Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma (Nguyễn Khắc Trường)

Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường đặt ra và gây được ấn tượng ở các vấn đề chìm và nổi, ở bề mặt và bề sâu trong sự đan xen giữa nền nếp ý thức và sinh hoạt tinh thần ở nông thôn nói chung, trong những người nông dân nói riêng; các vấn đề gia tộc và dòng họ; hôn nhân và gia đình; các quan hệ làng xã và lề thói nông xã...

Không chỉ là chất thơ mà còn là bi kịch, và là những bi kịch gọi nhau. Không chỉ những con người nhân danh đủ dạng trong thế bài trừ tiêu diệt lẫn nhau mà còn là đủ những người dị dạng bị đẩy ra hoặc hút vào những giao tranh quyết liệt đó.

Tóm lại đó là nông thôn trong một tổng chân dung những con người vừa là tội nhân vừa là nạn nhân, mà lịch sử đang giao cho họ một trách nhiệm có lẽ là quá lớn, quá tầm của họ; nhưng lại không thể chuyển cho ai khác, vì nói như Ăng-ghen, vẫn phải rđặt lên vai những con người do lịch sử để lại...

Tuy vậy, truyện không làm cho người đọc bi quan. Có thể do giọng điệu hài hước của tác phẩm. Có thể do kết thúc sáng sủa của câu chuyện tình, sự thức tỉnh của chiến thắng của cá nhân và hạnh phúc cá nhân trước uy quyền dòng họ. Nhưng chủ yếu có lẽ là ở chỗ tác phẩm cho người ta nghe thấy tiếng dội của một thời đại mới đang vang động từ trong hậu trường: nhân dân đang thực hiện quyền dân chủ của mình. Âm khí còn nặng nề nhưng dương khí đã bắt đầu phát triển. Thế giới ma quỷ đã rơi vào khủng hoảng dữ dội để tự huỷ diệt do những xung đột của chính bản thân nó.

Cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc miêu tả mối quan hệ dòng họ, nhưng những trang tâm đắc nhất hình như không ngoài việc miêu tả ấy. Một văn phong mang dáng dấp của Tắt đèn, từ cách lựa chọn thời gian để biểu đạt (thời kỳ giáp hạt ở nông thôn luôn mang ý nghĩa điển hình), đến số phận của bà Son, cô Đào, lão Quềnh... Nhưng nét hiện đại đã chen vào trong câu văn của Mảnh đất lắm người nhiều ma. Từ sử dụng độc đáo và đích đáng các khẩu ngữ, thành ngữ, đến việc ẩn giấu, lẩn quẩn một giọng điệu bi hài để soi xét và nghiền ngẫm tận tâm can con người. Tìm mua: Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma TiKi Lazada Shopee

Trang viết của Nguyễn Khắc Trường, vì vậy quánh đặc hệt như một thứ nước cốt mà ai đó, những nhà văn ít tài năng có thể pha loãng ra làm văn của mình.***

Trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma nhân vật dường như tự bộc bạch nỗi lòng của mình mà không cần đến sự khơi gợi hay thúc ép của tác giả.Tất cả những tình huống bi kịch trong tiểu thuyết được tác giả giải thích dưới hình thức châm biếm, hài hước. Đằng sau giọng điệu cười đùa bỡn cợt là một tấm lòng yêu thương ưu ái với đời.

Đọc những dòng viết về lão Quềnh bị chôn lần thứ hai, bạn không khỏi thấy đau đớn “lão phải hy sinh một lần nữa để cứu danh dự cho người khác đấy”. Mỗi một nhân vật của Nguyễn Khắc Trường đều có một cá tính riêng biệt độc đáo không giống bất cứ ai, không trùng lặp. Mưu mô thủ đoạn như Thủ, Phúc, láu lỉnh cơ hội như Sửu, nhu nhược cả tin như Son, mạnh mẽ, quyết liệt, bộc trực như Đào, Tùng, Minh... tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống của những người dân quê.

Bên trong những con người dân quê đó, bên cái phần người là phần ma, ma quỷ ám ảnh cuộc sống con người. Nó chi phối làm tê liệt các giác quan khỏe khoắn của biết bao người về cuộc sống. Nhiều đoạn văn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma sắc lạnh gây một cảm giác rờn rợn khi đọc.Giá trị thẩm mỹ cao nhất của tác phẩm văn học là hình tượng nghệ thuật. Tác giả Nguyễn Khắc Tường đã góp phần vào cho nền tiểu thuyết hôm nay những hình tượng nhân vật mang giá trị thẩm mỹ giáo dục sâu sắc.

***

Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa. Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên. Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh đời.

Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu phong và cổ kính. ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngật, người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì, cá chép cả con còn giãy đành đạch.

Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà, thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba, rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng tối.

Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng choé cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng, răng đen,khăn mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối đầu, chín đỏ lìm lịm. Khối người còn rỉ tai là ông có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe loé ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì, hãi thế!

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma PDF của tác giả Nguyễn Khắc Trường nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thầy Lazaro Phiền
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản. Truyện thầy Lazaro Phiền, tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản, được cho là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài Gòn xuất bản năm 1887. Tác giả là người Công giáo trong thời gian giáo dân còn rất ít, và truyện có rất nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo. Truyện tuy ngắn (bản in chỉ trên 50 trang) nhưng có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết Tây phương, và có chủ đề tâm lý nội tâm, là bước đột phá ra khỏi khuôn cấu trúc của truyện xưa. Hồ Biểu Chánh gọi Truyện thầy Lazaro Phiền là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiến ông hướng về nghiệp viết văn. (Hai cuốn kia là Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.) Trong đất thánh làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa có một nghĩa địa điêu tàn. Bên cạnh những ngôi mộ các thánh tử vì đạo, có một ngôi với chiếc thánh giá đơn sơ mang tên "Thầy Lazaro Phiền". Thầy Lazaro Phiền quê tại Đất Đỏ. Năm Phiền ba tuổi thì mồ côi mẹ. Khi đó, giáo dân bị cấm đạo, bị bắt bớ tù đày rất nhiều. Khi Pháp đánh tới Bà Rịa thì 300 giáo dân trong nhà lao bị thảm sát, nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn mười người sống sót, trong đó có Phiền. Phiền được một quan ba người Pháp đem về Gia Định cho một linh mục nuôi ăn học. Học trường d'Adran, Phiền kết bạn với Vêrô Liễu, con một ông trùm họ ở Cầu Kho. Qua Vêrô Liễu, Phiền quen cô em họ của Liễu và đem lòng yêu cô này. Lớn lên, hai người kết vợ chồng, chung sống trong nhà Liễu. Sáu tháng sau, Phiền đi làm thông ngôn tại Bà Rịa. Tại đây, Phiền gặp một cô vợ người Việt của một quan ba Tây. Nàng đem lòng thương yêu Phiền nhưng Phiền cự tuyệt. Nàng ấy bèn viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền tư tình với Vêrô Liễu. Phiền về điều tra, khám phá thư của Liễu hẹn hò với vợ mình. Nhân dịp được lịnh dẫn lính đi phục kích một vụ cướp ghe, và cùng lúc Liễu đi ghe về Sài Gòn, Phiền sắp đặt cho lính "bắn lầm" giết Liễu. Xong, Phiền về nhà, đánh thuốc độc cho vợ chết. Vợ bị thuốc độc hành hạ hơn mười một tháng mới chết. Trước khi tắt thở, vợ thầy bình tĩnh nói: "Tôi biết làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa tha thứ cho thầy!" Giết được "đôi gian phu dâm phụ" nhưng lòng Phiền vẫn không an, chán đời đen bạc, Phiền bỏ việc đi tu tại nhà thờ họ Tân Định. Phải mười một năm sau, thầy Phiền ghé qua Bà Rịa thăm chốn cũ nơi xưa, Phiền mới nhận được thư một phụ nữ. Đó là thư của vợ quan ba Tây năm xưa. Bà thú tội đã vu cáo vợ thầy, giả nét chữ của Liễu và gài thư giả mạo trong áo vợ thầy Phiền. Nhưng vẫn không toại nguyện vì thầy không đến với bà mà lại bỏ đi tu. Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Phiền chết đi trong nỗi ân hận không nguôi với tội ác tày trời của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản.
Ông Cử
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ông Cử của tác giả Hồ Biểu Chánh. Truyển kể về ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm. Ông vì thương một cô „ả đào“ và vì quá tin vợ nên bị phá sản. Vợ ly dị dẫn theo con bỏ ông và lập gia đình với một người khác. Ông buồn rầu, bỏ quê lên một xóm lao động ở Sài Gòn sống và tìm cách giúp đỡ những người sống chung quanh. Vì vậy ông rát được họ tôn trọng và gọi ông là Ông Cử. Mười năm sau khi cô con gái của ông lớn lên, học xong và muốn lập gia đình. Cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông. Qua đó ông Cử có điều kiện gặp lại người vợ cũ, cô con gái bây giờ đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Hồ Biểu Chánh xây dựng ở đây một cốt truyện khá cảm động xảy ra giữa vợ chồng, cha con, trong cuộc sống của người dân lao động nhiều tình nghĩa, cuộc sống trần tục và ý muốn thoát ly của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm *** Gần 20 tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh được chuyển thể thành phim: Con nhà nghèo, Khóc thầm, Nợ đời, Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời..., nhận được sự yêu mến từ khán giả. Tiểu thuyết Ông Cử của Hồ Biểu Chánh là tác phẩm gần nhất mới được chuyển thể thành phim truyền hình với tên gọi Thế thái nhân tình. Câu chuyện phản ánh bức tranh xã hội, con người Nam Bộ những năm 1930-1940. Truyện kể về ông cai tổng Ngô Minh Tâm, vì thương ả đào và quá tin vợ nên bị phá sản. Vợ ly dị và lập gia đình với một người khác. Ông buồn rầu, bỏ quê lên một xóm lao động ở Sài Gòn sống và tìm cách giúp đỡ những người sống xung quanh. Vì vậy ông rất được họ tôn trọng, gọi là Ông Cử. Mười năm sau khi con gái của ông lớn lên, học xong và muốn lập gia đình, cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông. Ông Cử có điều kiện gặp lại vợ cũ, con gái đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường có cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, rất Nam Bộ từ giọng văn đến miêu tả con người. Khi ông mất, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông sáng tác thành hai câu đối độc đáo đến phúng viếng: Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được? Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Ông Cử" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm, một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông Tâm vốn là một người đàn ông thành đạt, có vợ đẹp, con ngoan. Tuy nhiên, vì quá tin vợ và thương một cô "ả đào", ông đã bị vợ bỏ rơi, dẫn theo con gái đi theo người khác. Ông Tâm đau khổ, buồn bã, bỏ quê lên Sài Gòn sống. Tại đây, ông sống cuộc sống của một người lao động bình thường, làm thuê cho một người chủ giàu có. Ông Tâm cũng tham gia vào các hoạt động thiện nguyện, giúp đỡ những người nghèo khổ, khó khăn. Mười năm sau, cô con gái của ông Tâm lớn lên, học xong và muốn lập gia đình. Cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông Tâm. Ông Tâm đồng ý, và vì vậy ông có điều kiện gặp lại người vợ cũ, cô con gái bây giờ đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Hai vợ chồng ông Tâm gặp lại nhau, và họ đã tha thứ cho nhau. Ông Tâm cũng chấp nhận cho con gái kết hôn với người mà cô yêu. Review Tiểu thuyết "Ông Cử" là một tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ông Cử" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ông Cử" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ông Tâm là một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông cũng là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ông Cử" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Đánh giá Tiểu thuyết "Ông Cử" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, đặc biệt là cốt truyện hấp dẫn, nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ông Cử" được xây dựng theo mô típ "tình yêu trắc trở" quen thuộc, nhưng được Hồ Biểu Chánh xử lý một cách khéo léo, mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ông Cử" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ông Tâm là một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông cũng là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ông Cử" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Tác phẩm có giá trị lịch sử "Ông Cử" được viết vào đầu thế kỷ 20, khi xã hội Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Tác phẩm đã phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội đương thời, đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Cử của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Vợ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trước thời Pháp thuộc, xã hội Việt nam xem xét giá trị hôn nhân trong khuôn khổ văn hóa truyền thống, thứ thường nhấn mạnh sự phục tùng của cá nhân với lợi ích gia tộc, và đi kèm quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.” Khi người Pháp đô hộ Việt Nam, các giá trị hiện đại coi trọng tự do cá nhân khi kết hôn bắt đầu lan rộng. Vấn đề hôn nhân thời thuộc điạ chịu sự giằng xé giữa truyền thống và hiện đại. Tại Nam Kỳ thuộc Pháp, chuyện kết hôn của con cái vẫn phụ thuộc vào cha mẹ. Tuy nhiên, các tranh cãi về tự do luyến ái và sự hình thành luật pháp còn lỏng lẻo về hôn nhân đã dẫn đến sự phóng túng trong việc kết hôn và ly dị. Xã hội do đó cũng theo đuổi dục vọng hơn là cam kết các giá trị nhân bản bằng cách “hô hào” quyền tự do để đi dây giữa truyền thống lễ giáo và lối sống tân thời. Đây dẫu là hệ quả từ quyết định của mỗi cá nhân, song những chuyển biến của thời đại phần nào đã tiếp thêm sức mạnh cho xu hướng theo đuổi tự do luyến ái. Thông qua hai câu chuyện điển hình, Hồ Biểu Chánh đặt ra hai vấn đề. Thứ nhất, ông chỉ ra các động lực đen tối ẩn sau lớp vỏ phong tục hôn nhân và hậu quả của nó. Thứ hai, ông lột tả cách con người khước từ các giá trị nhân bản để theo đuổi dục vọng cá nhân thông qua tập tục cưới hỏi. Đầu tiên, sự ép buộc, tiền bạc và danh vọng ẩn sau lớp áo hôn nhân đều đem lại nỗi đau cho người phối ngẫu. Trong Đóa Hoa Tàn, Cai tổng Bình là một viên chức mới nổi, tham vọng, hám danh lợi. Vì muốn kết thông gia với một gia đình quyền thế, Bình ép gả con gái là Túy Nga cho một chàng trai giàu có nhưng vô trách nhiệm. Vì vậy, cuộc hôn nhân vỏn vẹn hai năm khiến Túy Nga đau buồn vì người chồng lạnh nhạt, thậm chí còn đệ đơn ly hôn cô nhiều lần. Nghiêm trọng hơn, nó khiến Túy Nga rơi vào sự mặc cảm về thân phận gái một đời chồng và nghi ngờ về hạnh phúc trong hôn nhân, đến mức không dám chấp nhận yêu Hải Đường, một kỹ sư tài năng mà cô đem lòng yêu từ lâu. Những chuyện này khiến cha cô ân hận. Câu nói của Túy Nga nói lên điều mà các thế hệ phải nằm lòng: “Theo ý tôi, cưới vợ lấy chồng phải vì tình vì nghĩa, chớ không nên vì quyền thế, vì bạc tiền.” Với trường hợp khác, Hồ Biểu Chánh khắc họa lớp người lợi dụng khuôn khổ hôn nhân truyền thống để theo đuổi tư lợi. Trong Từ Hôn, Tất Đằng là một sinh viên du học Pháp ngành bác vật nhưng không có bằng cấp và thất nghiệp. Là một người ưa thích chủ nghĩa "không làm mà vẫn có ăn," Đằng vừa khích bác tất cả những phong tục và định kiến giới về lao động, vừa mưu cầu cuộc sống nhàn nhã. Cùng lúc, Đằng được người chị đồng hương mai mối cho Bạch Yến, một tiểu thư xinh đẹp và danh giá, hứa hẹn cuộc sống giàu sang cho Đằng. Để cưới được Yến, Đằng phải nói dối về nghề nghiệp và dựng màn kịch hoàn hảo về con đường công danh xán lạn. Nhờ thế, Bạch Yến và mẹ cô nhanh chóng xiêu lòng trước Đằng. Trớ trêu thay, sự dối trá và ích kỷ lại dằn xé tâm trí Đằng, vì anh cũng đem lòng yêu Bạch Yến và không thể nói dối người mình yêu. Cuối cùng, Đằng từ hôn và bỏ khỏi Sài Gòn, để lại nỗi đau không nguôi cho Yến. Trong khi cai tổng Bình che đậy lòng tham sau lớp áo choàng hôn nhân buồn thảm của con gái ông, thì Tất Đằng lại khước từ sự thật và để cho lời nói dối lẫn tiền bạc phủ bóng mối quan hệ tốt đẹp ngay từ đầu. Ở hai trường hợp, nhơn nghĩa đều phải chào thua thiên kim; động lực hôn nhân đều là toan tính vật chất, và nhận về cái kết đau thương. Hồ Biểu Chánh hàm ý rằng người lạm dụng hôn nhân để thỏa mãn dục vọng sẽ bị phán xét, không phải bởi miệng đời hay luân lý xã hội, mà trước hết trước tòa án lương tâm của họ và cái giá mà người họ yêu thương họ phải gánh chịu. Mời các bạn mượn đọc sách Hai Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Thà Cưới Vợ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Thà Cưới Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh. Lại là một trở lại với một tác phẩm mới, những đứa con tinh thần của nhà văn Nam Bộ tài năng Hồ Biểu Chánh. Câu chuyện lần này nhân vật chính là một chàng trai 35 tuổi tên là Hai Thà. Hai Thà mồ côi cha đã 10 năm rồi, một mình lo tảo lo tần, lo nuôi mẹ già, lo dựng sự nghiệp, đã mướn lại của Thôn Sáu mà làm hai dây ruộng đồng trên Bình-Lạc, lại còn mướn thêm ba thiên đất rẫy công điền Bình Thành mà làm nữa, làm mấy năm trong nhà có dư lúa ngàn, đã cất được một cái nhà ngói nhỏ ba căn xông vách ván, coi vẻ-vang mà lại còn có ba con trâu, một cặp trâu lớn với một con trâu tơ mới giựt dàm mùa nầy. Thấy Hai Thà tính tình chân chất, lại gia tư phú phong, năm rồi làng có muốn cử làm Thôn Trưởng, Hai Thà từ chối, viện lẽ mắc nuôi mẹ già và mắc lo ruộng rẫy. Người trong làng ai thấy hai Thà làm ăn xân-xẩn cũng đoán anh ta sẽ giàu to. Sau một trận đau đẻ dữ dội kia, vợ Hai Thà không may qua đời, để lại mình anh cùng hai đứa con thơ 6 tuổi và 8 tháng tuổi. Mẹ già con thơ, Hai Thà phải tiếp tục sống ra sao đây khi thiếu đi bàn tay săn sóc của một người vợ? *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của Hai Thà, một chàng trai hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Hai Thà mồ côi cha từ nhỏ, một mình lo nuôi mẹ già và dựng sự nghiệp. Anh đã thành công trong việc làm ăn, có ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa khang trang. Nhưng rồi, vợ anh không may qua đời, để lại anh cùng hai đứa con thơ. Hai Thà rất đau buồn vì mất vợ. Anh phải lo lắng cho mẹ già và hai đứa con nhỏ. Anh thuê người giúp việc, nhưng vẫn không thể bù đắp được tình cảm của một người mẹ, người vợ. Một hôm, Hai Thà gặp lại Thị Lệ, một cô gái xinh đẹp, hiền lành. Hai Thà và Thị Lệ yêu nhau và quyết định kết hôn. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu. Cô đã giúp Hai Thà chăm sóc mẹ già và hai đứa con nhỏ. Hai Thà và Thị Lệ sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Hai Thà là một người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, luôn yêu thương chồng con. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Đánh giá Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, đặc biệt là cốt truyện hấp dẫn, nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng theo mô típ "tình yêu trắc trở" quen thuộc, nhưng được Hồ Biểu Chánh xử lý một cách khéo léo, mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Hai Thà là một người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, luôn yêu thương chồng con. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Tác phẩm có giá trị lịch sử "Hai Thà Cưới Vợ" được viết vào đầu thế kỷ 20, khi xã hội Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Tác phẩm đã phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột Mời các bạn mượn đọc sách Hai Thà Cưới Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.