Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Câu Chọi Vạn Câu

Lưu Chấn Vân đã phải ấp ủ, thai nghén ba năm mới cho ra đời tiểu thuyết này. Đây cũng là tác phẩm chín nhất, hay nhất của ông từ trước đến nay. Phong cách kể chuyện của tác giả giống với nhật ký dã sử thời Minh, Thanh. Câu chữ chắt lọc, tình tiết rõ ràng, giọng kể mạch lạc, văn phong có dáng dấp như những bậc tiền bối lớn như: Uông Tăng Kỳ, Tôn Lê... Chỉ với ngôn ngữ như vậy, tác giả mới có thể đối ứng và thể hiện được nội hàm tác phẩm: nền văn hóa phương Tây đối thoại với Thánh Thần và nền sinh thái của nhân loại. Để thoát khỏi sự cô độc và mệt mỏi, những nhân vật trong tác phẩm đã cố gắng tạo ra thanh âm và niềm vui riêng. Đọc cuốn tiểu thuyết, chúng ta cảm nhận được sự bền bỉ và ngoan cường của sự sống. Nhận định "Rũ bỏ vẻ hào nhoáng bên ngoài quay về với bản chất mộc mạc bên trong. Ngòi bút tác giả luôn theo sát mảnh đất khổ nạn cùng những con người phận cái rơm cây cỏ thuộc tầng lớp đáy xã hội. Kết cấu chuyện đơn giản mà phong phú, hồi hộp căng thẳng mà xúc động lòng người. Nhân vật chính thường rơi vào bước đường cùng, nhưng vẫn dũng cảm tiến về phía trước. Đây là cuốn tiểu thuyết chính nhất, hay nhất của Lưu chấn Vân kể từ trước tời nay." (Nhà phê bình nổi tiếng Ma La) "Cuốn tiểu thuyết dùng hai câu chuyện ở các thời khác nhau và số phận những con người bình thường có quan hệ máu mủ ở các thời khác nhau để nói về hai chủ đề lớn của đời người. Đó là “Ra Đi” và “Quay Về”… (Nhà phê bình nổi tiếng Trương Di Vũ) "Tác phẩm này của Lưu Chấn Vân vừa là một lời giải thích cá nhân hóa, vừa là một mẫu mực điển hình hóa cho câu hỏi “Vì sao tiểu thuyết lại được coi là nghệ thuật ngôn ngữ.” (Nhà phê bình văn học nổi tiếng Bạch Diệp) *** Một câu hơn cả nghìn năm Lưu Chấn Vân đã phải ấp ủ, thai nghén ba năm mới cho ra đời cuốn tiểu thuyết này. Đây cũng là tác phẩm chín nhất, hay nhất của ông kể từ trước đến nay.. Phong cách kể chuyện của tác giả giống với nhật ký dã sử thời Minh, Thanh. Câu chữ chắt lọc, tình tiết rõ ràng, giọng kể mạch lạc, văn phong có dáng dấp của những bậc tác gia tiền bối như: Uông Tăng Kỳ, Tôn Lê1... Bởi vậy từng câu, từng chữ trong tác phẩm đều mang nghệ thuật biểu đạt, thấm đẫm mồ hôi tác giả. Quan trọng hơn, chỉ với ngôn ngữ như vậy, tác giả mới có thể đối ứng và thể hiện được nội hàm của tác phẩm: nền văn hóa phương Tây đối thoại với Thánh Thần và nền sinh thái của nhân loại, bởi sự hiện hữu mọi nơi của Thánh Thần mà người ta vui vẻ, tự tại. Người với người tuy quan hệ, qua lại không nhiều, nhưng không bị cô độc. Tiếp nữa, văn hóa Trung Quốc đối thoại với con người và kiếp người phù du lại vì sự chú trọng cực đoan đến hiện thực và truyền thống Nho gia, vì sự khác nhau về quần xã, địa vị và lợi ích, vì sự trắc trở, khó đoán của lòng người và mất mát niềm tin, nên những người bạn có thể dốc bầu tâm sự, sưởi ấm tâm hồn mình không nhiều, vậy nên phải sống trong nỗi cô độc nghìn năm. 1. Uông Tăng Kỳ: sinh năm 1920 tại tỉnh Tô Giang. Là nhân vật tiêu biểu cho thế hệ nhà văn đương đại, nhà viết kịch, tản văn... Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, phải chịu đựng nhiều sự đối đãi bất công. Nhưng dù vậy ông vẫn luôn giữ thái độ bình tĩnh, khoáng đạt và sáng tác ra rất nhiều những tác phẩm văn học theo chủ nghĩa lạc quan tích cực. Tôn Lê: sinh năm 1913 tại tỉnh Hà Bắc. Là người đi đầu trong tầng lớp những nhà văn đương đại Trung Quốc. Các tác phẩm của ông nhận được sự đánh giá rất cao của mọi người. Sau khi đọc xong tác phẩm của ông, Mao Trạch Đông từng viết: “Đây là một tác giả rất có phong cách.” Mỗi một người Trung Quốc đều có trải nghiệm về niềm cô độc như vậy. Thế nhưng, kể từ Ngũ Tứ đến nay, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên nhìn thẳng vào người dân thường, quan tâm đến tâm hồn họ và ca ngợi họ như thế. Nửa đầu cuốn tiểu thuyết nói về quá khứ: Ngô Mô-sê cô độc đánh mất cô con gái nuôi - người duy nhất “nói chuyện được” với gã. Vì sự tìm, gã rời khỏi Diên Tân. Nửa cuối tiểu thuyết nói về hiện tại: Con trai con gái nuôi của Ngô Mô-sê là Ngưu Ái Gia cũng vì để thoát khỏi sự cô độc, muốn tìm một người bạn “nói chuyện được”, mà đi tới Diên Tân. Rời và Tới ròng rã mất trăm năm. Trong tác phẩm này, mọi mối quan hệ tình tiết và kết cấu nhân vật, mọi sự hài hòa trong tổ chức quần xã và gia đình, thậm chí đến ngay cả nhục dục và tình yêu cũng đều liên quan đến chuyện người với người có nói chuyện được với nhau hay không; liên quan đến chuyện lời nói ra có thể chạm đến tâm hồn, mang lại hơi ấm, hóa giải xung đột, kích thích đam mê hay không. Lời nói, một khi đã trở thành thứ duy nhất để tương thông giữa con người với con người, thì sự tìm kiếm và cô độc liền đi kèm theo nhau suốt đời. Sự đuối sức của tâm hồn và sự rệu rã của sự sống, và cả sự mịt mù, mệt mỏi vô bờ bến liền sản sinh, gắn với nhau như hình với bóng. Từ đó, chúng ta chợt nhận ra, người Trung Quốc sao lại phải sống mệt mỏi đến vậy! Sự mệt mỏi ấy, giống như đêm dài đằng đẵng, mài cứa vào thần kinh chúng ta, hết đời này sang đời khác. Để thoát khỏi sự cô độc và mệt mỏi ấy, những con người trong tác phẩm đã cố gắng tạo ra những thanh âm và niềm vui riêng. Thế là, hô tang liền trở thành nghề mà nhân vật chính Dương Bách Thuận tôn thờ. Thủ đàm với con hát trở thành sở thích cá nhân của huyện trưởng... Nhưng điều ấy vẫn không thể thay đổi được số phận của nhân vật trong truyện. Bởi vậy, đọc cuốn tiểu thuyết này, ta thấy nặng nề, đau đớn. Tâm trạng ấy khiến chúng ta không ngừng bị quẩn quanh giữa “Luận Ngữ” và “Kinh Thánh”, quanh quẩn trong mối trăn trở nghìn năm là đối thoại với Thánh Thần hay đối thoại với con người... Đương nhiên, đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng ta cũng cảm nhận được sự bền bỉ và ngoan cường của sự sống. Để có được một chỗ dựa và an ủi về tinh thần, con người bất giác lại theo đuổi bóng dáng trong “Một câu chọi vạn câu”, rất giống với tấm lưng còng của tổ tiên và vòm trời được ghép bởi vô vàn những tấm lưng ấy. -An Ba Thuấn *** Bố Dương Bách Thuận bán đậu phụ, người ta gọi lão là lão Dương bán đậu phụ. Ngoài đậu phụ, mùa hè, lão còn bán cả mỳ nguội. Lão Dương bán đậu phụ và lão Mã đánh xe ngựa ơ Mã Gia Trang là bạn thân với nhau. Thật ra hai người vốn không nên là bạn, bởi lão Mã thường bắt nạt lão Dương. Bắt nạt ở đây không phải ý bảo lão ta đánh, hay mắng chửi, hay bắt chẹt lão Dương về khoản tiền bạc, mà là coi khinh từ trong trứng nước. Khi đã coi khinh một ai đó thì có thể không cần phải đi lại, quan hệ với người ấy, nhưng lão Mã hễ nói chuyện tếu táo là lại không thể thiếu được lão Dương. Lão Dương khi kể với mọi người về bạn mình, người đầu tiên lão nhắc đến là lão Mã. Còn lão Mã khi kể về bạn mình, kể đây là kể sau lưng, thì cấm có lần nào lão ta đả động đến lão Dương bán đậu phụ và mỳ nguội ở Dương Gia Trang. Nhưng người ngoài không biết nội tình bên trong lại cứ tưởng hai người là bạn thân. Năm Dương Bách Thuận 11 tuổi, lão Lý thợ rèn ngoài thị trấn làm tiệc mừng thọ mẹ. Lò rèn của lão Lý tên là “Lò rèn Đới Vượng”, chuyên làm mấy thứ như: thìa, dao thái, lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi liềm, răng bừa, lưỡi xẻng, chốt cửa... Cánh thợ rèn, mười người thì có đến tám chín người tính tình nôn nóng. Nhưng lão Lý lại đủng đỉnh. Một cái đinh bừa thôi mà lão ta cũng phải làm hai canh giờ mới xong. Chậm đây, nhưng là chậm chắc, chậm tinh xảo, cái đinh bừa ấy thể nào cũng góc cạnh sắc nét. Trước khi đem tôi, những thứ: thìa, dao thái, lưỡi rìu, lưỡi cuốc, lưỡi liềm, lưỡi dao, chốt cửa... đều được lão in lên hai chữ “Đới Vượng”. Trong bán kính vài chục dặm, tuyệt nhiên không có một gã thợ rèn nào hành nghề. Không phải vì tay nghề họ kém lão Lý, mà vì chẳng ai có thế lọ mọ, tẩn mẩn được như lão. Người đủng đỉnh thường kỹ tính. Người kỹ tính dễ thù dai. Lão Lý là dần làm ăn, lò rèn ngày nào cũng có người qua lại, chắc chắn không tránh khỏi có câu này câu kia đắc tội với lão. Ấy thế nhưng lão không thù người ngoài, chỉ thù mỗi mẹ. Mẹ lão là người nóng tính, cái tính đủng đỉnh của lão là do bị tính nóng nảy của bà mẹ đè nén mà ra. Hồi tám tuổi, Lý ăn vụng một miếng bánh táo, liền bị mẹ giơ chiếc muôi sắt lên giáng thẳng vào đầu. Chậc... một hố sâu hoắm hiện ra, máu chảy ròng ròng. Người khác, khi vết thương đã lành thường quên đau, còn lão bắt đầu từ tám tuổi đã thù mẹ. Cái sự thù của lão không phải vì vết thương sâu hoắm, mà vì bà mẹ lão, sau khi làm ra vết thương ấy vẫn cười cười nói nói, tung tẩy đi cùng mọi người tới phố huyện xem tuồng. Cũng chẳng phải vì thù cái sự xem tuồng, mà vì sau khi lão trưởng thành, một người tính đủng đỉnh, một người tính nôn nóng, cách nhìn nhận về mỗi sự việc đều khác nhau. Mẹ lão bị viêm vành mắt. Năm lão 40 tuổi, bố lão mất. Năm lão 45 tuổi, mẹ lão bị mù. Sau khi bà mẹ bị mù, lão Lý trở thành ông chủ của Lò rèn Đới Vượng . Sau khi thành ông chủ rồi, lão Lý cũng vẫn chẳng hề này kia với bà mẹ. Chuyện ăn, chuyện mặc của bà vẫn giống như lúc trước, có điều bà mẹ nói gì, lão đều bỏ ngoài tai. Làm nghề rèn, bữa ăn ngày thường rất đạm bạc, nhưng bà mẹ lão vẫn lớn tiếng: - Nhạt miệng quá đi mất! Mau đi làm miếng thịt bò về đây cho tôi nhai tạm. Lão Lý: - Hẵng cứ đợi đấy. Đợi cũng chỉ là đợi suông thế. Mẹ lão: - Buồn quá đi mất. Mau dắt con lừa ra đây để tôi ra phố huyện chơi một lát. - Hẵng cứ đợi đấy. Đợi cũng chỉ là đợi suông thế. Không phải lão cố ý chọc giận mẹ, mà là để hãm dần cái tính nôn nóng của bà. Mẹ lão nôn nóng đã nửa đời người, giờ đã đến lúc phải thong thả lại. Nhưng lão cũng sợ, làm như thế phiền phức e sẽ ngày càng nhiều. Năm mẹ lão 70 tuổi, lão Lý muốn làm lễ mừng thọ cho mẹ. Bà mẹ: - Sắp xuống lỗ đến nơi rồi, khỏi phải thọ thiếc gì cả. Ngày thường, cứ tử tế với tôi thêm một chút là được. Rồi lại gõ chiếc gậy xuống đất: - Anh định làm lễ mừng thọ cho tôi à? Hay lại âm mưu gì cũng không biết chừng. Lão Lý: - Bà chỉ nghĩ lẩn thẩn. Nhưng lão Lý vẫn làm lễ mừng thọ cho mẹ, thật ra không phải vì mẹ lão. Tháng trước, có một thợ rèn họ Đoàn, người An Huy, đến thị trấn và cũng mở một lò rèn. Lão Đoàn béo mập. Lò rèn của lão có tên là “Lò rèn Đoàn béo”. Nếu lão Đoàn cũng tính tình nôn nóng, thì lão Lý chẳng sợ. Ai dè, lão Đoàn béo cũng là một tay đủng đỉnh. Một chiếc đinh bừa mà cũng phải làm mất hai canh giờ đồng hồ. Lão Lý phát hoảng. Muốn nhân dịp mừng thọ mẹ tổ chức một bữa tiệc thật linh đình để dằn mặt lão béo. Mượn cái sự đông khách khứa để lão béo phải hiểu rằng: đất có thổ công, sông có hà bá. Nhưng mọi người chẳng ai hiểu cái nội tình ấy. Chỉ biết, trước đầy, lão Lý chẳng hiếu đễ gì với mẹ, giờ đột nhiên lại có hiếu, bèn đoán chắc lão ta đã hiểu ra bổn phận làm con. Trưa hôm ấy, mọi người đều mang quà đến dự tiệc mừng thọ mẹ lão Lý. Lão Dương và lão Mã đều là bạn của lão Lý, nên hôm ấy cũng đến. Lão Dương phải dậy sớm đi bán đậu phụ ở xa, nên đến hơi muộn. Mã Gia Trang gần thị trấn, nên lão Mã có mặt rất chuẩn giờ. Lão Lý biết lão Dương bán đậu phụ và lão Mã đánh xe ngựa chơi thân với nhau, nên dành một chỗ cho lão Dương ngay cạnh lão Mã. Lão Lý những tưởng mình sắp đặt thế là chu toàn lắm, nào ngờ lão Mă có vẻ bực mình: - Ấy chớ! Bác đổi lão ta ra chỗ khác ngồi đi. Lão Lý: - Hai bác ngồi cạnh nhau nói chuyện tếu cho không khí nó rôm rả. Lão Mã hỏi: - Hôm nay có chất cay không? Lão Lý: - Mỗi bàn ba chai. Không chơi rượu can, nhá. Lão Mã: - Thì thế. Không uống rượu, nói chuyện vui với lão ta còn được. Chứ hễ cứ nốc rượu vào, là lão ta toàn móc ruột móc gan. Móc xong, hể hả lắm, nhưng lại khổ cái thân tôi. Lại tiếp: - Cũng chẳng phải một đôi bận đâu. Lúc ấy, lão Lý mới biết, đôi bạn này không phải là tri kỷ. Hoặc giả, lão Dương coi lão Mã là tri kỷ, nhưng lão Mã lại không thế. Lão Lý đành bèn chuyển chỗ lão Dương tới bàn khác, cạnh lão Đỗ làm nghề môi giới buôn bán gia súc. Dương Bách Thuận bị bố sai sang quẩy nước giúp nhà lão Lý từ hôm trước, nên đã nghe hết câu chuyện. Ngay sau hôm tiệc mừng thọ, lão Dương bán đậu phụ ngồi nhà ca cẩm cỗ nhà lão Lý ăn chán quá, mất quà oan. Chán ở đây không phải vì cỗ bàn không thịnh soạn, mà vì nói chuyện với cái tay Đỗ không hợp. Đầu tay Đỗ đã hói, lại còn bốc mùi, gàu rụng đầy vai. Lão Dương tưởng vì mình tới muộn, nên chẳng may phải ngồi cạnh lão Đỗ. Dương Bách Thuận liên đem câu chuyện nghe được hôm qua kể với bố. Nghe xong, lão Dương giáng ngay cho thằng con một cái bạt tai: - Bác Mã đời nào nói thế. Mày chỉ tầm bậy tầm bạ! Dương Bách Thuận tức tưởi. Còn bố nó ôm đầu ngồi sụp xuống cửa quầy đậu phụ, chẳng nói chẳng rằng. Suốt nửa tháng sau đó, lão Dương cũng chẳng hề đả động đến lão Mã nữa. Thê nhưng, sau nửa tháng, lão Dương lại qua lại với lão Mã, lại nói chuyện tếu táo, có việc lại tìm đến lão Mã trao đổi, bàn bạc. Bán hàng thường phải rao, nhưng lão Dương lại chẳng thích rao gì cả. Rao hàng chia làm hai loại: thô và tinh. Rao thô nghĩa là: bán gì rao nấy, chẳng hạn đã là đậu phụ thì cứ đậu phụ mà rao “Đậu phụ đêêêê...” “Đậu phụ Dương Gia Trang đêêêê..” Còn rao tinh nghĩa là rao có nhạc có điệu hẳn hoi, tâng đậu phụ của mình lên mấy bậc: “Bạn rằng là, đậu phụ này ý a, có phải là đậu phụ? Xin thưa rằng là, đậu phụ này ý a, là đậu phụ. Nhưng không thể ý a coi là đậu phụ...” Thế thì coi là gì? Là bạch ngọc, là mã não chứ còn gì nữa! Lão Dương mồm miệng vụng về, không biết ngân nga thành giai điệu, nhưng lại không muốn rao thô. Thật ra, lão đã từng rao thô, nhưng cũng đặc sắc đáo đế ra phết: “Đậu phụ mới làm, không phải lăn tăn về chất lượng đâyyyyy...” Lão biết đánh trống, dùi trống nện vào mặt trống, gõ vào thành trống, tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, vui tai đáo để. Lão ta liến chơi độc , lúc bán đậu phụ, không rao, mà gõ trống. Đánh trống bán đậu phụ, mới mẻ, sáng tạo quá còn gì! Người trong làng hễ nghe tiếng trống là biết ngay lão Dương bán đậu phụ ở Dương Gia Trang đã tới. Ngoài những lúc bán đậu phụ ở làng, vào dịp chợ phiên trên thị trấn, lão cũng lên đó bán. Vừa bán đậu phụ, vừa bán mỳ nguội. Lão ta lấy nan tre cắt mỳ nguội thành từng sợi, cho vào bát, rắc hành, cho thêm mấy nhánh kinh giới, rồi trộn với tương vừng. Bán bát nào, làm bát ấy. Bên trái hàng lão Dương là lão Khổng ở Khổng Gia Trang bán bánh nướng nhân thịt lừa. Bên phải là lão Đậu ở Đậu Gia Trang bán súp cay và thuốc lá sợi. Ở làng, lão Dương đánh trống để bán đậu phụ và mỳ nguội. Ở chợ phiên trên thị trấn, lão cũng giở chiêu ấy. Tiếng trống liên hồi kỳ trận, suốt từ sáng đến tối. Lúc đầu, mọi người thấy mới lạ, nhưng sau độ một tháng, đám lão Khổng, lão Đậu đều phát ngấy. Lão Khổng: - Chốc lại “tùng tùng”, chốc lại “cắc cắc”. Bác Dương này, cái đầu tôi bị bác gõ thành mỳ nguội nhà bác rồi đấy. Buôn bán cỏn con mà cứ làm như xuất quân đánh trận không bằng. Có cần phải ầm ĩ đến thế không? Lão Đậu tính nóng. Chẳng nói chẳng rằng, mặt hằm hằm sấn đến, đá một phát rách trống của lão Dương. 40 năm sau, lão Dương bị trúng gió, nằm liệt giường. Mọi việc trong nhà giao cho con trai cả là Dương Bách Nghiệp cầm trịch. Người khác hễ bị trúng gió là không điều khiển được trí não, mồm miệng cũng vượt khỏi tầm kiểm soát, lắp ba lắp bắp không thành câu. Nhưng lão Dương lại khác, chỉ bị liệt người, trí não và mồm miệng đều không sao. Hồi chưa bị liệt, mồm miệng vụng về, nói chuyện nọ xọ chuyện kia, hoặc gộp hai chuyện thành một. Nhưng sau khi bị liệt, đầu óc tự dưng minh mẫn, mồm miệng lại hóa trôi chảy. Gặp chuyện đều xử lý rất bình tĩnh, đâu ra đấy. Sau khi bị liệt, cả ngày phải nằm trên giường, hơi tí lại phải nhờ vả người khác. Về khoản này, rõ là không bằng lúc trước được, đã thế lại còn thiệt mắt, thiệt mồm. Hễ có bóng người vào, là lão vội đánh ánh mắt nghênh đón, lấy lòng. Sau đấy, người ta hỏi gì, lão đáp nấy. Hồi chưa bị liệt, lão thường nói dối, nhưng sau khi bị liệt, câu nào cũng móc ruột móc gan. Uống nước nhiều, đêm cũng sẽ trở dậy nhiều, nên bắt đầu từ chiều là lão không uống nữa. Sau 40 năm, bạn bè trước của lão, người thì mất, người còn sống thì mỗi người một việc. Sau khi lão bị liệt, chẳng có ma nào đến thăm lão. Ngày Rằm tháng Tám năm ấy, lão Đoàn khi đó bán hành ở chợ xách hai phong bánh đến thăm lão. Lâu không gặp cố nhân, lão Dương cầm tay lão Đoàn rưng rưng. Thấy người nhà đi vào, lão vội lấy tay áo lau nước mắt. Lão Đoàn: - Ông còn liệt kê được những người buôn bán ở chợ phiên năm xưa, từ đầu đông sang đầu tây không? Đành rằng đầu óc lão Dượng còn tỉnh táo, nhưng đã 40 năm trôi qua, lão cũng đã quên hơn nửa những người bạn cùng buôn bán với lão dạo ấy. Lão xòe bàn tay đếm, đến người thứ năm là chịu. Nhưng lão vẫn nhớ đến lão Khổng bản bánh nướng nhân thịt lừa và lão Đậu bán súp cay và thuốc lá sợi lắm, bèn nhảy cóc qua rất nhiều người, đến thẳng đến hai lão ấy. - Lão Khổng nói năng nhỏ nhẹ. Lão Đậu thì tính tình nóng nảy. Hồi ấy, lão ta còn đá rách cả trống của tôi. Nhưng đời nào tôi chịu thua, tôi cũng đạp một phát vào quầy hàng của lão, làm súp cay đổ lênh láng xuống đất. Lão Đoàn: - Ông còn nhớ lão Đổng ở Đổng Gia Trang làm nghề thiến lợn không? Ngoài thiến lợn ra, lão ta còn vá nồi thuê ấy. Lão Dương chau mày nghĩ ngợi, không nhớ ra lão Đổng vừa thiến lợn, vừa và nổi thuê. Lão Đoàn: - Thế còn lão Ngụy ở Ngụy Gia Trang? Ở mé ngoài cùng phía tây chợ phiên, bán gừng tươi, hay cười tủm ấy. Chốc lão ta lại tủm tỉm, chốc lại tủm tỉm. Chẳng biết cười cái gì. Lão Dương vẫn chẳng nhớ ra nổi. Lão Đoàn: - Thế còn lão Mã ở Mã Gia Trang làm nghề đánh xe ngựa, chắc ông vẫn nhớ chứ hả? Lão Dương thở phào: - Lão ấy thì tôi nhớ chứ sao không. Chết hơn hai năm rồi. Lão Đoàn cười: - Năm xưa, lúc nào ông cũng chỉ có lão Mã, chẳng thèm để ý đến ai. Nhưng ông đâu biết rằng, ông coi người ta là bạn, nhưng người ta toàn bỡn cợt ông đằng sau lưng. Lão Dương vội chuyển đề tài: - Chuyện bao năm rồi, mà ông vẫn nhớ à. Lão Đoàn: - Tôi không nói đến chuyện ấy, mà nói đến cái lý. Kẻ chẳng coi ông là bạn, thì ông cứ săn đón người ta cả đời, còn người coi ông là bạn, thì ông lại chẳng xem vào đầu. Hồi ấy, người trên chợ đều bực mình chuyện ông gõ trống, mỗi tôi là thích nghe. Để được nghe tiếng trống, tôi đã mua không biết bao nhiêu là mỳ nguội của ông. Có bận, muốn lân la đôi ba câu với ông, nhưng ông có thèm bắt chuyện đâu. Lão Dương vội nói: - Làm gì có chuyện ấy. Lão Đoàn phẩy tay: - Đấy, ông xem. Đến bây giờ ông vẫn còn chưa coi tôi là bạn. Hôm nay tôi đến đây là muốn hỏi ông một câu. - Ông hỏi gì? - Sống cả đời rồi. Ông có được một người nào đáng tấm bạn không? Lại nói: - Trước đây chưa nghĩ ra. Nhưng bây giờ, nằm trên giường thế này, chắc hẳn ông đã thông rồi chứ hả? Lúc ấy, lão Dương mới hiểu. Thì ra, sau 40 năm, tay Đoàn thấy mình nằm liệt giường, còn chân tay hắn vẫn nhanh nhẹn, nên tìm đến để trả thù. Lão Dương nhổ nước miếng: - Ông Đoàn, khi xưa tôi đã không nhìn lầm ông. Ông là đồ tồi. Lão Đoàn cười, bỏ đi. Lão ta đi rồi, lão Dương vẫn còn nằm trên giường mắng chửi lão. Con trai cả Dương Bách Nghiệp đi vào, ông ta là anh của Dương Bách Thuận, tuổi đã ngoài 50. Hồi nhỏ, Dương Bách Nghiệp đần độn, toàn bị lão Dương đánh. Sau hơn 40 năm, lão Dương nằm liệt giường, ông ta trở thành chủ gia đinh. Lão Dương giờ có muốn động chân động tay, cũng phải nhìn sắc mặt ông con cả. Bách Nghiệp tiếp tục đề tài của lão Đoàn, hỏi: - Lão Mã đánh xe ngựa. Ông bán đậu phụ. Hai người chẳng dây mơ rễ má gì với nhau. Hồi ấy, người ta chẳng coi ông là người, cớ sao ông lại cứ phải săn đón làm bạn với lão ta? Không hiểu ông có lý do gì? Lão Dương dám nổi nóng với lão Đoàn, nhưng không dám nổi nóng với Bách Nghiệp. Ông ta hỏi câu gì, lão phải trả lời câu ấy. Đành thôi chửi lão Đoàn, than: - Có chứ. Nếu không, bố cũng cóc sợ cái lão ấy. Bách Nghiệp: - Ông ăn chặn của lão ta thứ gì à? Hay có quả phốt nào bị lão ta bắt thóp? Lão Dương: “Giả có ăn chặn hay bị phốt thì lão ấy cũng chẳng bắt thóp được bố. Kiếp sau, không chơi bời, qua lại với lão ấy là được chứ gì. Chẳng là, ngay lần đầu tiên chạm nhau, bố đã bị lão ấy át vía. Bách Nghiệp: - Át thế nào? Lão Dương: - Lần đầu bố gặp lão ấy là ở phiên chợ bán gia súc. Lão ấy đi chợ mua ngựa, còn bố bán lừa. Cả bọn tán gẫu với nhau. Cùng một câu chuyện, nhưng bố chỉ có thể nhìn được một dặm, còn lão ấy thì nhìn được mười dặm. Bố chỉ nhìn được một tháng, nhưng lão ấy có thể nhìn được tới mười năm. Cuối cùng, bố không bán được lừa. Về khoản lời lẽ, bố bị lão Mã át vía. Lại lắc đầu: - Việc không bắt người, nhưng lời bắt người. Lại nói: - Sau này, hễ gặp việc gì, bố đều tìm lão ấy để bàn bạc. Bách Nghiệp: - Con hiểu rồi, vẫn là ông muốn ăn chặn người khác. Gặp việc, không tự mình quyết định được, muốn mượn thêm đôi mắt của người khác cho tinh tường. Nhưng con vẫn không hiểu, lão ấy đã không coi ông ra gì, nhưng sao vẫn cứ qua lại với ông nhỉ? Lão Dương: - Trong chu vi trăm dặm, tìm đâu ra người có thể nhìn được mười dặm, nhìn thấu một năm? Lão Mã cả đời cũng chẳng có bạn. Lại cảm thán: - Đời lão Mã không nên đánh xe ngựa. Bách Nghiệp: - Không đánh xe ngựa thì làm gì? Lão Dương: - Lão Giả mù thầy bói đã xem cho lão ấy, bảo đáng ra lão ấy phải là đám Trần Thắng, Ngô Quảng ấy, nhưng lão không có gan, trời vừa tối là đố dám ra khỏi nhà. Thực ra, cả đời lão ấy đánh xe ngựa, nhưng cũng chẳng đâu vào đâu. Đánh xe ngựa mà không dám đánh xe đi ban đêm, để lỡ biết bao nhiêu là việc! Rồi nổi giận: - Nhát như chuột nhắt mà dám coi thường tao à? Mẹ kiếp, có tao coi thường lão ấy thì có! Cả đời không coi tao là bạn à? Có mà tao không coi lão ấy là bạn thì có! Bách Nghiệp gật gù. Gã hiểu rằng, hai lão ấy phải là bạn của nhau suốt đời. Đã đến giờ ăn trưa. Hôm ấy là ngày Rằm tháng Tám, bữa trưa ăn bánh bột mỳ rán, canh rau hầm thịt. Bánh bột mỳ rán là món lão Dương khoái khẩu nhất. Nhưng hơn 60 tuổi, răng rụng quá nửa, không nhai nổi, phải có thêm món canh rau hầm thịt. Rau và thịt được đun lâu, rau nhừ, thịt cũng nhừ, nước canh nóng bỏng. Xé bánh thả vào nước rau hầm thịt, ngâm đến độ bánh vừa cho vào miệng là đã tan ra. Hồi lão Dương còn trẻ, vào dịp lễ tết đều ăn bánh bột mỳ rán. Nhưng sau khi lão bị liệt giường, chuyện có được ăn hay không, lão không quyết được. Vốn dĩ, Bách Nghiệp đã quyết định bữa trưa sẽ ăn món bánh bột mỳ rán và canh rau hầm thịt. Nhưng lão Dương lại tưởng vì vừa rồi mình nói thật, nên Bách Nghiệp mới cho ăn, coi như phần thưởng. Ăn một bữa bánh mà lão Dương mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Trong hơi nóng của bát canh rau hầm thịt, lão ngẩng mặt lên, cười lấy lòng cậu con cả, ý bảo: - Lần sau anh hỏi gì, bố cũng sẽ nói thật. Mời các bạn đón đọc Một Câu Chọi Vạn Câu của tác giả Lưu Chấn Vân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cây Cam Ngọt Của Tôi
“Vị chua chát của cái nghèo hòa trộn với vị ngọt ngào khi khám phá ra những điều khiến cuộc đời này đáng số một tác phẩm kinh điển của Brazil.” - Booklist “Một cách nhìn cuộc sống gần như hoàn chỉnh từ con mắt trẻ thơ… có sức mạnh sưởi ấm và làm tan nát cõi lòng, dù người đọc ở lứa tuổi nào.” - The National Hãy làm quen với Zezé, cậu bé tinh nghịch siêu hạng đồng thời cũng đáng yêu bậc nhất, với ước mơ lớn lên trở thành nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Chẳng phải ai cũng công nhận khoản “đáng yêu” kia đâu nhé. Bởi vì, ở cái xóm ngoại ô nghèo ấy, nỗi khắc khổ bủa vây đã che mờ mắt người ta trước trái tim thiện lương cùng trí tưởng tượng tuyệt vời của cậu bé con năm tuổi. Có hề gì đâu bao nhiêu là hắt hủi, đánh mắng, vì Zezé đã có một người bạn đặc biệt để trút nỗi lòng: cây cam ngọt nơi vườn sau. Và cả một người bạn nữa, bằng xương bằng thịt, một ngày kia xuất hiện, cho cậu bé nhạy cảm khôn sớm biết thế nào là trìu mến, thế nào là nỗi đau, và mãi mãi thay đổi cuộc đời cậu. Mở đầu bằng những thanh âm trong sáng và kết thúc lắng lại trong những nốt trầm hoài niệm, Cây cam ngọt của tôi khiến ta nhận ra vẻ đẹp thực sự của cuộc sống đến từ những điều giản dị như bông hoa trắng của cái cây sau nhà, và rằng cuộc đời thật khốn khổ nếu thiếu đi lòng yêu thương và niềm trắc ẩn. Cuốn sách kinh điển này bởi thế không ngừng khiến trái tim người đọc khắp thế giới thổn thức, kể từ khi ra mắt lần đầu năm 1968 tại Brazil. *** Tóm tắt Cây cam ngọt của tôi là câu chuyện về cậu bé Zezé, một cậu bé 5 tuổi thông minh, tinh nghịch và đáng yêu, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo đông con ở vùng ngoại ô Rio de Janeiro, Brazil. Cậu bé có ước mơ trở thành một nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Cuộc sống của Zezé không hề dễ dàng. Cậu phải chịu đựng sự hắt hủi, đánh mắng của cha mẹ và anh chị em. Cậu cũng phải đối mặt với những khó khăn của cuộc sống nghèo khó. Tuy nhiên, Zezé vẫn giữ được trái tim trong sáng và trí tưởng tượng phong phú. Cậu bé tìm thấy một người bạn đặc biệt, đó là cây cam ngọt trong vườn sau nhà. Cậu bé thường tâm sự với cây cam về những niềm vui, nỗi buồn của mình. Cây cam ngọt cũng trở thành nguồn động viên, khích lệ cậu bé trong cuộc sống. Một ngày kia, Zezé gặp gỡ một người bạn mới, đó là Lọ Lem. Lọ Lem là một cậu bé mồ côi, sống lang thang trên đường phố. Lọ Lem đã giúp Zezé khám phá thế giới bên ngoài và dạy cậu bé cách yêu thương. Cuộc sống của Zezé đã thay đổi mãi mãi sau khi cậu gặp Lọ Lem. Cậu bé học được cách đối mặt với những khó khăn và vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Cậu cũng học được cách yêu thương và trân trọng những người xung quanh. Đánh giá Cây cam ngọt của tôi là một cuốn sách hay và ý nghĩa. Cuốn sách đã khắc họa chân thực cuộc sống của những đứa trẻ nghèo ở Brazil. Cuốn sách cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý nghĩa của cuộc sống. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng lại vô cùng sâu sắc và cảm động. Cuốn sách đã chạm đến trái tim của hàng triệu người đọc trên khắp thế giới. Điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật được xây dựng chân thực, gần gũi Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nhưng lại vô cùng sâu sắc và cảm động Thông điệp ý nghĩa về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý nghĩa của cuộc sống Kết luận Cây cam ngọt của tôi là một cuốn sách hay và ý nghĩa. Cuốn sách là một món quà tinh thần quý giá dành cho tất cả mọi người. *** Nếu Hảo hán nơi trảng cát của Jorge Amado (1912 - 2002) là cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi ở Salvador thì Cây cam ngọt của tôi là cuộc đời của những con người trong khu xóm nghèo ở thủ đô Rio de Janeiro. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ lần đầu tiên cậu bé Zezé bước vào văn chương và ở lại đó cùng với cây cam ngọt ngào lẫn đắng chát của mình, độc giả tiếp tục khóc cười với cuốn tiểu thuyết thành công nhất của nhà văn José Mauro de Vasconcelos (1920 - 1984) - Cây cam ngọt của tôi (Nguyễn Bích Lan - Tô Yến Ly dịch, Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà Văn). Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1968 ở Brazil, khi cơn sốt văn chương châu Mỹ Latin đang lan dần ra toàn thế giới. Nếu Hảo hán nơi trảng cát của Jorge Amado (1912 - 2002) là cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi ở Salvador thì Cây cam ngọt của tôi là cuộc đời của những con người trong khu xóm nghèo ở thủ đô Rio de Janeiro. Ở đó, những người lớn tất tả trong cuộc mưu sinh bỏ quên chú bé Zezé nghịch ngợm chật vật trong thế giới tuổi thơ của mình. Trước một thế giới ảm đạm buồn chán, Zezé phải bày đủ trò quậy phá đến mức bị đòn roi. Zezé lấy trí tưởng tượng để làm vũ khí chống lại thế giới người lớn quay cuồng trong tiền bạc nhưng thiếu vắng hạnh phúc và ước mơ. Cậu đặt tên cho cây cam trong vườn là Minguinho và như hai người bạn, chúng trò chuyện với nhau, cùng nhau bước qua một tuổi thơ khốn khó nhưng không tuyệt vọng. Câu chuyện đơn giản nhuốm màu sắc tự truyện vẫn khiến cuốn sách gặt hái được thành công quốc tế, trở thành một tác phẩm mang tính giáo dục cao, dẫu tác giả không tuyên ngôn dưới bất kỳ hình thức nào. Tác phẩm được đưa vào chương trình tiểu học, chuyển thể thành phim và cách đây không lâu trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho một ngôi sao K-pop. Thời đại bất an mà nhà văn sống là thời đại của những nhà độc tài, những cuộc cách mạng, nội chiến liên miên. Cho nên tác phẩm không chỉ là hành trình hướng thiện của một đứa trẻ mà còn là cuộc chiến thu nhỏ diễn ra ở chốn tận cùng, nơi con ngư *** Tác giả: JOSÉ MAURO DE VASCONCELOS (1920-1984) là nhà văn người Brazil. Sinh ra trong một gia đình nghèo ở ngoại ô Rio de Janeiro, lớn lên ông phải làm đủ nghề để kiếm sống. Nhưng với tài kể chuyện thiên bẩm, trí nhớ phi thường, trí tưởng tượng tuyệt vời cùng vốn sống phong phú, José cảm thấy trong mình thôi thúc phải trở thành nhà văn nên đã bắt đầu sáng tác năm 22 tuổi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết mang màu sắc tự truyện Cây cam ngọt của tôi. Cuốn sách được đưa vào chương trình tiểu học của Brazil, được bán bản quyền cho hai mươi quốc gia và chuyển thể thành phim điện ảnh. Ngoài ra, José còn rất thành công trong vai trò diễn viên điện ảnh và biên kịch. *** Chúng tôi đi xuống phố, tay trong tay, chẳng có gì phải vội. Totoca đang dạy tôi về cuộc sống. Và điều đó khiến tôi thực sự hạnh phúc, được anh trai nắm tay và dạy nhiều điều. Nhưng là dạy về những điều thuộc thế giới bên ngoài. Bởi vì ở nhà, tôi học hỏi bằng cách tự mày mò khám phá và tự làm, tôi mắc lỗi nhiều và vì mắc lỗi, tôi thường bị ăn đòn. Cho tới tận trước đây không lâu, tôi vẫn chưa bị ai đánh bao giờ. Nhưng rồi mọi người nghe được chuyện này, chuyện nọ và bắt đầu nói tôi là quỷ, là quái vật, là tiểu yêu tóc hung. Tôi không muốn biết về điều đó. Nếu không phải đang ở bên ngoài thì tôi đã bắt đầu hát. Hát thú vị lắm. Ngoài ca hát, Totoca còn biết làm điều khác nữa: anh có thể huýt sáo. Nhưng dù cố gắng đến mức nào tôi cũng chẳng thể bắt chước anh huýt sáo được, chẳng âm thanh nào bật ra cả. Để an ủi tôi, anh bảo chuyện đó cũng bình thường thôi, rằng tôi chưa có cái miệng của người huýt sáo. Nhưng vì không thể hát thành lời, tôi hát thầm ở trong lòng. Thoạt đầu điều đó thật kỳ cục, nhưng về sau tôi cảm thấy hát như thế thực sự thú vị. Và lúc này, tôi đang nhớ lại một bài hát mẹ thường hát khi tôi còn bé xíu. Mẹ đứng bên chậu giặt, mảnh khăn buộc quanh đầu để che nắng. Với chiếc tạp dề ôm quanh thắt lưng, mẹ đứng đó hết giờ này đến giờ khác, dầm tay trong nước, khiến xà phòng nổi cơ man nào là bọt. Sau đó mẹ vắt kiệt nước khỏi quần áo và đem ra dây, phơi lên, kẹp lại và kéo chiếc dây phơi lên cao. Mẹ làm thế với tất cả quần áo. Mẹ giặt thuê cho nhà bác sĩ Faulhaber để kiếm thêm chút ít giúp trang trải chi phí sinh hoạt. Mẹ cao, gầy, nhưng rất đẹp. Da mẹ rám nắng, tóc thẳng và đen. Khi mẹ không cột tóc lên, tóc mẹ xõa đến tận thắt lưng. Nhưng tuyệt nhất là khi mẹ hát, và tôi hay quanh quẩn bên mẹ học lỏm. Chàng thủy thủ ơi, chàng thủy thủ ơi Chàng thủy thủ của nỗi buồn ơi Vì chàng Ngày mai em sẽ chết... Những con sóng xô bờ Quăng mình lên bờ cát Chàng ra khơi rồi Chàng thủy thủ ơi... Tình yêu của chàng Chẳng được nổi một ngày Tàu nhổ neo rồi Tàu ra khơi... Những con sóng xô bờ... Bài hát đó luôn khiến lòng tôi dâng trào một nỗi buồn khó hiểu. Totoca giật tay tôi. Tôi bừng tỉnh. “Sao thế Zezé?” “Không sao ạ. Em đang hát thôi mà.” “Hát ư?” “Vâng.” “Vậy chắc anh điếc rồi.” Anh ấy không biết con người ta có thể hát thầm ư? Tôi im lặng. Nếu anh không biết thì tôi cũng chẳng định dạy anh đâu. Chúng tôi đã tới lề đường quốc lộ Rio-São Paulo. Trên đường quốc lộ, có đủ mọi loại xe. Xe tải, xe con, xe ngựa, xe đạp. “Này,Zezé, chuyện quan trọng đây này. Trước hết chúng ta phải quan sát thật kỹ một chiều, sau đó nhìn chiều kia. Bây giờ sang đường nào.” Chúng tôi chạy sang đường. “Em có sợ không?” Tôi sợ, nhưng tôi lắc đầu. “Chúng mình cùng làm lại nào. Sau đó anh muốn xem em đã biết cách hay chưa.” Chúng tôi chạy trở lại phía bên kia đường. “Bây giờ em sang đường đi. Đừng ngập ngừng, bởi vì em lớn rồi mà.” Tim tôi đập nhanh hơn. “Nào. Sang đi.” Tôi chạy sang đường, gần như nín thở. Tôi đợi một chút và anh ra hiệu cho tôi quay trở về chỗ anh. “Lần đầu mà làm được thế là tốt đấy. Nhưng em đã quên một điều. Em phải nhìn cả hai phía xem có xe đang chạy tới không. Không phải lúc nào anh cũng có mặt ở đây để ra hiệu cho em đâu. Chúng ta sẽ thực hành thêm trên đường về nhà nhé. Nhưng giờ thì đi thôi, vì anh muốn chỉ cho em một thứ.” Anh cầm tay tôi và chúng tôi lại bắt đầu bước đi, thong thả. Tôi không cách nào thôi nghĩ về một cuộc trò chuyện cách đây ít lâu. "Totoca." “Gì cơ?” “Anh đã cảm nhận được tuổi chín chắn chưa?” “Thứ vớ vẩn gì vậy?” “Bác Edmundo nói đấy. Bác nói em khôn trước tuổi và rằng chẳng bao lâu nữa em sẽ đến tuổi chín chắn. Nhưng em chẳng cảm thấy có gì khác cả.” “Bác Edmundo bị ngớ ngẩn đấy. Bác ấy luôn nhồi những thứ vớ vẩn vào đầu em.” “Bác ấy không ngớ ngẩn đâu. Bác ấy khôn ngoan đấy chứ. Và khi lớn lên em muốn trở nên khôn ngoan, thành nhà thơ và thắt nơ bướm. Một ngày nào đó em sẽ được chụp ảnh chân dung thắt nơ hẳn hoi.” “Tại sao lại thắt nơ?” “Bởi vì anh không thể trở thành nhà thơ nếu không thắt nơ. Khi bác Edmundo cho em xem ảnh các nhà thơ trong cuốn tạp chí đó, em thấy ai cũng thắt nơ cả.” “Zezé, em phải thôi đi, đừng tin mọi điều bác ấy nói với em nữa. Bác Edmundo hơi biêng biêng đấy. Bác ấy còn hơi xạo nữa.” “Bác ấy là đồ chó đẻ ư?” “Em đã bị tát lệch mặt vì nói bậy quá nhiều mà chưa chừa à! Bác Edmundo không như vậy. Anh nói biêng biệng cơ mà. Nghĩa là hơi hâm hâm.” “Anh bảo bác ấy là kẻ nói xạo mà.” “Đó là hai chuyện hoàn toàn khác.” “Không, có khác gì đâu. Hôm nọ cha kể về ông Labonne với bác Severino, bạn chơi bài của cha, và cha nói, “Lão chó đẻ ấy là một kẻ nói xạo trời đánh thánh vật.” Và chẳng ai tát chả lệch mặt cả.” “Người lớn nói thế thì không sao.” Chúng tôi không nói gì trong vài phút. “Bác Edmundo không... Mà biêng biêng có nghĩa là gì, anh Totoca?” Anh giơ ngón tay chỉ lên đầu, quay quay ngón tay vẽ thành những vòng tròn trong không khí. “Không, bác ấy không phải vậy. Bác ấy tốt lắm. Bác ấy dạy em nhiều điều, và chỉ đánh em có mỗi một lần, lại còn chẳng đánh mạnh nữa.” Totoca giật mình. “Bác ấy đánh em à? Khi nào?” “Khi em hư thật và bị Gloria tống đến nhà bà. Bác ấy muốn đọc báo nhưng không tìm thấy kính. Bác tìm hết chỗ cao đến chỗ thấp và nổi điên thực sự. Bác hỏi bà kính của bác ở đâu nhưng bà không biết. Hai người lục tung cả nhà lên để tìm. Thế rồi em nói em biết kính của bác ở đâu và nếu bác cho em ít tiền để mua bi thì em sẽ nói cho bác biết. Bác đi đến chỗ để áo khoác và lấy ra một ít tiền. “Mang kính ra đây thì bác đưa tiền cho mày.” “Em đến chỗ rương đựng quần áo lấy cái kính ra. Bác nói, Ra là mày, đồ ranh con!” Bác phát vào lưng em và cất béng tiền đi.” Totoca cười phá lên. “Em đến đó để khỏi bị ăn đòn ở nhà thế mà lại bị đánh ở đó. Đi nhanh chân lên một chút, nếu không chúng ta sẽ chẳng bao giờ đến nơi được đâu.” Tôi vẫn đang nghĩ về bác Edmundo. “Totoca, trẻ con nghỉ hưu phải không?” “Gì cơ?” “Bác Edmundo chẳng làm gì cả mà vẫn có tiền. Bác không làm việc, nhưng Tòa Thị chính vẫn trả tiền cho bác hằng tháng.” “Thì sao?” “À thì, trẻ con chẳng làm gì. Trẻ con ăn, ngủ và được cha mẹ cho tiền.” “Nghỉ hưu khác chứ, Zezé. Người nghỉ hưu đã làm việc trong một thời gian dài rồi, tóc đã ngả bạc, chân chậm mắt mờ như bác Edmundo rồi. Nhưng đừng nghĩ về những thứ khó nhằn ấy nữa. Nếu em muốn học nhiều điều từ bác ấy thì tốt thôi. Nhưng khi đi với anh thì không nhé. Hãy cư xử như những đứa con trai khác. Em thậm chí có thể chửi thề, nhưng đừng nhét đầy đầu những thứ khó nhằn. Nếu không anh sẽ không đi chơi với em nữa đâu.” Tôi xị mặt xuống và không muốn nói chuyện nữa. Tôi cũng chẳng muốn hát. Chú chim nhỏ ca hát bên trong tôi đã bay mất rồi. Chúng tôi dừng lại và Totoca chỉ tay về phía ngôi nhà. “Nó đấy. Thích không?” Đó là một ngôi nhà bình thường. Màu trắng với những ô cửa sổ màu xanh dương. Toàn bộ cửa nẻo đều đóng im ỉm và im ắng như tờ. “Có ạ. Nhưng tại sao chúng ta phải chuyển đến đây chứ?” “Thay đổi cũng tốt mà.” Chúng tôi đứng trông qua hàng rào, nhìn cây xoài phía bên này và cây me ở phía bên kia. “Em là đứa hay chạy lăng xăng, nhưng em không biết nhà mình đang có chuyện gì đâu. Cha thất nghiệp rồi, đúng không? Đã sáu tháng kể từ khi cha choảng nhau với ông Scottfield và bị đuổi việc. Em có biết bây giờ Lala đang làm việc ở nhà máy không? Còn mẹ thì sắp đi làm ở thành phố, trong xưởng English Mill đấy, biết không? Giờ thì em biết rồi đấy, đồ ngốc ạ. Ở cái nhà mới này, ta sẽ tiết kiệm được tiền thuê nhà... Cái nhà kia thì cha nợ tám tháng tiền thuê nhà rồi. Em còn quá nhỏ nên không phải lo lắng về những chuyện buồn như thế. Nhưng anh sẽ phải giúp thật lực, xắn tay vào hỗ trợ việc nhà.” Anh đứng im lặng một lát. “Totoca, họ sẽ mang con báo đen và hai con sư tử cái tới đây chứ?” “Dĩ nhiên. Và lão gia nhân này sẽ phải tháo dỡ cái chuồng gà.” Anh nhìn tôi bằng ánh mắt thương xót, trìu mến. “Anh chính là người sẽ dỡ vườn thú và lắp ghép nó lại ở đây.” Tôi thở phào. Bởi vì nếu không tôi sẽ phải kiếm thứ gì đó mới mẻ để chơi với em trai út Luis của tôi. “Em đã thấy anh là người bạn như thế nào của em rồi, đúng không Zezé? Này, em sẽ chẳng mất mát gì nếu nói cho anh biết em đã làm chuyện đó như thế nào...” “Totoca, em thề là em không biết. Em thực sự không biết.” “Em nói dối. Ai đó đã dạy em học.” “Em chẳng học gì cả. Chẳng ai dạy em hết. Trừ phi quỷ sứ dạy em trong giấc ngủ. Jandira nói quỷ sứ là cha đỡ đầu của em.” Totoca bối rối. Anh thậm chí còn cốc đầu tôi mấy cái, cố bắt tôi phải nói cho anh biết. Nhưng tôi không biết mình đã làm được chuyện đó như thế nào. “Chẳng ai tự học cái đó được.” Nhưng anh không biết phải nói gì bởi vì chẳng ai thực sự nhìn thấy người nào dạy tôi học gì hết. Đó là một bí ẩn. Mời các bạn đón đọc Cây Cam Ngọt Của Tôi của tác giả José Mauro de Vasconcelos & Nguyễn Bích Lan (dịch) & Tô Yến Ly (dịch).
Cách Mạng Kiến
1 + 1 = 3? Khó tin nhưng có thật!!! Lũ kiến có thể thèm muốn gì ở chúng ta? Hài hước, tình yêu và nghệ thuật. Con người có thể thèm muốn gì ở lũ kiến? Sự hòa hợp với thiên nhiên, không biết sợ hãi và trao đổi tuyệt đối. Không hề biết nhau, Julie Pinson, một nữ sinh nổi loạn, và 103, kiến thám hiểm, gắng thử làm một cuộc cách mạng trong thế giới riêng của mình để đưa xã hội tiến hóa hơn. Kiến là cuốn sách cầu nối, Ngày của Kiến là cuốn về đối đầu còn Cách mạng Kiến là cuốn sách để hiểu nhau. Nhưng vượt lên trên chủ đề kiến, đó là cuộc cách mạng của con người, cuộc cách mạng phi bạo lực, hình thành từ những ý tưởng mới mẻ mà Bernard Werber đề xuất với chúng ta. Chú ý: bạn không bắt buộc phải đọc những cuốn khác để hiểu toàn bộ câu chuyện. Và tại sao 1 + 1 = 3? Độc giả, hãy đọc cuốn sách và bạn sẽ hiểu! Hồi hộp hấp dẫn hơn cả Harry Potter, đó chính là Werber!!!!!!!!!!!!! *** Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. Mời các bạn đón đọc Cách Mạng Kiến của tác giả Bernard Werber & Thi Hoa (dịch).
Người Vợ Cô Đơn
Một người đã bước vào cuộc đời nàng, nhờ đó tất cả những gì đối với nàng đều thấy vô nghĩa; một người mà không ai trong chỗ bạn hữu có quen biết; một nhân vật rất tầm thường, rất ít ai biết, nhưng toàn thể cuộc đời của Têre chạy quanh vừng mặt trời chỉ riêng mắt nàng nhìn thấy, và riêng xác thịt nàng biết vị ấm nóng. Pari xào xạc như gió hú trong ngọn thông. Thân thể đó đè lên thân thể nàng, dù nhẹ đến đâu cũng làm cho nàng ngừng thở. *** Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. Mời các bạn đón đọc Người Vợ Cô Đơn của tác giả François Mauriac & Mặc Đỗ (dịch).
Cuộc Tình Buồn
Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. *** Yêu nhau, cả hai cũng nhìn về một hướng. Trong tình yêu chân chính không thể có sự áp đặt bởi một mãnh lực nào, càng không thể đòi hỏi trong tình yêu phải có sự trả giá bằng sự hẹp hòi, ích kỷ, quyền lợi và danh vọng... Thế nhưng, quan niệm “môn đăng hộ đối” của xã hội phong kiến đã khiến cho tình yêu chân chính bị lệch ngả, sai đường. Thérèse, một cô gái sống trong một tỉnh lẻ, có phẩm hạnh và có học thức, đã chấp nhận thành hôn với chàng trai láng giềng không phải vì tình yêu, mà vì sự gán ghép của họ hàng làng xóm theo quan niệm “môn đăng hộ đối” vô cũng nghiệt ngã, và cũng vì cha cô, một người đàn ông góa vợ muốn khỏi vướng bận vì có con gái. Bản thân cô muốn cơ nghiệp bền vững và gia tăng gấp bội... Và cũng do chính mình biếng lười đấu tranh, chấp nhận số phận như một an bài cho cuộc đời xuôi chèo mát mái, Thérèse đã phải sai lầm. Ngay sau ngày cưới, Thérèse thất vọng vì cảnh sống khuôn phép, gò bó nơi gia đình chồng, và nàng đã phải chịu đựng những tháng ngày tẻ nhạt và vô vị bên người mình không yêu. Trớ trên thay, Thérèse lại được cha mẹ chồng tin cẩn, giao cho nhiệm vụ lôi kéo cô em chồng “về với lẽ phải”, nghĩa là “phải chấp nhận sự xếp đặt hôn nhân do chính gia đình lựa chọn”! Cô em chồng buộc phải từ bỏ người mà có ấy yêu say mê tha thiết, Jean Azévédo, để lấy con trai nhà Deguzlhem. Cô gái thề bảo vệ tình yêu cho đến chết, và cô tuyên bố nhận chịu sự phán xử của chị dâu mình. Thérèse bị đặt trước tình huống nan giải: lẽ nào bắt cô em chồng đáng thương kia phải đi theo con đường buồn chán khổ đau như hiện thân của mình trong gia đình chồng hiện tại. Chính hàng đang khao khát có được mối tình say mê nồng nhiệt như cô em chồng mà không sao có được! Cuối cùng, bởi nhiệm vụ nặng nề thúc bách, Thérèse buộc phải tìm đến gặp chàng trai đề mong thuyết phục anh ta buông thả, trả em mình về với gia đình. Ðiều bất ngờ đến thảng thốt, nàng đã khám phá ra rằng, chàng trai nọ không hề có tình yêu chân chính với em mình, và... hạnh phúc là điều không có thật! Thérèse hoàn toàn thất vọng và nàng muốn thoát khỏi kiếp sống vô vị, ảo vọng đã ràng buộc nàng bởi quan niệm gia đình không tạo bằng tình yêu chân chính. Không biết vô tình hay cố ý, Thérèse đã cho chồng uống thuốc quá liều, nhưng may thay chồng nàng thoát chết. “Vụ đầu độc” rốt cuộc được chính gia đình bên chồng dàn xếp ổn thỏa, và ngay cả cha nàng cũng đã làm như vậy. Tất cả chỉ vì muốn bảo vệ danh dự gia đình bên chồng, cũng như để khỏi ảnh hưởng đến việc thăng quan tiến chức của cha nàng đối với xã hội... Nói chung, Thérèse cũng như những người trẻ tuổi của xã hội phong kiến, bởi ràng buộc quan niệm gia đình khắt khe, vụ lợi... đã không thể sống cho chính mình bằng một tình yêu chân chính. Phải chăng, bản thân con người thiếu sự đấu tranh, dễ dàng chấp nhận sự an bài số phận, để phải trả giá đắng cay cho chính mình, và có nên cho đó là “cuộc tình buồn”? Trong tác phẩm THÉRÈSE DESQUEYROUX, Françoise Mauriac sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó. 4-1990  NHỮNG NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Buồn của tác giả François Mauriac & Nguyễn Bích Như (dịch) & Thu Uyên (dịch).