Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháo Đài Trắng

Pháo đài Trắng, cuốn tiểu thuyết mang lại tên tuổi cho Orhan Pamuk, là câu chuyện về một học giả trẻ tuổi người Ý. Bị cướp biển bắt ở giữa Venice và Naples, anh bị đem ra bán đấu giá ở chợ nô lệ Istanbul. Một nhà bác học Thổ Nhĩ Kỳ muốn học hỏi các tiến bộ khoa học và tri thức phương Tây đã mua anh về. Nhưng rồi họ khi họ bị ràng buộc bởi những tội lỗi và bí mật của nhau, khi mối quan hệ của họ trở nên ngày càng phức tạp, cả chủ nhân và nô lệ bỗng phát hiện ra rằng họ đều là thành viên của quân đội Hoàng gia, và rằng cả hai đều đang trong cuộc hành trình rồi cuối cùng sẽ dẫn họ tới Pháo đài Trắng.  *** Nhận định   “Một ngôi sao mới đang lên ở phương Đông—Orhan Pamuk. Pháo đài Trắng là một trong số rất ít những tiểu thuyết tạo ra được một thế giới hoàn chỉnh và độc lập bằng tài năng khác thường… Ông là một người kể chuyện tài hoa như Sê-hê-ra-zát vậy.” - New York Times “Lịch lãm và có sức nặng… Sẽ không ngoa chút nào nếu so sánh Pamuk với Kafka và Calvino; cũng nghiêm túc như thế, cũng duyên dáng, cũng tinh tế như vậy. Ta có mọi bằng chứng về điều đó” - Independent “Tiểu thuyết gia tiên phong của Thổ Nhĩ Kỳ và ở bất cứ đâu cũng là một trong những nhân vật thú vị nhất trong làng văn… Một người kể chuyện hàng đầu.” Times Literary Supplement “Pháo đài Trắng tuyệt vời không phải bởi nó đã tái hiện một thời đại, mà vì nó đã khám phá bí mật cá nhân con người và trên hết vì Pamuk đã gói gọn những suy tư đó trong một câu chuyện đơn giản đến nhường ấy.” - Guardian ‘Một cuốn sách kỳ lạ và tài tình về sự đau đớn trong quá trình tự khám phá bản thân. Và trong suốt thiên tiểu thuyết, người ta có thể chứng kiến sự pha trộn siêu việt của những gì Pamuk thực sự thấy bằng con mắt của một kẻ quá hướng về Tây phương trong khi bề ngoài lại quá thiên về Trung Đông. Trong khoảnh khắc, Đông- Tây đã gặp gỡ.” New York Times ‘Cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Orhan Pamuk về những ảnh hưởng ngoại lai… đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh và thành kiến một cách tao nhã vào kết quả của phát tán văn hóa. Tác phẩm phảng phất âm hưởng của Calvino, nhưng cách viết và thế giới quan của tác giả lại gần hơn với Kazuo Ishiguro.” - Independent *** Mùa Hè năm 1982, tôi tìm được tập bản thảo viết tay ấy dưới đáy một chiếc rương bụi bặm ở Gebze (một thành phố gần Istanbul, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ), khi lục lọi hàng tuần theo thói quen trong đám "hồ sơ" lộn xộn của chính quyền thành phố, ngập đầy những sắc lệnh, chiếu chỉ, văn tự, biên bản tòa án và các báo cáo công vụ. Với tấm bìa trang nhã bằng thứ giấy vân cẩm thạch có những hoa văn mơ hồ, gợi nhớ về giấc mộng nào đó, được viết bằng nét chữ rõ ràng, dễ đọc, tập bản thảo ấy nổi bật hẳn lên giữa đám công văn giấy tờ bạc phếch và lập tức khiến tôi chú ý. Bàn tay ai đó, chắc là có chủ ý, muốn khêu gợi tính tò mò của tôi, đã viết trên trang thứ nhất cái tựa đề: "Con nuôi người thợ làm chăn". Tôi hài lòng đọc nhanh hết tập sách mà bên lề các trang giấy có những hình người đầu bé xíu vẽ bởi bàn tay con trẻ, mặc những bộ y phục đính chi chít cúc. Tập bản thảo khiến tôi rất thích thú, nhưng vì lười chép lại, nên lợi dụng sự tin cậy của người nhân viên, vốn rất trọng nể tôi và chẳng hề theo dõi, tôi giấu nó vào trong cặp, đơn giản là tôi đã đánh cắp quyển sách ấy trong đám giấy tờ mà ngay cả vị kaimakam (người đứng đầu một tỉnh hoặc một khu vực (tiếng Thổ) trẻ tuổi cũng không dám gọi là "hồ sơ lưu trữ". Thời gian đầu, tôi đọc đi đọc lại quyển sách nhiều lần mà không biết phải làm gì với nó. Sự hoài nghi của tôi đối với lịch sử vẫn còn chưa hết, nhưng tôi chú ý đến bản thảo không chỉ từ phương diện khoa học, văn hóa hoặc lịch sử, mà còn bởi rất thích lối hành văn của nó. Rồi điều đó khiến tôi phải nghĩ về tác giả của bản thảo. Khi tôi và các đồng sự buộc phải rời trường Đại học Tổng hợp, tôi quay về nghề cũ của ông tôi, vốn là một người từng xuất bản các bách khoa thư, và chính khi đó tôi đã nghĩ tới chuyện đưa một bài về tác giả tập bản thảo mà tôi tìm được vào cuốn bách khoa thư Những người nổi tiếng mà tôi phụ trách phần lịch sử. Tôi bắt đầu dành cho việc đó tất cả những giây phút rảnh rỗi, ngoại trừ thời gian làm bách khoa thư và nhậu nhẹt. Tôi tra cứu các nguồn tư liệu về giai đoạn ấy và thấy một số sự kiện được phản ánh trong sách không tương ứng với thực tế lịch sử. Chẳng hạn, trong thời gian năm năm Koprulu (Pasha Koprulu Mehmet (1575-1661): đại tể tướng dưới triều Mehmet IV) giữ chức tể tướng, đúng là ở Istanbul đã xảy ra một trận đại hỏa hoạn, điều đó cũng được phản ánh trong các tư liệu thành văn, nhưng trận dịch hạch được bản thảo đề cập đến, mà lại lây lan rộng đến mức tưởng chừng như đáng được ghi vào lịch sử, thì trong các văn bản ấy lại chẳng có lời nào nhắc đến. Tên tuổi nhiều vị đại thần được nêu không đúng, hoặc nhầm lẫn, một số vị bị thay tên đổi họ. Họ tên của các vị đại sư chiêm tinh không tương ứng vởi tên họ ghi trong Biên niên sử vủa triều đình, nhưng tôi không chú tâm lắm vào những chi tiết này, vì cho rằng đây là chủ ý của tác giả. Mặt khác, phần lớn các sự kiện lịch sử nêu trong bản thảo đều được khẳng định, có một số sự kiện còn trùng hợp khá chi tiết, chẳng hạn như vụ ám sát đại sư chiêm tinh Huseyn Etendi, diễn ra trong chuyến đi săn thỏ của hoàng đế Mehmet IV (Mehmet IV (1642-1693): vị sultan thứ 19 của đế quốc Ottoman (1299- 1923), tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, trị vì trong quãng thời gian 1648-1687), tại khu rừng gần cung điện Mirahor, điều đó cũng được sử gia Naimai ((1655-1716): nhà sử học Ottoman) nhắc đến. Tôi cho rằng tác giả bản thảo hẳn là một người mơ mộng và ham đọc sách, khi làm việc đã sử dụng các tư liệu tương ứng, đã đọc vô số sách vở và sau đó đưa một số chi tiết vào các ghi chép của mình. Những trước tác của Evlyia Chelebi mà tác giả có nhắc đến, rõ ràng là chỉ được ông ta đọc lướt, nhưng qua bản thảo thì chẳng rõ hai người có quen biết nhau hay không. Tôi vẫn không mất hy vọng tìm ra dấu vết của tác giả, nhưng các truy cứu trong những thư viện Istanbul đã khiến cho niềm hy vọng đó tan thành mây khói. Tôi không kiếm được một tài liệu hay quyển sách nào đã hiến tặng hoàng đế Mehmet IV trong khoảng thời gian từ năm 1652 đến năm 1680, cả ở thư viện trong cung điện Topkapi (cung điện hoàng gia ở Istanbul - thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, nay là Viện Bảo tàng) cũng như các thư viện khác mà tôi đồ rằng chúng có thể đã được chuyển đến. Tài liệu duy nhất mà tôi đã gặp được trong các thư viện ấy là công trình của "nhà thư pháp thuận tay trái", được nhắc đến trong bản thảo. Tôi cố gắng theo dõi số phận của những công trình ấy, gửi vô số thư từ đến các trường đại học tổng hợp Ittaly, nhưng chỉ nhận được những hồi âm bực mình, còn những mưu toan tìm kiếm trong các nghĩa địa Gebze, Jennethisar và Uskudar con người đã viết nên cuốn sách mà không lưu lại tên họ mình đều chẳng mang lại kết quả mong muốn. Tôi chấm dứt các cuộc tìm kiếm và ngồi viết một bài cho bách khoa thư, dựa trên nội dung của bản thảo. Đunrg như tôi đoán trước, bài viết không được chấp nhận, không phải vì nó thiếu cơ sở khoa học, mà bởi người tôi đề cập đến là một nhân vật khuyết danh. Có thể chính vì thế mà mối quan tâm của tôi đối với quyển sách lại càng lớn hơn. Thậm chí tôi còn muốn thôi việc, mặc dù tôi rất yêu công việc và các đồng nghiệp của mình. Có thời, gặp ai tôi cũng nói về quyển sách, như thể không phải tôi phát hiện được, mà chính tôi đã viết ra nó. Để khêu gợi chú ý, tôi nói về ý nghĩa biểu trưng của quyển sách đó, nói rằng nó giống với hiện thực ngày nay, rằng càng đọc quyển sách ấy tôi càng hiểu thêm thời đại bây giờ. Sau những lời như vậy, đám thanh niên, chủ yếu là những người quan tâm đến chính trị, các mối quan hệ Đông-Tây và nền dân chủ đã chú ý đến quyển sách đó, nhưng chẳng bao lâu sau những người trẻ tuổi ấy, cũng như bạn bè tôi, đã quên lãng nó. Một ông giáo sư, bạn của tôi, đã đọc xong cuốn sách vì tôi chèo kéo, khi mang trả có nói rằng những câu chuyện như thế đầy rẫy trong các bản thảo chồng chất tại những ngôi nhà gỗ cũ kĩ trên các ngõ phố Istanbul. Cư dân của những ngôi nhà đó, nếu coi sách là Thánh thư Koran, thì sẽ cất nó lên nóc tủ, còn không, họ sẽ xé rời từng tờ ra để nhóm bếp lò. Và thế là, đọc đi đọc lại bản thảo hết lần này đến lần khác, được khích lệ bởi một cô gái đeo kính, điếu thuốc không lúc nào rời môi, tôi quyết định đem nó đi xuất bản. Độc giả sẽ thấy rằng khi dịch ra tiếng Thổ hiện đại, tôi đã không hề chú trọng đến phong cách, tôi cứ đọc vài câu trong nguyên bản để trên bàn, sau đó tôi đi sang một phòng khác, đến bên chiếc bàn khác, nơi tờ giấy trắng đang đợi, tôi ngồi xuống ghế và cố gắng diễn đạt nội dung vừa đọc bằng ngôn ngữ thời nay. Nhan đề quyển sách không do tôi đặt ra, mà là của nhà xuất bản đã đồng ý in nó, Chắc có người sẽ hỏi tôi, có ý nghĩa gì đặc biệt trong những lời đề từ in ở trang nhất hay không. Tôi cho rằng, thói quen tìm kiếm một mối liên hệ nào đó trong tất cả mọi thứ là căn bệnh của thời đại chúng ta. Và chính bởi cũng ngả theo căn bệnh chung ấy, tôi đã cho xuất bản câu chuyện này.   FARUK DARVINOGL Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Trắng của tác giả Orhan Pamuk.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc Đời Ngoài Cửa - Nguyễn Danh Lam
Trong vai một người viết tiểu thuyết, Nguyễn Danh Lam hẳn là mẫu nhà văn không thích, thậm chí rất dị ứng, việc cưng nựng chiều chuộng các nhân vật của mình. Từ những “Bến vô thường”, “Giữa vòng vây trần gian”, đến “Giữa dòng chảy lạc”, đã là thế. Và rồi đến cuốn tiểu thuyết mới nhất này, vẫn là thế. Nguyễn Danh Lam không thèm hạ cố ban cho nhân vật một danh tính rõ ràng. Cũng rất hiếm khi nhà văn gắn cho họ những nét phẩm chất tính cách hoặc những năng lực cá nhân trên mức trung bình. Đã vậy, anh lại hay đẩy các nhân vật vào những cảnh huống trớ trêu, những trạng thái sinh tồn nếu không bi đát thì cũng dở khóc dở cười. Điều, vừa quan trọng lại vừa oái oăm, là ở chỗ: trong những cảnh huống những trạng thái ấy, các nhân vật của Nguyễn Danh Lam luôn có một sự tự nhận thức, thường trực và đầy ám ảnh, về cái bất túc và bất lực của mình… Ở cuốn tiểu thuyết mới nhất này, Nguyễn Danh Lam cho nhân vật chính “lên đường”, làm một chuyến du lịch bụi cùng với cô con gái cả ngày chỉ biết dán mắt vào chơi game trên điện thoại di động và luôn miệng kêu than. Sau lưng họ, là một gia đình rạn nứt. Trước mặt họ, là những khúc rẽ bất ngờ, những đứt gãy nhân sinh còn tồi tệ hơn gấp bội. Nguyễn Danh Lam đã kể những chuyện ấy, một cách bình thản và đầy tiết chế. *** ường phố đã vào khuya. Ông không nhận thấy sự khác biệt nhiều lắm giữa thành phố cao nguyên này với thành phố nơi ông sống. Nhà cửa, phố xá cùng một sắc đèn rờ rỡ. Dò đường một lúc, ông mới lần ra cái khách sạn gã bạn chỉ. Trước đó nửa giờ, gã lí nhí qua máy: Mày thông cảm, giờ này tao không đi được, cứ vào cái khách sạn này, nói tên tao. Mai tao đến kiếm sớm. Mở cửa xe mua một gói thuốc, ông nghe gió thốc từng cơn. Thứ gió kỳ lạ, thổi triền miên, không giống gió của những cơn giông, cũng chẳng phải gió biển. Đây chính là sự khác biệt. Bụi quăng vào mặt ông những đám khô khốc. Không gian se lạnh, khá thú vị. Khách sạn có vẻ nằm ở khu trung tâm. Ông nói tên gã bạn với cô nhân viên tiếp tân. Cô gái xinh đẹp lắc đầu cười. Chú thông cảm, có lẽ ông chủ con biết, chứ con không biết chú ấy. Ông ngớ ra, bối rối. Giá đừng đề cập gã có lẽ hay hơn. Ông nghe gã dặn nên hỏi cô, chứ thực sự chẳng có chủ đích gì. Chẳng hạn như việc giảm giá phòng, hay ưu tiên một vị trí tốt nào đó. Hai cha con cùng đói ngấu. Buổi chiều, sau khi lên hết con đèo, ông dừng nơi thị trấn gần đó mua hai ổ bánh mì, định bụng khi tới nơi sẽ ăn bữa chính. Đường lạ, nhiều đèo dốc, khiến kế hoạch dự kiến đổ bể. Mình đi ăn rồi lên phòng, hay lên phòng rồi đi ăn? Đi ăn luôn đi ba. - Con gái ông nhăn nhó. Giờ này còn chỗ nào ăn uống được không cô? - Ông hỏi cô gái tiếp tân. Nhà hàng tụi con đã nghỉ. Mấy chỗ gần đây, họ cũng đóng cửa hết rồi. Chú nên chạy ra chợ trung tâm, thứ gì cũng có. Lại phải lết ra xe, gương mặt con gái ông vốn nhăn nhó, lúc này càng nhăn nhó hơn. Điệp khúc của nó luôn là đói. Ông hiểu, nó đang tuổi ăn tuổi lớn, không thể chịu đựng được như ba. Ông tấp xe vào một dãy quán sáng đèn. Mấy cặp nam nữ chừng tuổi con ông đi chơi về khuya, co ro quanh cái bàn bên cạnh. Họ cười nói và văng tục. Cách phục sức, mấy chiếc xe đời mới, hoàn toàn chẳng có gì khác thanh niên thành phố. Thuở xa xưa, ông nhớ, sự khu biệt khá rõ ràng, bởi những cách ngăn về giao thông, hành chính. Con gái ông bỏ dở gần nửa tô mì, trong khi ông húp cạn. Sao vậy con, mệt không ăn nổi à? Dở quá - Ông không biết món ăn dở thật, hay đó là nhận xét quen thuộc của con gái. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Ngoài Cửa của tác giả Nguyễn Danh Lam.
Cửa Sông - Nguyễn Minh Châu
Tiểu thuyết được viết từ năm 1966, đây là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Minh Châu, nhưng ông đã chứng tỏ được một bút pháp gây nhiều hứng thú và cảm giác lạ như là một hiện tượng văn học, một sự tìm tòi sáng tạo. Trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu toát lên ba hướng khái quát: chiêm nghiệm những chân lý đời sống, khái quát những tính cách, phát hiện những vấn đề tồn tại xã hội.  Theo lời nhà văn Tô Hoài thì Những cái tưởng như lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, nhưng dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý. Bởi đối với ông, cuộc đời và trang sách như là một, gắn chặt với nhau.  Với Cửa sông, Nguyễn Minh Châu viết về hình ảnh một làng quê hiền hoà bên sông Kiều, dòng sông thơ mộng, những con người hồn hậu và bình dị của ngôi làng nhỏ bé ven sông, nhưng trong khói lửa chiến tranh, mỗi người đều được trui rèn, hun đúc và trở thành những người con quả cảm và gan dạ bên bến sông, kể cả cô giáo Thùy bé nhỏ và hiền dịu năm nào...  ... Thùy cảm thấy trong khuôn ngực bé nhỏ của mình như có một con chim đang vỗ cánh chực bay tung ra. Cô thở rất mạnh. Tuy đã ở làng Kiều bao nhiêu năm, đã ra vào cái trụ sở hợp tác xã này bao nhiêu lần, nhưng hôm nay, đứng ở đây, cô vẫn không sao khỏi bỡ ngỡ như người vừa mới đến. Thuỳ nhìn lá cờ đỏ, trong lòng rất xúc động nghĩ đến bao nhiêu người đảng viên cộng sản của làng Kiều đã ngã xuống... *** Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ". Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi. Các tác phẩm: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970) Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983) Bến quê (tập truyện ngắn, 1985) Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, 1987) Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (tiểu luận phê bình, 1987) Phiên chợ Giát (truyện vừa, 1988) Cỏ lau (truyện vừa, 1989) Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nhà xuất bản Văn Học, 2001) Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nhà xuất bản Hà Nội, 2009) ... Mời các bạn đón đọc Cửa Sông của tác giả Nguyễn Minh Châu.
Có Được Là Người - Primo Levi
Khi người ta hai mươi bốn tuổi, hãy còn “ít hiểu biết, không kinh nghiệm và dứt khoát muốn sống trong một thế giới siêu thực của mình”, mà bị bắt rồi đưa vào trại tập trung Auschwitz - nơi sau này sẽ được ghi nhận như một trong những nơi chốn khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người - người ta sẽ khó lòng gọi đó là một chuyện may mắn. Có lẽ chỉ khi là một trong số rất ít ỏi người sống sót sau Auschwitz (theo nhiều số liệu thì chỉ khoảng 2% tù nhân Auschwitz là còn sống khi trại được giải phóng) và bắt đầu ghi lại những hồi ức kinh khủng về khoảng thời gian đen tối đó trên những tấm vé tàu ở Turin thì Primo Levi mới, như sau này ông viết trong lời mở đầu cuốn Có được là người, coi việc bị bắt vào Auschwitz tương đối muộn là một điều may mắn: Vào thời điểm ông bị đưa vào Auschwitz, đầu năm 1944, do cần nhân công lao động chính phủ Đức đã quyết định kéo thời gian sống của tù nhân trước khi giết, thay vì đưa thẳng vào trại hơi ngạt. Được viết năm 1947, Có được là người thuật lại câu chuyện thực của chính tác giả từ lúc bị bắt tại Ý đến khi được/bị đưa vào trại tập trung Auschwitz và chuyện ông đã sống sót trong chốn địa ngục đó như thế nào. Cần nói thêm rằng, vào thời điểm tác giả và những người Do Thái khác bị tống lên đoàn tàu chở người nổi tiếng của Đức quốc xã, Auschwitz đối với họ là một cái tên chưa có ý nghĩa gì mấy - thậm chí họ còn cảm thấy “nhẹ cả người” vì ít nhất cái đích đến đó “cũng là một nơi nào đó trên trái đất này”. Họ sẽ nhanh chóng nhận ra cái “nơi nào đó” kia là nơi mà họ bị tước đoạt tất cả: vợ con, bố mẹ già, tư trang, nhân phẩm, thậm chí cả tên - mỗi người tù chỉ còn biết đến như một dãy số xăm vào cánh tay trái; là nơi mà họ sẽ phải sống - nếu như chưa chết hoặc chưa bị giết - dưới những điều kiện phi nhân nhất; là nơi mà rồi họ sẽ chia sẻ những giấc mơ giống nhau đến kỳ lạ: giấc mơ được ăn, mà mỗi khi thức ăn chạm miệng là vụt tan biến thành nghìn mẩu vụn. Ở chốn này, một ngày được coi là tốt lành khi ngày đó họ có vài giờ để “cảm thấy bất hạnh theo cái kiểu của những con người tự do” - tức khi những người tù xoay xở được thêm chút xúp loãng đủ tạm no nê mà có sức nghĩ về gia đình, vốn là việc những khi khác họ không làm nổi. Cho đến bây giờ, đã có hàng nghìn cuốn sách viết về những trại diệt chủng trong thế chiến thứ hai. Còn vào thời điểm Primo Levi quyết định kể lại câu chuyện của mình, chúng cũng đã quá nổi tiếng. Levi khẳng định trong lời mở đầu rằng cuốn sách không nhằm đưa ra “những lời buộc tội mới” mà chỉ cung cấp thêm tư liệu cho những nghiên cứu về “tâm trạng con người”. Cuốn sách đặt ra nhiều câu hỏi nhức nhối: khi nào một con người là người? con người khác gì với con vật? liệu một con người có thể lấy đi nhân phẩm của một con người khác? người có thể làm gì đối với người? thiện, ác, đúng, sai liệu có ý nghĩa gì trong một nơi chốn khủng khiếp như Auschwitz? Trong quá trình học cách tồn tại, và nhờ cả may mắn để tồn tại đến những ngày cuối cùng giữa chốn phi nhân đó, Levi luôn tìm cách nhận ra những dấu hiệu con người: một cái ôm với người đồng hương trẻ tuổi Schlome, thái độ không từ bỏ, không chịu chấp nhận của Steinlauf, tình bạn với Alberto, Thần khúc của thi hào Ý Dante và nhất là sự tốt bụng của Lorenzo - người không ngại hiểm nguy tặng thường xuyên tặng xúp và bánh mì cho Levi. Cho dù sau Auschwitz người ta có thể phục hồi về mặt thể chất, tinh thần là một cái gì đó khó hồi phục hơn nhiều. Không phải ai cũng có thể chịu đựng được những hồi ức về quãng lịch sử đen tối đó. Bản thân con người tốt bụng Lorenzo kia đã không vượt qua nổi chứng rối loạn về tâm lý và cuối cùng chết vì thiếu sự chăm sóc bản thân vào năm 1952. Còn Levi, dù chọn cách đương đầu với quá khứ bằng cách viết sách và đi nói chuyện về Auschwitz, thì chết vào nhà riêng vào năm 1987, và cái chết nhiều bí ẩn của ông được nhiều nguồn tư liệu coi là tự sát. Dẫu sao, thì như Elie Wiesel, một tù nhân Auschwitz khác, đã nói, thực ra Primo Levi đã chết từ bốn mươi năm trước trong Auschwitz. Với một câu chuyện u ám như thế, lẽ ra Có được là người phải là cuốn sách nặng nề và khó đọc. Nhưng thật lạ kỳ, đây lại là một page turner - một cuốn sách bắt người ta phải lật không ngừng. Sức hấp dẫn của cuốn sách không nằm ở câu chuyện mà nằm ở cách tác giả kể chuyện - đó gần như là một giọng kể phi cảm xúc, che giấu sự kinh tởm trước những gì được mô tả - và cách mà cuốn sách gợi ra những suy nghĩ, những truy vấn mênh mang trong người đọc. * Có được là người - Primo Levi, Nhã Nam và NXB Hội nhà văn, Trần Hồng Hạnh dịch từ nguyên bản tiếng Ý  *** Tôi bắt đầu thử thách của mình với một tác phẩm hạng nặng. Số trang vừa phải (287 trang), nhưng những gì nó mang lại đủ để tôi xuống tinh thần trong khoảng thời gian không vừa phải chút nào.  " Nhân vật trong những trang sách này không phải con người. Tính người của họ đã bị vùi lấp, chính họ đã tự chôn nó vì sự xúc phạm phải chịu hay đã gây ra cho người khác. Những tên SS độc ác và bệnh hoạn, những Kapo, tù chính trị, tội phạm, prominent lớn nhỏ cho đến những nô lệ Haftling người này giống hệt người kia, tất cả các bậc trong cái hệ thống điên rồ mà bọn Đức dựng lên ấy đều bị gom lại đầy nghịch lý trong một sự tồi tàn nội tâm giống hệt nhau. " Tôi được tác giả cuốn sách thông báo rằng mọi điều diễn ra trên từng trang sách không có gì là bịa đặt, nói cách khác tôi đang được chứng kiến một khúc phim tài liệu chân thực nhất về những gì diễn ra từ Lager đến Auschwitz, về những người Do Thái khốn cùng trong một công cuộc chà đạp nhân phẩm khốn cùng. Giọng văn của Primo Levi rõ ràng khiến những kẻ quen đọc văn chương nửa thích thú nửa nản lòng, bởi ông không hoa mĩ mà chỉ kể lể, với thứ ngôn ngữ lạnh lùng và thiếu sinh khí chẳng khác gì cuộc sống tối tăm, dở người dở ngợm của những tù nhân DoThái trong những ngày tháng ấy. Làm sao để khiến người đọc ngày hôm nay có thể tưởng tượng rằng thứ chủ nghĩa dân tộc bệnh hoạn của Đức Quốc xã đã sản sinh ra không chỉ một tội ác diệt chủng, mà còn là sự huỷ hoại nhân tính vô cùng tàn khốc mà người với người có thể gây ra cho nhau vào thời đại được xem là văn minh tiên tiến ở Châu Âu, nếu không phải là kể hết ra một cách giản đơn và trần trụi. Sức hấp dẫn trong những con chữ nhuốm màu bi kịch của cuốn tự truyện này nằm ở chỗ đó.  Những người Do Thái thiên tài, trải qua bao nhiêu biến thiên và lăng nhục vẫn tự cường khẳng định vị trí của mình trong guồng quay tàn khốc của lịch sử. Nhưng vào những ngày đen tối nhất trong chiến dịch cưỡng bức và tàn sát của quân đội Đức, Levi chỉ nhìn thấy sự yếu đuối rất con người ở họ. Họ đã bị tước đoạt đến tận răng, từ bộ quần áo đến cái tên làm nên gốc tích của họ, bị lăng nhục đến tận răng, từ giá trị tri thức cho đến phẩm cách làm người đến mức chỉ có thể suy nghĩ về việc tồn tại vật vờ đến từng giây phút sống. Họ sẵn sàng ăn cắp, lọc lừa, chà đạp lên đồng loại, khốn khổ vì miếng bánh mì hay chết chìm trong việc tuân theo trật tự kiểu mẫu của những tên đao phủ. Phần lớn họ tin rằng mình đã chết, đã trở thành thú vật, khước từ mọi tư duy và hi vọng được sống như một con người, và một phần cũng đáng kể hơn vẫn còn suy nghĩ về điều đó, bám chắc lấy nó và chiến đấu đến kiệt lực vì nó.  "Đối mặt với cái thế giới hỗn loạn đáng nguyền rủa này, suy nghĩ của tôi trở nên lộn xộn. Có thật sự cần phải suy ngẫm về một cơ chế đạo đức rồi áp dụng nó không? Ý thức được mình không có cơ chế nào lại chẳng tốt hơn sao?" Chỉ có hai loại người tồn tại trong một thời kì ác mộng: một là những kẻ chết chìm vì sự tàn khốc của nó, hai là những kẻ bước ra khỏi nó và mang những vết thương sâu thẳm không bao giờ chữa lành được. Chiến tranh hay diệt chủng thì càng khủng khiếp hơn bởi sức huỷ diệt của chúng thừa sức vằm nát sự mỏng manh của thân phận con người. Primo Levi có thể là một người may mắn trở về và kể lại câu chuyện đau thương của thế hệ ông, nhưng cũng như bao con người khác nếu còn một trái tim sẽ còn bị hành hạ bởi vô vàn trải nghiệm, sau cùng ông cũng không thể hạnh phúc bởi những trang viết giải độc của chính mình.  "Chúng tôi nằm trong một thế giới của người chết và kiệt sức. Dấu hiệu văn minh cuối cùng đã biến mất xung quanh và cả bên trong chúng tôi. Công trình biến con người thành thú vật mà bọn Đức thời đắc thắng đã dựng lên giờ đây đang được bọn Đức bại trận hoàn thành nốt." Primo Levi tự sát tại nhà riêng vào năm 1987, bốn mươi hai năm sau ngày ông bước chân ra khỏi địa ngục trần gian do chính con người tạo nên. Ít ai hiểu được ông nghĩ gì trước khi chết, nhưng rồi chắc chắn cũng ít ai hiểu được ròng rã bốn mươi hai năm được làm người đó con người ta còn phải mang nặng điều gì khi cơn ác mộng tồi tệ nhất đã qua đi.  Cá nhân tôi suy nghĩ đến một di sản. Thứ di sản đớn đau dai dẳng của một thế kỉ toàn trị. Đó là điều mà đã chấp nhận làm người thì khó có thể quên đi như một giấc mơ phù phiếm được.   Mời các bạn đón đọc Có Được Là Người của tác giả Primo Levi.
Tình Làm Sao Yêu - Cecelia Ahern
Cô gái Christine sau khi ly hôn, trong khi bận giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống cá nhân, thì lại tình cờ cứu được một anh chàng sắp nhảy cầu tự tử. Cô tìm mọi cách để giúp anh vui sống trở lại và nhờ đó chính cô cũng vui trở lại. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương Tình Làm Sao Yêu ... Mời các bạn đón đọc Tình Làm Sao Yêu của tác giả Cecelia Ahern.