Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời

Được biết đên rộng rãi ở Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Hai số phận (tập 1 của series Kane và Abel), Jeffrey Archer là một tiểu thuyết gia với thủ pháp kể chuện cực kỳ lôi cuốn và hấp dẫn độc giả khiến chúng ta không thể rời mắt khỏi cuốn sách ngay từ trang đầu. Tài năng tuyệt vời ấy thêm một lần nữa lại được tác giả sử dụng trong Biên niên Clifton, series ăn khách toàn thế giới của ông đang được Bách Việt mang tới với độc giả Việt Nam. Lấy bối cảnh thành phố cảng Bristol nước Anh vào những thập niên đầu thế kỷ 20 mà nhân vậy chính là một cậu bé, Harry Clifton, người mang trong mình những bí ẩn về thân thế. Số phận đưa đẩy khiến Harry có một cuộc đời khác với cha và các bác ruột mình, cậu gắng sức chiến thắng định mệnh dường như đã được ăn bài sẵn để mở cho mình một lối đi riêng. Liệu rằng, Harry có thực sự vượt lên được những hoàn cảnh éo le đeo đuổi cậu suốt từ thời thơ ấu cho tới tận khi trưởng thành? *** Câu chuyện này sẽ không bao giờ được viết ra nếu tôi không có thai. Các bạn biết đấy, tôi vẫn luôn lên kế hoạch sẽ để mất đi sự trong trắng của mình vào dịp đi chơi ở Weston-super-Mare, chỉ có điều, không phải với người đàn ông đó. Arthur Clifton chào đời tại Still House Lane, giống như tôi; thậm chí còn học cùng trường với tôi, trường Tiểu học Merrywood, nhưng vì tôi kém anh hai tuổi, nên thậm chí anh còn chẳng biết tôi tồn tại trên đời. Tất cả đám con gái lớp tôi đều mê mẩn anh, và không phải chỉ đơn thuần vì anh là đội trưởng đội bóng đá của trường. Cho dù Arthur chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến tôi khi còn học ở trường nhưng điều đó nhanh chóng thay đổi khi anh từ mặt trận phía Tây trở về. Thậm chí tôi không dám chắc anh nhận ra tôi là ai khi mời tôi nhảy vào buổi tối thứ bảy đó ở Palais, song một cách công bằng, tôi cũng phải nhìn đến hai lần trước khi nhận ra anh vì anh đã nuôi một hàng ria bút chì và chải tóc lật ra sau như Ronald Colman. Anh không để mắt tới bất cứ cô gái nào khác tối hôm ấy, và sau khi chúng tôi cùng nhau nhảy điệu waltz cuối cùng, tôi biết chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi anh cầu hôn tôi. Arthur nắm lấy tay tôi trên đường quay về nhà, và khi về tới trước cửa nhà tôi, anh đã cố tìm cách hôn tôi. Tôi quay mặt tránh đi. Xét cho cùng, mục sư Watts vẫn thường nhắc tôi rằng tôi cần giữ mình trong trắng cho tới ngày cưới, và cô Monday, người phụ trách ban đồng ca của chúng tôi, cảnh cáo rằng đàn ông chỉ muốn có một thứ, và một khi có được nó, họ sẽ nhanh chóng mất đi hứng thú. Tôi vẫn thường tự hỏi liệu có phải cô Monday nói từ kinh nghiệm bản thân hay không. Tối thứ bảy tiếp theo, Arthur mời tôi tới rạp chiếu bóng để xem Lilian Gish trong phim Những bông hoa gãy nại, và mặc dù cho phép anh khoác vai mình, tôi vẫn chưa chấp nhận để anh hôn. Anh cũng không làm ầm lên vì chuyện đó. Sự thực là Arthur có phần dè dặt. Đến thứ bảy tiếp theo, tôi cho phép anh hôn mình, nhưng khi anh định luồn một tay vào trong áo tôi, tôi lập tức đẩy anh ra. Kỳ thực, tôi đã không cho phép anh làm thế cho tới khi anh ngỏ lời cầu hôn tôi, trao cho tôi nhẫn đính hôn, còn mục sư Watts đã đọc bản thông báo kết hôn giữa hai người đến lần thứ hai. Anh trai Stan của tôi nói với tôi rằng tôi là cô gái cuối cùng còn trinh bên phía bờ bên này của sông Avon, dù tôi dám ngờ phần lớn những cuộc chinh phục của anh ấy chỉ tồn tại trong đầu anh mà thôi. Tuy vậy, tôi vẫn quyết định đã tới lúc, và còn dịp nào tốt hơn chuyến đi chơi tới Weston-super-Mare với người đàn ông tôi sắp sửa kết hôn trong vài tuần nữa? Tuy nhiên, ngay khi Arthur và Stan nhảy xuống khỏi xe buýt, cả hai lập tức tông thẳng tới quán rượu gần nhất. Nhưng tôi đã dành cả tháng vừa qua để lên kế hoạch cho khoảnh khắc này, thế nên khi rời khỏi xe, như một cô gái ngoan được hướng dẫn chu đáo, tôi đã sẵn sàng. Tôi bước về phía bến tàu với tâm trạng chán nản thì cảm thấy có ai đó đang đi theo tôi. Tôi ngoái lại nhìn và ngạc nhiên khi nhận ra người ấy là ai. Anh ta bắt kịp tôi, và hỏi có phải tôi đang một mình hay không. “Đúng thế,” tôi đáp, biết chắc lúc này Arthur hẳn đã nốc đến vại bia thứ ba rồi. Khi anh ta đưa tay sờ lên mông tôi, đáng lẽ phải tát vào mặt anh ta, song tôi lại không làm thế vì vài lý do. Đầu tiên, tôi nghĩ tới những lợi thế khi làm tình với một người đàn ông nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ gặp lại. Và cũng phải thừa nhận tôi khá thích thú trước sự sỗ sàng của anh ta. Khi Arthur và Stan có lẽ đã cạn hết vại bia thứ tám của họ, người đàn ông kia thuê phòng cho chúng tôi ở một nhà nghỉ ngay gần bờ biển. Dường như tại đó người ta có mức giá đặc biệt cho những khách thuê phòng không có ý định nghỉ qua đêm. Anh ta bắt đầu hôn tôi ngay khi chúng tôi kịp lên tới chiếu nghỉ cầu thang lầu một, và khi cửa phòng ngủ đã đóng lại, anh ta hối hả cởi khuy áo tôi ra. Rõ ràng với anh ta đây không phải là lần đầu tiên. Kỳ thực, tôi tin chắc mình không phải là cô gái đầu tiên được anh ta đưa lên giường trong một chuyến đi chơi như thế này. Nếu không phải khách quen, làm sao anh ta biết được mức giá đặc biệt? Phải thú thực là tôi không trông đợi mọi thứ trôi qua nhanh đến thế. Sau khi rời khỏi người nhau, tôi lao ngay vào phòng tắm, còn anh ta ngồi ở cuối giường và châm một điếu thuốc. Có lẽ lần thứ hai sẽ khá hơn, tôi thầm nghĩ. Nhưng khi quay ra, anh ta đã biến mất. Phải thừa nhận là, tôi cảm thấy có chút thất vọng. Có lẽ tôi đã cảm thấy tội lỗi hơn về chuyện không chung thủy với Arthur nếu anh không nôn ọe ra khắp người tôi trong hành trình trở về Bristol. Ngày hôm sau, tôi kể với mẹ tôi về chuyện đã xảy ra, song không tiết lộ thân phận người đàn ông kia. Suy cho cùng, mẹ tôi chưa bao giờ gặp anh ta, và nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ gặp. Bà bảo tôi hãy giữ mồm giữ miệng, vì bà không muốn phải hủy bỏ đám cưới, thậm chí nếu quả thực tôi có thai đi nữa, cũng sẽ chẳng ai đủ tinh ý để nhận ra, bởi đến khi cái bụng lộ rõ thì chắc hẳn Arthur và tôi đã kết hôn rồi. *** “Chỉ thời gian có thể cất lời” của Jeffrey Archer là một tác phẩm hay, lôi cuốn, hấp dẫn, nhưng còn xa mới có thể trở thành một siêu phẩm. Ctgctcl là cuốn đầu tiên nằm trong series 7 cuốn nằm trong bộ “Biên niên Clifton” nổi tiếng, với nhân vật trung tâm là cậu bé Harry Clifton, một cậu bé có thân phận bí ẩn. Cha cậu bé, Arthur Clifton, vốn là một công nhân chuyên cần, thật thà bỗng nhiên mất tích đầy bí ẩn. Mẹ cậu bé, Maisie, một phụ nữ lôi cuốn, quyến rũ, vốn là một phục vụ bàn trong một tiệm cà phê. Xuyên suốt tác phẩm, độc giả được dõi theo hành trình trưởng thành của Harry Clifton thông qua nhiều góc nhìn của nhiều nhân vật, từ một cậu bé ngày ngày lang thang nơi bến cảng thành một sinh viên Oxford. Cùng với hành trình trưởng thành đó, những bí ẩn trong quá khứ và trong hiện tại cũng dần dần được vén lên. Trong Chỉ thời gian có thể cất lời, tác giả đã trình diễn một kỹ thuật kể chuyện lôi cuốn. Tình tiết truyện diễn biến nhanh, ít những trường đoạn tự sự kiểu nhân vật độc thoại dài cả vài trang sách, nhân vật kể truyện thay đổi liên tục qua các phần giúp câu chuyện đa sắc thái và không bị nhàm chán. Nói không ngoa, nếu có thể rảnh rang ngồi cả ngày để đọc, bạn có thể đọc một lèo hết veo cuốn sách 500 trang này mà không gặp bất kỳ khó khăn gì. Tác phẩm thực sự rất dễ đọc. Tuy nhiên… Trước khi viết những dòng “tuy nhiên” này tôi phải tâm sự thực lòng, tôi là một độc giả khó tính. Tôi ưa thích các tác phẩm mà người đọc buộc phải đọc nhiều lần để hiểu, bỏ thời gian ngẫm nghĩ để khám phá các tầng nghĩa, mất ngủ để phân tích các cấu trúc bí ẩn của tác phẩm, và cuối cùng được trải nghiệm cảm xúc vỡ òa như khi Archimedes reo vang “Eureka!” trong bồn tắm. Chính vì vậy, với cá nhân tôi, Chỉ thời gian có thể cất lời tuy rất hay nhưng chưa thể trở thành một siêu phẩm đúng nghĩa bởi: Jeffrey Archer tuy đã dày công xây dựng nhiều bí ẩn trong tác phẩm nhưng có vẻ ông giấu không kỹ, hoặc tôi đoán mò quá giỏi nên đã “bắt bài” được ông quá sớm, khiến những lần ông dùng thủ pháp chuyển đổi nhân vật dẫn truyện để giải nghĩa các bí ẩn từ các phần trước, tôi thấy nhiều tình tiết bị lặp lại và có vẻ hơi thừa. Cảm giác khi mình biết tỏng cái điều mà nhân vật kể truyện kia đang giấu giấu, giếm giếm, úp úp, mở mở, giống y như khi nghe một chiến sĩ dũng cảm tuyên bố: “Có đánh chết tau cũng không khai ra thèng bạn tau đang nấp trong đống rơm, nha nha nha nha nha!!!” Cảm giác thực sự rất… khó tả. Là một người sinh ra và lớn lên ở nông thôn, bản thân phải tự cố gắng để có thể theo đuổi cái sự học hành, tôi đánh giá, những bi kịch và những khó khăn của cậu bé Harry Clifton phải trải là… quá bình thường. Bởi cậu đã được nhiều người thương yêu và hết lòng giúp đỡ, bởi có những người bạn chân thành, và quan trọng nhất là bởi luôn có các quý nhân xuất hiện đúng lúc, đưa tay giúp đỡ cậu thậm trí trước cả khi cậu bé kịp cảm thấy khổ đau. Đúng là… làm gì có những năm tháng tĩnh lặng trong cuộc đời, chẳng qua khi đó có những người đã thay bạn gánh vác những trách nhiệm, gánh nặng mà thôi. Harry Clifton vì vậy hầu như chỉ phải tập trung vào mỗi việc là chăm chỉ học hành, tập hát và đóng kịch. Tôi nghĩ vui rằng, đáng nhẽ tên tác phẩm nên đổi là “Quý nhân phù trợ” sẽ hợp hơn. – Đặng Xuân Lương Review Mời bạn đón đọc Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời của tác giả Jeffrey Archer.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Jennie Gerhardt - Theodore Dreiser
Trong bầu trời văn chương của nước Mỹ đầu thế kỉ thứ hai mươi. Theodore Dreiser nổi bật lên như một trong những ngôi sao sáng nhất. Ông sinh ngày 27 tháng 8 năm 1871 tại Terre Haute bang Indiana và mất ngày 28 tháng 12 năm 1945 tại Hollywood bang California. Trong hơn bốn mươi năm lao động sáng tạo Dreiser đã cho ra đời tất cả năm bộ tiểu thuyết cùng với một số đáng kể các truyện ngắn, ký sự, tiểu luận, chín vở kịch, hai tập tự truyện và hai tập thơ. Nôi tiếng nhất trong số đó là hai cuốn tiểu thuyết: “Một bi kịch nước Mỹ” và “Jennie Gerhardt”. Chính hai cuốn này đã đưa ông lên địa vị hàng đầu trong văn đàn và được coi là người cha của nền văn học hiện thực nước Mỹ. “Jennie Gerhardt”, tên sách đồng thời cũng là tên của nhân vật chính trong truyện. Một cô gái xinh đẹp, giàu lòng nhân ái, yêu lao động, hoàn toàn xứng đáng có hạnh phúc và có quyền được hưởng hạnh phúc. Nhưng xã hội tư bản với sự thống trị tuyệt đối của thế lực đồng tiền đã cướp đi của cô tất cả, từ miếng cơm manh áo, đến quyền làm vợ, làm mẹ và thậm chí cả quyền được yêu thương, được xả thân cho người mình yêu dấu. Jennie yêu Brander, một thượng nghị sĩ, có con với ông ta, nhưng Brander thất bại trên đường sự nghiệp và chết đột ngột. Sau đó vài năm cô lại yêu Lester Kane, con trai một nhà đại tư bản. Với Lester, Jennie là người đàn bà lý tưởng mà anh đã bao năm tìm kiếm. Anh hết lòng yêu cô, mong muốn được là chồng chính thức của cô, mang lại cho cô một cuộc sống êm đềm hạnh phúc. Mặc dù thế anh vẫn không làm sao vượt qua nổi cái cơ chế khắc nghiệt và vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản mà anh đang bị khuôn vào trong đó. Hai người vẫn phải chung sống một cách vụng trộm trong nỗi thắc thỏm, lo âu. Cuối cùng để được giữ quyền thừa kế tài sản, Lester buộc lòng phải rời bỏ Jennie để kết hôn với một cô gái khác thuộc dòng dõi giàu có và quyền quý. Jennie tưởng rằng mình có thê sống một cuộc sống tạm gọi là hạnh phúc với đứa con duy nhất, con của thượng nghị sĩ Brander và chút tài sản mà Lester gây dựng cho. Nhưng thần chết đã cướp mất đứa con, cướp đi nốt nguồn an ủi cuối cùng của người đàn bà bất hạnh. Chỉ còn lại một thân một mình, bị bao vây giữa muôn ngàn khổ ải, Jennie vẫn cố sống và dành hết lòng nhân ái của mình vun đắp cho hai đứa con nuôi. Người đàn bà bị xã hội tư bản chà đạp ấy tuy căm giận đến cùng cực chế độ bất công vẫn không để mất đi ở mình lòng tin vào lương tri và nhân phẩm của con người. *** Một buổi sáng mùa thu năm 1880, một người đàn bà đứng tuổi đi cùng một thiếu nữ trạc tuổi mười tám đến bàn tiếp khách của khách sạn chính thành phố Columbus, bang Ohio, hỏi xem ở đó có thể có việc gì thích hợp cho bà không. Tạng người bà béo bệu và yếu ớt, vẻ mặt thẳng thắn, cởi mở, cung cách hồn hậu, rụt rè, đôi mắt to đầy vẻ nhẫn nại, ngưng đọng bóng đen của đau khổ mà chỉ ai đã từng nhìn vào vẻ mặt những người nghèo khó, cùng quẫn và không nơi nương tựa với nỗi thương cảm mới có thể hiểu được phần nào. Bất kỳ ai cũng có thể hiểu vì đâu cô con gái đứng sau bà lại rụt rè bẽn lẽn, – chính nỗi niềm ấy đang đẩy cô lùi lại, hờ hững nhìn ra phía khác. Cô là hoa trái sinh ra từ đầu óc hay tưởng tượng, giàu tình cảm và lòng yêu thương bẩm sinh trong tâm hồn mộc mạc nhưng thơ mộng của người mẹ, kết hợp với sự trầm mặc và đĩnh đạc vốn là đặc tính của người cha. Cái nghèo đang dồn họ tới đường cùng. Mẹ và con gộp lại tạo ra hình ảnh rất đỗi thương tâm về cảnh cơ hàn, lương thiện khiến người thư ký cũng phải mủi lòng. - Bà muốn làm việc gì? - Có lẽ ông cho tôi quét dọn hoặc lau chùi gì đó – bà trả lời rụt rè – Tôi có thể rửa sàn nhà. Nghe mẹ nói, cô con gái bối rối quay đi, không phải công việc làm cô khó chịu, mà bởi cô không thích người ta đoán được nỗi bần bách đã bắt mình phải ngửa tay ra xin việc. Người thư ký mủi lòng trước nông nỗi hiển nhiên của cái đẹp trong bước đường cùng. Sự bất lực thơ ngây của cô con gái làm cho hoàn cảnh của hai mẹ con càng có vẻ gay go thực sự. - Chờ một lát nhé, – ông nói, rồi vừa bước vào phòng làm việc phía trong vừa gọi bà quản lý khách sạn. - Việc làm thì có đấy. Cầu thang chính và phòng khách chưa được quét dọn vì vắng chị lau sàn thường ngày. - Có phải con gái bà ta cùng đứng đấy không? – Bà quản lý hỏi, bà có thể nhìn thấy hai mẹ con từ chỗ bà đang đứng. - Vâng, có lẽ thế. - Nếu bà ấy muốn, chiều nay đến cũng được. Chắc cô con gái cũng giúp bà ta chứ? ... Mời các bạn đón đọc Jennie Gerhardt của tác giả Theodore Dreiser.
Thư Tình - Iwai Shunji
“Thư tình” tác phẩm văn học Nhật Bản của tác giả Iwai Shunji và sau này cũng được chính ông chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh cùng tên. “Thư tình” được coi là tác phẩm vốn được viết ra để dựng thành phim. Cuốn sách xoay quanh những lá thư trao đổi giữa hai cô gái, Watanabe Hiroko và Fujii Itsuki. Watanabe Hiroko ban đầu tưởng viết cho hôn phu Fujii Itsuki ở trên thiên đường nhưng sau đó thì nhận ra mình đang viết cho cô bạn cùng lớp cấp II của vị hôn phu và cũng là mối tình đầu của anh này. Cậu học trò cấp II đem lòng thương nhớ cô bạn cùng lớp trùng họ trùng tên. Chẳng dám thổ lộ tình cảm ấy, cậu chỉ biết viết tên cô, và cũng là tên cậu, vào tấm thẻ mượn của những cuốn sách chẳng bao giờ được ai đụng tới trong thư viện, nơi cô và cậu được phân công làm cán sự. Giống như rất nhiều mối tình học trò đơn phương khác, cô gái không hề nhận ra tình cảm của cậu. Ngay cả “bức thư tình”cuối cùng trên thẻ mượn mà cậu viết cho cô trước khi chuyển trường cũng không được cô biết tới. Một chuyện tình học trò giản dị, được tái hiện một cách tình cờ qua các bức thư trao đổi giữa hai cô gái không quen biết. Và bí mật về “tình yêu từ cái nhìn đầu tiên” những tưởng được chôn vùi theo người đã khuất dần được hé lộ. *** Hai năm trôi qua kể từ sau cái chết của Fujii Itsuki. Và là cái giỗ thứ hai vào ngày mùng 3 tháng Ba. Hôm ấy vào ngày lễ dành cho các bé gái, Kobe đổ tuyết bất thường. Tuyết chôn vùi cả khu nghĩa trang công cộng nằm trên đồi, những hạt trắng bám lấm tấm lên màu đen của những bộ đồ tang. Hiroko ngước lên nhìn trời. Tuyết trắng rơi không ngớt từ bầu trời không màu trông đẹp dung dị. Chắc hẳn bầu trời mà anh ấy nhìn thấy lần cuối trước khi chết trên núi tuyết cũng tựa như lúc này. “Như thể thằng bé đang gửi tuyết xuống ấy nhỉ?” Người lên tiếng là bà Ashiro, mẹ của Itsuki. Người lẽ ra đã là mẹ chồng Hiroko. Đến lượt cô thắp nhang. Chắp hai tay trước mộ, chính Hiroko cũng ngạc nhiên khi có thể thanh thản đối mặt với anh. Thời gian là thế chăng. Nghĩ đến đó, tâm trạng Hiroko có phần xáo trộn. (Xin lỗi anh vì em là người con gái bạc tình.)  Nén nhang Hiroko thắp mới tỏa ra làn khói mỏng trong giây lát thì một hạt tuyết chạm vào đầu nhang và dập tắt ngọn lửa. Hiroko thấy như đó là trò đùa của anh. Ngực cô thắt lại. Nhân thể lễ dành cho các bé gái, rượu ngọt nóng được đem ra thết đãi trong lúc chờ tàn canh hương. Khách đến viếng bỗng ồn ào hẳn lên, hâm nóng người bằng chén rượu và bắt đầu sôi nổi với những câu chuyện thế nhân nhàm chán. Hầu hết trong số đó là người nhà Itsuki. Ngoài ra có cả những người bạn chẳng còn giữ ký ức đầy đủ về anh. Họ đứng trước mộ anh nhưng gần như chẳng có chuyện gì để nói. Kể ra với bản chất kiệm lời và khó gần của anh thì điều này cũng không phải là không có lý. Còn trẻ mà đã vậy đấy. Đối với họ, anh là một cố nhân chỉ có ngần ấy chuyện để kể. “Tôi không uống được đồ ngọt. Không có đồ cay sao? Rượu cay ấy!” “Tôi cũng thích rượu cay.” Đáp lại yêu cầu ngang ngạnh của cánh đàn ông, ông Seiichi - bố Itsuki gọi bà Ashiro. ... Mời các bạn đón đọc Thư Tình của tác giả Iwai Shunji.
Người Ăn Chay - Han Kang
Người ăn chay là một cuốn tiểu thuyết ba phần về câu chuyện của Yeong-hye, một người vợ hiếu thảo Hàn Quốc, được thúc đẩy bởi một giấc mơ, quyết định một ngày để trở thành một người ăn chay. Hành động thay đổi này đã gây ra một số xung đột trong cuộc sống gia đình cô và được xem như một cuộc nổi loạn của Yeong-hye. Cô ngày càng kỳ lạ và đáng sợ, các mối quan hệ dường như bình thường trở thành những hướng bạo lực, xấu hổ và mong muốn. Nhận xét về cuốn sách, tờ báo The Guardian cho biết: “Qua ba phần, chúng tôi đang áp chặt vào cấu trúc linh hoạt nhất của một xã hội – những kỳ vọng của hành vi, hoạt động của các tổ chức – và chúng tôi xem họ thất bại từng người một. Đó là một sự giằng xé nội tâm muốn thoát ra khỏi những dây trói ngày thường của một phụ nữ hiện đại. Ngoài ra tác phẩm còn mang đến sự gợi cảm, khiêu khích và bạo lực, cùng với hình ảnh mạnh mẽ, màu sắc đáng ngạc nhiên và những câu hỏi đáng suy ngẫm”. *** Ba truyện ngắn hay, độc lập nhưng cũng có thể gộp gọi tiểu thuyết (bản gốc không định rõ). Bởi vì cũng những con người đó, nền tảng, xuất xứ đó, nhưng tác giả xây dựng thông qua cái nhìn của các nhân vật khác nhau theo từng sự chuyển biến của câu chuyện. Han Kang giải mã những vùng tăm tối nhất trong con người họ, bắt đầu từ những khao khát bình thường hay đặc biệt, dần dần trở thành những chấn thương không thể nào chữa được. Các nhân vật đi tìm những ảo ảnh, hình bóng chập chờn cho quên đi nỗi đau, để rồi cuối cùng biến mất theo chúng. Mời các bạn đón đọc Người Ăn Chay của tác giả Han Kang.
Câu Chuyện Dòng Sông - Hermann Hesse
Tất cả tác phẩm của Hermann Hesse đều nói lên niềm cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho mình và nhất là những nỗ lực vô hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người. Trọn tác phẩm của ông là lới thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người... Câu chuyện dòng sông là cuốn tiểu thuyết mang tính cách ngôn của Hermann Hesse kể về hành trình tâm linh của một người Ấn Độ tên là Siddhartha trong thời đại của Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Đây là tiểu thuyết thứ chín của Hesse, được viết bằng tiếng Đức, trong một ngôn ngữ đơn giản nhưng có vần điệu. Cuốn sách kể lại chuyện xảy ra ở Ấn Độ vào thời cổ đại vào khoảng thời gian của Phật (thế kỷ thứ 6 TCN). Truyện bắt đầu khi Siddhartha, con của một Brahmin, bỏ nhà ra đi để tham gia những nhà tu khổ hạnh cùng với người bạn thân là Govinda. Cả hai đều ra đi để tìm sự khai sáng. Siddhartha đã đi qua một chuỗi các thay đổi và tự nhận thức khi anh cố gắng đạt được mục đích này. *** Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”* trong im lặng – nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ. Cha chàng rất sung sướng vì con thông minh và khát khao hiểu biết. Ông tin tưởng chàng sẽ lớn lên thành một học giả, một mục sư, một hoàng tử trong giới Bà La Môn. Mẹ chàng đầy kiêu hãnh khi nhìn con đi, đứng, khoẻ mạnh, xinh đẹp, dẻo dai. Tất Đạt chào mẹ với một dáng điệu nho nhã. Và mỗi khi Tất Đạt dạo bước qua phố phường, với vầng trán cao, đôi mắt vương giả, dáng điệu thanh tao, thì những cô gái Bà La Môn bỗng nghe lòng rộn lên một niềm yêu thương rào rạt. Thiện Hữu bạn chàng, con một người Bà La Môn, yêu chàng hơn ai hết. Chàng yêu đôi mắt và giọng nói trong trẻo của Tất Đạt. Chàng yêu dáng đi của Tất Đạt, cử động của chàng. Chàng yêu tất cả những điều Tất Đạt làm và nói, và trên tất cả, chàng yêu kiến thức của Tất Đạt, những tư tưởng đẹp đẽ và đầy nhiệt tình, ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời của chàng. Thiện Hữu biết rằng chàng trai kia sẽ không trở thành một người Bà La Môn tầm thường, một người hành lễ tế thần biếng nhác, một kẻ ham nói phù chú, một người hùng biện khoác lác, một mục sư xảo quyệt, hay chỉ một con chiên ngoan ngớ ngẩn giữa đàn chiên đông. Không, và chính chàng, Thiện Hữu cũng không muốn trở thành một Bà La Môn như trăm ngàn Bà La Môn khác. Chàng muốn theo Tất Đạt, con người khả ái tuyệt vời kia. Vì nếu Tất Đạt có ngày trở thành một vị chúa tể, nếu có một ngày chàng bước vào cõi quang minh, thì lúc ấy Thiện Hữu muốn theo chàng như bạn chàng, như người tôi tớ của chàng, như cái bóng của chàng. Mọi người đều yêu quí Tất Đạt như thế. Chàng làm cho họ vui vẻ hạnh phúc. Nhưng chính chàng, Tất Đạt, lại không hạnh phúc. Lúc lang thang dọc những con đường hồng trong vườn, khi ngồi trầm tư trong bóng xanh nhạt của cụm rừng, khi rửa đôi chân trong buổi thánh tẩy với tư thái đầy trang nghiêm, đâu đâu chàng cũng được mọi người quí trọng và là nguồn vui cho tất cả. Tuy thế thâm tâm chàng lại không được yên vui. Mộng ảo và những suy tư khắc khoải dồn vào tâm tưởng chàng từ khúc sông cuồn cuộn, từ những vì sao lấp lánh, từ ánh mặt trời chan hoà. Mộng tưởng và vọng động xâm chiếm chàng, dâng lên từ làn khói của những cuộc tế thần, phát ra từ những thánh thi tuôn tràn từ những giáo lý của các vị Bà La Môn. Tất Đạt bắt đầu thấy những hạt giống khổ đau trong chàng. Chàng bắt đầu cảm thấy tình thương của song thân cũng như tình thương của Thiện Hữu không thể cho chàng hạnh phúc bình an, không thể thoả mãn chàng. Chàng bắt đầu ngờ rằng phụ thân đáng kính của chàng và các sư phụ khác, những vị Bà La Môn thông thái đã truyền hết cho chàng những tri kiến của họ rồi, tất cả kiến thức của họ đã trút vào túi khôn của chàng rồi. Nhưng túi khôn không đầy, trí năng chàng không thoả mãn, linh hồn chàng không bình yên và con tim không an nghỉ. Nước tịnh thuỷ tắm hàng ngày thật tốt, nhưng đây cũng chỉ là nước, không thể rửa sạch tội lỗi, không làm vơi bớt khổ đau của tâm hồn. Những cuộc tế thần và khấn nguyện cùng Thượng đế thật là tuyệt diệu, nhưng đấy phải chăng là tất cả... Và thần linh ấy là gì... Có phải thật là đấng sáng tạo ra thế giới... Không phải rằng linh hồn duy nhất đã tạo ra vũ trụ hay sao... Và thần linh phải chăng là những hình thái được tạo dựng như tôi và người, những sinh vật phù du... Và như thế phải chăng rất nên dâng lễ cho các thần linh... Và ta phải dâng cúng lễ vật cho ai nữa, phải kính nể ai nữa nếu không phải thần linh. Linh hồn duy nhất... Và linh hồn ở đâu, trái tim bất diệt ở đâu, nếu không phải Tự ngã, trong phần thâm sâu, bất diệt mà mỗi người đều mang sẵn... Nhưng đâu là Tự ngã ấy, phần thâm sâu ấy... Đấy không phải là thịt xương, cũng không phải tư tưởng hay ý thức. Những người trí thức đều dạy chàng như thế. Vậy thì nó ở đâu... Đi tìm Tự ngã, Linh hồn ấy, có nơi nào khác đáng đặt chân không... Không ai chỉ đường, vì không ai biết, từ cha chàng, thầy chàng, những bậc thức giả cho đến những bài thánh thi. Những người Bà La Môn và những thánh kinh của họ biết hết về mọi sự, họ đã đi sâu vào mọi vấn đề - sự tạo thiên lập địa, nguồn gốc của ngôn ngữ, thức ăn, hơi thở vào, thở ra, sự sắp đặt của những giác quan, hành động của những thần linh. Họ thông thạo vô số vấn đề - nhưng có bỏ công không, nếu họ không thấu hiểu vấn đề quan trọng độc nhất... Mời các bạn đón đọc Câu Chuyện Dòng Sông của tác giả Hermann Hesse.