trong album gia đình, điện thoại lẫn máy tính cá nhân đều đã bị xóa bỏ. *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Cô gái mỉm cười lúc rời khỏi quán rượu đông nghẹt, ồn ào, những tiếng cười vẫn văng vẳng bên tai khi cô chật vật mở cánh cửa nặng trịch, để một luồng khí lạnh buốt ùa vào. Cô quay người và hét lên, “Đêm!” với bất kỳ ai có thể đang dõi theo mình, một vài cánh tay giơ lên chào tạm biệt, nhưng hầu hết còn đang bận giữ những ly bia, hoặc khua múa loạn xạ để nhấn mạnh một phần nào đó trong câu chuyện thú vị mới nhất đang được chia sẻ với bất kỳ ai sẵn sàng lắng nghe. Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng cô, chặn hết thứ ánh sáng màu vàng ấm áp cùng những âm thanh hân hoan của đám người trẻ tuổi đang vui thú. Đêm đen bủa xuống xung quanh cô và sự im lặng đột ngột ập tới như một cú đòn hiện hữu. Trong khoảnh khắc, cô đứng im bất động. Rùng mình trước cái rét đầu đông, cô siết chặt khăn quàng xung quanh cổ và khoanh hai cánh tay, co ro ôm lấy mình tìm hơi ấm. Cô thật sự sẽ phải tìm lấy một chiếc áo choàng mình thấy đủ ưa thích để mặc trong những dịp ra ngoài buổi tối. Mỉm cười trước ý nghĩ phù phiếm đó, cô tự nhủ chỉ mất có mười lăm phút đi bộ để về đến căn hộ của họ, cho nên nếu rảo bước thì chẳng mấy chốc cô sẽ được ấm áp. Không gian im lặng tạm thời bị gián đoạn khi cánh cửa quán rượu bật mở một lần nữa, ánh đèn từ phía trong hắt quầng sáng màu hổ phách ngang qua vỉa hè ẩm ướt. Cô nghĩ mình đã nghe thấy tiếng ai đó hét gọi tên cô, át cả tiếng nhạc ầm ĩ phát ra từ quán rượu ấm áp, nhưng cánh cửa đã đóng sập, tất cả lại chìm vào im lặng. Tại khu vực này của Manchester, vẫn còn vài người đang vội vã rảo chân, mất hút theo những con đường nhánh dẫn về nhà họ. Thời tiết khốn khổ và cái lạnh tê tái đầu mùa có vẻ đã giữ chân mọi người trong nhà tối nay, ai có thể oán trách họ được chứ? Phía trước cô vài thước, một cặp đôi đang dừng lại hôn nhau, cô gái choàng cánh tay quanh cổ chàng trai, đứng kiễng mũi chân lên, áp toàn bộ cơ thể mình vào người yêu, đêm tối dường như ấm áp hơn. Cô lại mỉm cười khi nhìn họ, nghĩ rằng khi yêu cảm giác thật tuyệt vời làm sao. Cô và bạn trai chỉ mới dọn về ở với nhau gần đây, cô chưa bao giờ hạnh phúc được như vậy. Cô đi đến chỗ giao với con đường chính, đợi ở chỗ băng qua đường. Không có nhiều xe cộ, nhưng đây là một trong những trục đường chính ra vào Manchester nên nó chẳng bao giờ hoàn toàn yên ắng cả. Cô hối hả băng qua khi đường phố quang hẳn, tiến về phía những con phố yên ắng hơn ở mé bên kia, rời xa dần những khu nhà cùng căn hộ hiện đại. Cô đã mừng run lên khi họ tìm được một căn hộ trong một ngôi nhà kiểu Victoria thời xưa - toàn bộ tầng trệt là của họ, mặc dù vẫn còn hơi nhếch nhác, song họ đang thu vén dần. Tuyệt vời nhất là nó lại nằm trên một trục đường có hàng cây xanh rất thanh bình, nhờ thế mà từng ngôi nhà đều trông có vẻ rất riêng tư. Cô rẽ vào con đường đầu tiên. Khu công viên nhỏ bên tay phải thường rất đông trẻ con chơi đùa, nhưng lại vắng tanh vào giờ này buổi tối, chuyển động duy nhất là từ một chiếc xích đu lẻ loi đang đung đưa nhè nhẹ, không hề phát ra tiếng. Đôi giày đế bằng của cô gõ nhè nhẹ trên vỉa hè, cô có cảm giác rất lạ như thể mình đang bị tách ra khỏi phần còn lại của thế giới. Cô liếc về phía ô cửa sổ của những ngôi nhà mình đi qua, nhưng hầu hết trong số chúng đều đã bị những bờ giậu cao chắn khỏi tầm nhìn, còn những chỗ cô có thể thấy được đều tối đen, chỉ có hình phản chiếu vô hồn của những ngọn đèn đường làm cho những căn phòng phía sau dường như vắng vẻ một cách kỳ quái. Cái cảm giác rằng mình không hề một mình len đến trong cô. Không phải một khoảnh khắc riêng rẽ - tiếng lẹt xẹt của một chiếc giày, thấp thoáng một bóng đen - khiến cô có cảm giác ấy. Mà là một thứ gì đấy hoàn toàn khác. Là cảm giác đôi mắt ai đó đang xoáy vào lưng mình. Cô chỉ biết như vậy. Người cô cứng đờ, mọi đầu dây thần kinh đều râm ran. Cô có nên vùng chạy không? Hay như thế sẽ là tín hiệu cho kẻ kia đuổi theo, tóm lấy cô? Cô có nên rẽ vào lối chạy xe của nhà ai đó? Nhưng gã có thể bắt kịp cô trước khi cô đến được cửa nhà. Hay sẽ tốt hơn nếu gã biết cô đã nhận ra gã? Nếu cô quay lại nhìn, liệu có thôi thúc hắn phản ứng lại hay không? Cô không biết nữa. Nhưng gã ở đó. Chỉ là cô không biết gã đang ở gần cô đến mức nào. Không hề suy nghĩ, cô xoay đầu thật nhanh. Đường phố vắng tanh. Gã không ở phía sau cô ư? Nhưng gã đang ở đâu đó, cô chắc chắn là vậy. Cô liếc nhìn qua bên kia công viên và nghĩ đến chiếc xích đu đung đưa. Gã có thể đang đi sát bên cô, nấp sau những bụi cây dọc vỉa hè tối om, không một ánh sáng. Tâm trí cô vụt nhớ đến một chuyện đã xảy ra lúc trước, cũng trong buổi tối nay. Xen giữa tất cả những tiếng cười và không khí vui vẻ ở quán rượu, có một khoảnh khắc cô đã cảm thấy không thoải mái. Cô đã xoay tròn rất nhanh trên chiếc ghế đẩu ở quầy rượu, gần như mong chờ sẽ nhìn thấy sự hiện diện của một gã đàn ông không quen biết đứng cách sau lưng cô chỉ vài phân. Nhưng chẳng hề có ai cả; thậm chí không có ai đang nhìn cô. Cô cố xua cái cảm giác đó đi, để cho sự vui vẻ của buổi tối lấn át cơn rùng mình ớn lạnh vì bất an và rồi dập tắt nó. Nhưng nó vẫn như vậy. Chính xác thì đó là những gì cô đang cảm thấy lúc này. Ngay phía trước là một lối vào công viên. Nếu gã ở trong đó và đang tới gần để tóm lấy cô thì đây chính là chỗ gã sẽ ra tay. Cô có vài giây để đưa ra một kế hoạch. Cô sẽ hành động như thể chẳng có gì phải lo lắng, đến khi tới ngang với cổng vào, cô sẽ bỏ chạy. Và nếu phải làm như vậy, cô sẽ hét thật to. Chỉ hai bước nữa thôi, cô sẽ đến được chỗ đó. Cô buông thõng hai tay, thả xuống hai bên sườn. Cô có thể nhìn thấy góc đường nhà mình ngay phía trước, nhưng thậm chí chỗ đó còn tối hơn, những thân cây đan kết dày kịt vốn rất được yêu thích hắt bóng đen xuống vỉa hè chật hẹp, mớ cành cây đen đúa trơ trụi của chúng lẫn vào bầu trời đêm. Một, hai - và chạy. Cô không dám liều liếc nhìn cánh cổng mở toang của công viên, cũng không thể nghe thấy tiếng ai đang bám đuổi theo mình do tiếng bàn chân giậm thình thịch cùng tiếng thở hổn hển của cô. Nhưng khi cô chỉ còn cách góc phố mười mét thì mọi chuyện xảy ra. Cô đã gần tới được đó, gần như đã về được đến nhà, gần như đã an toàn. Một bóng đen trồi ra từ phía sau cái cây đen đúa cuối cùng, đứng im bất động, hai chân xoạc rộng ra, đang chờ đợi để tóm lấy cô. Mời các bạn đón đọc Say Ngủ của tác giả Rachel Abbott.
Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút
Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.