Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỹ Năng Đi Trước Đam Mê - Cal Newport
Kỹ năng đi trước đam mê của Cal Newport đã lột trần sự thật, niềm tin từ trước đến nay rằng chúng ta cần theo đuổi đam mê của mình. Đó là sau một thời gian làm việc mọi người đều cảm thấy yêu thích công việc đó. Tác giả cho rằng, niềm tin về việc theo đuổi đam mê sẽ khiến họ sinh ra cảm giác lo lắng, nghĩ nhiều và hiện tượng nhảy việc liên miên phát sinh từ đây. Sau khi đưa ra dẫn chứng để phủ nhận niềm tin vào đam mê của nhiều bạn trẻ, Newport bắt đầu hành trình khám phá thực tế về cảm nhận sau khi làm việc không phải đam mê của mình. Kết quả thu được là tất cả đều yêu thích công việc của họ đang làm dù ban đầu thì không.   Dành thời gian tiếp xúc với những người nông dân trên trang trại, các nhà đầu tư mạo hiểm, người viết kịch bản, lập trình viên máy tính hành nghề tự do và những người cho biết mình tìm thấy cảm giác mãn nguyện từ công việc, tác giả phát hiện ra những chiến lược họ đã áp dụng, cạm bẫy họ đã né tránh trong quá trình phát triển sự nghiệp hấp dẫn của mình. Theo tác giả, việc đi tìm một nghề nghiệp phù hợp với một đam mê tồn tại sẵn từ trước là không quan trọng. Đam mê đến sau khi bạn chăm chỉ làm việc để trở nên xuất sắc trong những việc có ích, chứ đam mê không đến trước. Nói cách khác, cách bạn làm việc quan trọng hơn nhiều so với công việc bạn làm. Trong cuốn sách, tác giả đưa ra các dẫn chứng thực tế, quen thuộc khiến bạn đọc dễ hiểu hơn. Đó là việc lấy các nhân vật nổi tiếng như Steve Jobs đến những người đời thường: nhà khảo cổ học kiếm được bộn tiền từ chương trình nghe chừng rất "vô vị", nhà viết kịch bản vô danh trở thành người sản xuất các chương trình hàng đầu tại Hollywood, hay một sinh viên mới ra trường và con đường trở thành chủ một nông trại lớn nhất tiểu bang... Qua các câu chuyện thực tế đó, tác giả minh chứng được một điều rằng: "Tư duy thợ lành nghề mới là thứ giúp chúng ta hái ra tiền chứ không phải đam mê đơn thuần".  Có thể khẳng định, nội dung trong cuốn sách này đi ngược lại so với hầu hết sách khác cùng chủ đề. Thay vì cách suy nghĩ tìm việc đúng thì tác giả cho rằng nên làm đúng việc. Đó là tư duy thợ lành nghề, hãy làm hết sức mình bạn sẽ trở nên hạnh phúc với công việc của mình. Nếu bạn cảm thấy bế tắc trong công việc cần phải nỗ lực học hỏi nhiều hơn, không phải suy nghĩ tiêu cực là bỏ việc. Chúng ta cần làm việc hết sức mình để trở thành người giỏi nhất trong công việc đó. Khi đó, bạn sẽ tìm thấy được niềm đam mê trong công việc, hạnh phúc của cuộc sống. Kỹ năng đi trước đam mê sẽ như một cú đả phá rất mạnh vào cách nghĩ của nhiều người là "đi theo tiếng gọi của đam mê". Cuốn sách khiến bạn ngộ ra rằng không phải cứ đi theo đam mê một cách đơn thuần là bạn sẽ thành công. *** Niềm đam mê của một thầy tu “Hãy theo đuổi đam mê là một lời khuyên nguy hiểm” Thomas nhận ra điều này tại một trong những nơi mà bạn khó tin nhất. Lúc đó anh đang đi bộ trên con đường mòn qua cánh rừng sồi phía nam núi Tremper. Con đường này là một trong những con đường băng qua địa phận rộng 93 héc-ta của Tu viện Zen Moutain ẩn mình dưới dãy núi Catskill từ những năm 1980. Thomas đã đi được nửa chặng đường của qua trình hai năm tu tập tại tu viện để trở thành một thầy tu. Một năm trước anh đến đó vì công việc mơ ước mà anh đã ấp ủ nhiều năm. Anh dồn mọi đam mê tâm huyết vào việc tập thiền tại vùng núi Catskill hẻo lánh này và hi vọng rằng mình sẽ tìm được hạnh phúc. Nhưng khi Thomas đúng dưới gốc cây sồi vào chiều hôm ấy, anh bật khóc và những mộng tưởng bắt đầu sụp đổ . “Tôi luôn tự hỏi, cuộc sống này có ý nghĩa gì?” Thomas nói khi lần đầu tôi gặp anh ấy tại một quán cà phê ở Cambrige, Massachusetts. Lúc đó, đã nhiều năm trôi qua kể từ khi Thoamas nhận ra được vấn đề ở Catskill, nhưng anh vẫn nhớ rõ con đường dẫn đến nhận thức đó, và anh hào hứng kể về nó như thể nếu kể lại thì quá khứ phức tạp của anh sẽ được trừ tà vậy. Sau khi có được bằng cử nhân triết học và thần học, sau đó là bằng thạc sĩ chuyên ngành tôn giáo so sánh, Thomas quyết định rằng việc tập Thiền Phật giáo chính la bí quyết để có được một cuộc sống ý nghĩa. “Có một điểm giao nhau rất lớn giữa triết học mà tôi đang học và Phật giáo khiến tôi nghĩ rằng ‘Mình sẽ đi thực hành về Phật giáo một cách trực tiếp để trả lời các câu hỏi lớn này,’ “anh ấy bộc bạch. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp, Thomas lại cần tiền, vì vậy anh phải làm rất nhiều công việc khác nhau. Chẳng hạn như anh đi dạy tiếng Anh tại Gumi, một thành phố công nghiệp tại trung tâm Hàn Quốc. Đối với nhiều người, cuộc sống ở vùng Đông Á có vẻ lãng mạn, tuy nhiên đối với Thomas, sự hấp dẫn này ngày càng giảm sút. “Mỗi tối thứ Sáu, sau giờ làm việc, những người đàn ông tập trung tại các xe bán hàng ngoài đường có cắm lều để uống rượu soju (một loại rượu làm từ gạo) cho đến khuya. Vào những đêm mùa đông, hơi bốc lên từ những cái lều, từ những người đàn ông uống rượu. Và điều tôi nhớ nhất chính là sáng hôm sau, đường phố đầy những bãi nôn mửa đã khô.” Cuộc tìm kiếm của Thomas cũng truyền cảm hứng cho anh đi xuyên Trung Quốc, vào Tây Tạng, dành thời gian ở Nam Phi cùng nhiều cuộc hành trình khác, trước khi kết thúc tại Luân Đôn, nơi anh làm công việc nhập dữ liệu khá tẻ nhạt. Suốt khoảng thời gian này, Thomas nuôi dưỡng niềm tin rằng Phật giáo chính là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Theo thời gian, ước mơ này của anh phát triển thành ý tưởng trở thành một tu sĩ. “Tôi đã xây dựng một ảo tưởng tuyệt vời về việc tập Thiền và cuộc sống tại tu viện,“anh bộc bạch. “Mộng tưởng này đến - để hiện thực hóa ước mơ của tôi.“Tất cả các công việc khác hoàn toàn không thể so sánh được với mộng tưởng này. Anh dồn hết tâm huyết theo đuổi đam mê đó. Thomas bắt đầu biết đến Tu viện Zen Mountain khi đang ở Luân Đôn, và anh lập tức bị hấp dẫn bởi nét nghiêm trang của nó. “Những người ở đó tập Thiền rất nghiêm túc và thành tâm,“anh nhớ lại. Niềm đam mê mách bảo anh rằng Tu viện Zen Mountain chính là nơi anh thuộc về. Thomas mất chín tháng để hoàn thành thủ tục gia nhập. Sau khi được chấp nhận đến sống và luyện tập tại thiền viện, anh đáp chuyến bay xuống sân bay Kennedy rồi bắt xe buýt đi vào vùng ngoại ô của Catskill. Chuyến đi dài ba giờ đồng hồ. Rời khỏi thành phố, xe buýt bắt đầu đi ngang qua nhiều thị trấn cổ quái, với phong cảnh “mỗi lúc một trở nên đẹp hơn.“Cuối cùng xe buýt cũng đến được chân núi Tremper, rồi nó dừng lại cho Thomas xuống. Từ trạm xe buýt, anh đi bộ dọc theo con đường dẫn tới lối vào tu viện, nơi được canh giữ bởi cánh cổng bằng sắt đang mở cho những người mới đến. Vào trong khuôn viên, Thomas đến tòa nhà chính, một nhà thờ bốn tầng được xây dựng bằng đá xanh và gỗ sồi địa phương. "Cứ như thể núi non đã hiến thân mình làm thành nơi dành cho việc luyện tập tâm linh"là cách mà các tu sĩ ở thiền viện miêu tả nó trong văn học chính thống của họ. Đẩy cánh cửa sồi bước vào, Thomas được một tu sĩ chào đón. Rất khó khăn để diễn tả cảm xúc lúc ấy, Thomas giải thích với tôi như sau, "Giống như bạn đang rất đói, và bạn biết rằng mình sẽ có một bữa ăn thịnh soạn." Cuộc sống làm thầy tu của Thomas bắt đầu khá suôn sẻ. Anh sống trong một căn nhà gỗ nhỏ được dựng trong cánh rừng phía sau tòa nhà chính. Trong lần đến thăm một thầy tu lâu năm, người đã từng sống trong căn nhà tương tự hơn 15 năm, Thomas đã hỏi ông ấy có bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi đi bộ từ nơi ở đến tòa nhà chính hay không. Vị thầy tu điềm nhiên trả lời: "Tôi chỉ mới bắt đầu học thôi." Một ngày tại Tu viện ZenMountain có thể bắt đầu sớm từ 4g30 sáng, tùy thuộc vào thời điểm trong năm. Vẫngiữ sự tĩnh lặng, các thầy tu đón chào buổi sáng bằng 40 - 80 phút ngồi thiền trên các tấm thảm được xếp với "độ chính xác hình học"tại hội trường chính. Khung cảnh bên ngoài các cửa sổ theo phong cách Gothic phía trước hội trường tuyệt đẹp, nhưng những tấm thảm quá thấp nên các thiền sư không thế nhìn thấy. Phía cuối căn phòng có hai người giám sát thỉnh thoảng đi xung quanh các tấm thảm. Thomas tay cầm một cây gậy mà họ luôn mang theo bên người để dùng vào mục đích này." Sau bữa cũng trong chính hội trường đó, tất cả mọi người được phân công nhiệm vụ. Nhiệm vụ của Thomas bao gồm dọn dẹp nhà vệ sinh và đào mương, ngoài ra anh cũng được giao phần xử lý các thiết kế đồ họa cho tạp chí của tu viện. Một ngày tiếp diễn gồm nhiều buổi thiền hơn, những cuộc phỏng vấn với các thiền sư cấp cao, và thường là các bài giảng dài dòng, khó hiểu. Các tu sĩ có một khoảng thời gian nghỉ ngơi trước bữa tối. Thomas thường tranh thủ thời gian này để đốt lò sưởi trong căn nhà gỗ của mình, chuẩn bị cho những đêm lạnh lẽo ở Catskill. Các rắc rối của Thomas bắt nguồn từ công án. Một công án, theo truyền thống của phái Thiền, là một câu đố chữ, thường được trình bày thông qua một câu chuyện hay một câu hỏi. Mục đích của nó là thách đố lại cách suy nghĩ logic, do đó buộc bạn phải sử dụng trực giác để diễn giải thực tế. Khi giải thích các khái niệm này cho tôi, Thomas đưa ra một ví dụ mà anh đã gặp: "Hãy chỉ cho tôi một cây bất động trong cơn gió lớn." "Tôi thậm chí còn không biết câu trả lời cho câu hỏi này đại loại như thế nào nữa,"tôi phản đối. "Trong một buổi phỏng vấn,"Thomas nói rõ, "anh phải trả lời ngay lập tức, không suy nghĩ. Nếu ngừng lại, họ sẽ tống anh ra khỏi phòng; cuộc phỏng vấn kết thúc." "Vậy thì tôi chắc chắn là bị đá ra ngoài rồi." "Đây là câu trả lời đã giúptôi vượt qua công án,"anh ấy nói. "Tôi đứng như  một cái cây và vẫy tay một chút như thể đang trong một cơn gí lớn. Đúng không? Vấn đề ở đây là một khái niệm anh không thế năm bằng lời. Một trong những rào cản lớn đầu tiên mà các học viên trẻ phải đối mặt tập Thiền chính là công án Mu: Vượt qua được công án này là vượt cánh cổng đầu tiên trong "tám cổng"của Thiền Phật Giáo. Nếu chưa đạt được cột mốc này, bạn vẫn chưa được xem là học viên chính thức của thiền viện. Thomas có vẻ ngần ngại giải thích về công án này tôi. Tôi đã từng gặp phải vấn đề này khi làm một cuộc nghiên cứu về phái Thiền: Bởi vì những câu đố thường đi ngược lại logic, bất kỳ nỗ lực giải thích nào cho người ngoài đều trở nên tầm thường. Chính vì vậy, tôi không ép Thomas nói chi tiết về vấn đề này mà đi tra thông tin Google. Đây là một diễn giải mà tôi tìm được: Một khách hành hương hỏi Đại Thiền sư Châu: "Loài chó có Phật tính không? "Triệu Châu trả lời, "Mu." Mu theo tiếng Trung có nghĩa là "không."Theo như lời giải thích mà tôi tìm được, Triệu Châu không trả lời câu hỏi của khách hành hương mà đẩy lại cho người hỏi. Sau hàng tháng trời căng thẳng, Thomas mới chật vật vượt qua được công án này. "Tôi suy nghĩ liên tục về công án đó, "anh ấy kể với tôi. "Tôi mang nó vào giấc ngủ, để nó chiếm hữu cơ thể mình." Rồi anh cũng giải được nó. "Một ngày, lúc đi dạo trong rừng, trong một khoảnh khắc khi tôi nhìn vào những chiếc lá, 'tôi' biến mất.Chúng ta đều trải qua những chuyện như vậy nhưng không quan tâm. Còn tôi đã có sự chuẩn bị cho trải nghiệm này. Tôi nhận ra, 'Đây chính là toàn bộ công án.' "Thomasđã có được cái nhìn về sự hợp nhất của tự nhiên vốn hình thành nên cốt lõi sựhiểu biết về thế giới của Phật giáo. Chính sự thống nhất này đã đưa ra câu trảlời cho công án. Vô cùng hào hứng, tại buổi phỏng vấn tiếp theo với tu sĩ cấp cao, Thomas đã làm một cử chỉ - "một cử chỉ đơn giản mà bạn vẫn làm thường ngày"- điều này cho thấy rõ ràng rằng anh ấy hiểu được lời giải công án một cách trực giác. Anh ấy đã vượt qua được cánh cổng thứ nhất: trở thành học viên chính thức của Thiền tông. Không lâu sau khi vượt qua công án Mu, Thomas nhận ra niềm đam mê của mình. Anh đang đi bộ trong chính khu rừng mà anh giải được công án. Với sự thấu hiểu sâu sắc sau khi vượt qua Mu, anh bắt đầu hiểu được những bài giảng khó hiểu của các thầy tu cấp cao. "Khi đi bộ trên con đường mòn, tôi nhận ra các bài giảng đều nói về những điều tương tự như công án Mu,"Thomas nói. Nói một cách khác, chính là đây. Đây chính là những gì mà cuộc sống của một Thiền sư có được: cái nhìn ngày càng sâu sắc về vấn đề cốt lõi. Thomas đã đạt đến đỉnh cao của niềm đam mê - anh đã có thể tự hào nhận mình là một học viên Thiền tông - vậy mà anh ấy vẫn không có được sự bình an và hạnh phúc mà anh từng mơ mộng. "Thực tế thì chẳng có gì thay đổi cả. Tôi vẫn là con người cũ, vẫn có những nỗi lo lắng tương tự. Tôi nhận ra điều này vào một buổi chiều Chủ nhật, và tôi bật khóc." Thomas đã theo đuổi niềm đam mê tại Tu viện Zen Mountain, đã tin tưởng như nhiều người khác rằng chìa khóa đến với hạnh phúc là xác định niềm đam mê và theo đuổi nó với tất cả sự can đảm và nhiệt huyết. Nhưng cũng như những gì Thomas trải qua vào buổi chiều Chủ nhật trong khu rừng sồi, niềm tin này là một sự ngộ nhận đáng sợ. Hoàn thành ước mơ trở thành một Thiền sư thật sự không làm cho cuộc sống của anh trở nên tuyệt vời. Thomas phát hiện ra rằng, con đường dẫn tới hạnh phúc - ít nhất là liên quan đến công việc bạn làm để kiếm sống - là một thứ phức tạp hơn rất nhiều so với việc trả lời một câu hỏi kinh điển, "Tôi nên làm gì với cuộc sống của mình?" Mời các bạn đón đọc Kỹ Năng Đi Trước Đam Mê của tác giả Cal Newport.
Làm Ra Làm Chơi Ra Chơi - Cal Newport
Đã bao giờ bạn ngồi xuống để làm việc và sau đó, không hề nhận ra mình lại kết thúc bằng việc dành một (vài) tiếng đồng hồ lướt Youtube, Facebook, tin tức? Tất cả chúng ta đều đã từng làm vậy. Có vẻ như có quá nhiều thứ lôi kéo sự chú ý của chúng ta trong thời đại này, nên rất khó để thậm chí đạt đến trạng thái tinh thần giúp hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Trong Làm ra làm chơi ra chơi, tác giả Cal Newport nhấn mạnh chủ đề “làm việc sâu” (deep work) đang ngày càng được chú trọng. Học cách làm thế nào để làm việc sâu – khả năng tập trung vào một nhiệm vụ khó nhằn mà không hề bị sao lãng – là chìa khóa để tạo ra những kết quả tốt hơn trong thời gian ngắn hơn. Cuốn sách đưa ra hai mục tiêu, được chia làm hai phần. Phần 1 nhằm thuyết phục bạn rằng giả thiết về làm việc sâu là đúng. Phần 2 giới thiệu đến bạn một số cách để tận dụng làm việc sâu bằng cách rèn luyện não bộ và chuyển đổi thói quen làm việc sang hướng đặt làm việc sâu ở trung tâm sự nghiệp. Newport không hề đưa ra những lời khuyên xáo rỗng, mang tính lý thuyết hay giáo điều. Ông đề nghị chúng ta nên học cách làm quen với sự hời hợt và từ bỏ các công cụ truyền thông xã hội như Facebook, Instagram, (Thậm chí, nếu bạn không muốn làm vậy thì lý lẽ của ông cũng rất đáng đọc). Nếu bạn đã từng dành một ngày làm việc trong tình trạng bị sao lãng bởi đám email và thông báo hiện lên liên tục rồi băn khoăn bạn đã làm gì cả ngày thì đây chính là cuốn sách dành cho bạn. Mời các bạn đón đọc! *** DEEP WORK có dành cho bạn : - Nếu bạn là người tin vào làm việc chăm chỉ... work harder, harder and harder - Nếu bạn tin tưởng vào làm việc một cách CỰC KHỔ sẽ cho ra KẾT QUẢ bởi vì ở đây DEEP WORK không dạy bạn cách làm việc thông minh, không dạy cách bạn cheat, không dạy cách bạn trick,...có những cách làm việc thông minh, rất nhẹ nhàng, nhưng có lẽ nó chỉ dành cho người thông minh. => những điều trên có thể không phải những thứ được đề cập trong quyển Deep work chính thống, but SHUT UP and JUST KEEP IT IN YOUR MIND Các giai đoạn deep work : - Giai đoạn 1 : Beginner ( 4 tuần ) +) Mục tiêu :  - Bỏ được thói quen multi tasking, rèn sự tập trung - Hoàn thành đúng và đủ thời gian => Ở giai đoạn này của việc deep work, cái bạn muốn đạt được ở đây là số lượng, cũng chính là cái TIME ở trong công thức to đùng trên kia. Đừng quan tâm tới chất lượng vội, cũng giống như khi người ta chỉ bạn cách để đọc một quyển sách tiếng Anh, chẳng ai bảo bạn đi dịch từng từ ra, hay thấy từ nào khó thì đi ra, ai cũng bảo bạn cứ đọc hết đi, không hiểu cũng đọc, từ từ sẽ ngộ ra +) Khó khăn : - Thường mất tập trung - Thường làm không đủ giờ - Bị nhiễu loạn, gia đình, âm thanh ồn ào (vd bạn đang học, có người nhảy vào nhờ đi phơi quần áo,etc...) - Mạng xã hội khiến bạn khó tập trung - Áp lực quá lớn,bởi những người tìm tới DEEP WORK như một giải pháp thường là những người đang có áp lực công việc lớn, ví dụ thi cử, và bản thân mình cũng thế lúc mới đầu +) Giải pháp : - Sống ích kỉ, vô trách nhiệm : như mình từ chối giúp mẹ nấu cơm và bị chửi, tuy nhiên để cải thiện thì sau đó thời gian rảnh bạn có thể làm việc nhà, deep work sẽ dễ hơn nếu bạn ở một mình, nhưng đang trong thời gian DEEP WORK, CÚT, bạn sẽ phải hi sinh gì đó để đạt được thứ bạn muốn - Mục tiêu - động lực : viết ra 5 mục tiêu bạn muốn đạt được NHẤT, cái này thì bất cứ phương pháp cải thiện bản thân lol nào cũng có, nhưng chi tiết hơn chút, viết ra, dán lên bàn chỗ bạn học, tạo nó thành wallpaper trên laptop,desktop của bạn, nếu nó không giúp bạn có động lực ngồi mài đít 1-2 tiếng trên ghế tập trung thì NHẢM CẸC, ĐÓ ĐÉO PHẢI THỨ BẠN MUỐN NHẤT :gach: - BIẾN DEEP WORK THÀNH THÓI QUEN : cái này tôi hay nói với những người beginner, bạn nào đã đọc DEEP WORK sẽ biết có 2 kiểu, một là kiểu DEEP WORK mà bạn sẽ làm theo lịch, ví dụ đọc sách từ 5h-7h sáng mỗi ngày. Kiểu thứ hai là kiểu nhà văn, nhà báo, nghĩa là bạn có thể từ chế độ bình thường, bắt được cảm hứng liền lâm vào deep work ngay lập tức vài tiếng liền. Và tôi thường YÊU CẦU beginner theo KIỂU MỘT, hãy dành ra 2 tiếng mỗi ngày, vào một khung giờ cố định để làm một cái mả mẹ gì đó, và chỉ cái đó thôi , ví dụ như tôi lúc bắt đầu, từ 10h-12h tôi chỉ lên spotlight, nghe người ta đọc tiếng anh và chép ra giấy,...hay như người yêu tôi thì đọc sách từ 9h - 12h mỗi ngày :"> Cho tới bây giờ thì tôi có thể DEEP WORK bất cứ lúc nào, nhưng xin lỗi, bạn ĐÉO PHẢI TÔI :"> - BẠN ĐÉO PHẢI TÔI : Vâng, nhắc lại câu trên, vì bạn đéo phải tôi, nên bạn cũng sẽ gặp những vấn đề không giống tôi, vậy nên bạn chỉ cần nhớ những cái căn bản, những cái khó khăn ngoài ra, bạn phải tự tìm cách giải quyết, như tôi đéo phải Carl Newport (tác giả cuốn Deep Work) nên tôi cũng đéo làm giống ông ấy, nhưng Key Concept thì chúng tôi như nhau, chỉ là cách triển khai khác nhau cho phù hợp mỗi người, nhớ, TRIAL AND ERROR Giai đoạn 2 tôi sẽ up sau nếu mọi người ủng hộ :"> Too long dont read :  - Sách Deep work - Bản cứng : Link đã ẩn. Bạn cần đăng nhập - Sách Deep work - PDF : Link đã ẩn. Bạn cần đăng nhập - Lười đọc sách thì đây : Link đã ẩn. Bạn cần đăng nhập Note 1 : Cơ bản mà nói thì tôi vẫn khuyên bạn đọc sách, xong sau đó thì xem video mà tóm lại, mặc dù 196 pages, nhiều đoạn nó nhảm lol (nhất đoạn đầu) vì nó chỉ nêu ra này kia để tiếp cho bạn động lực và khá lan man, phần 2 mới nói rõ cách làm, nhưng cũng lan man, nhưng tại sao tôi khuyên bạn đọc, vì nó cho thấy QUYẾT TÂM của bạn, nên nhớ DEEP WORK không phải ngày một ngày hai là nó thay đổi bạn, nếu bạn muốn thay đổi bản thân mà chả đủ động lực để đọc xong 196 trang sách thì CÓ LẼ DEEP WORK không/chưa dành cho bạn. Cái thứ hai là ngay cả việc đọc xong cuốn sách dài loằng ngoằng với nhiều đoạn nhảm shit này nó cũng sẽ giúp bạn RÈN DEEP WORK. Nên nhớ khi DEEP WORK, bạn sẽ gặp nhiều thứ nhảm chỉ vì bạn đặt lịch sai, ví dụ như bạn muốn học môn A, hay mai thi môn A mẹ rồi, nhưng lỡ đặt vào môn B, bạn ghét B và B thi cuối cùng, nhưng đm đã đặt lịch ra thì làm cho xong, ngu một lần cho chừa, lần sau làm gì thì nghĩ kĩ. Hay đơn giản bạn nhìn cuốn sách này hay vkl, ai cũng kêu hay, bạn đặt lịch đọc, xong đọc được 20 trang bạn nghĩ đm nói cl gì thế này, tốn time vcl, nhưng ai bảo bạn ngu ko nghĩ kĩ, đã cầm sách lên thì cố mà đọc cho hết (với những quyển ít hơn 200 trang, một khi tôi cầm lên là tôi đọc cho xong thì thôi) :byebye: Note 2 : Deep work không dễ, nó khó, và cực khó chịu, nó có thể khiến bạn stress, trầm cảm, nên tôi không khuyên Deep Work nhiều hơn 4 tiếng/ngày (advance) và 2 tiếng/ngày (beginner) nếu bạn không có quá nhiều áp lực công việc và nhiều thứ phải hoàn thành. Và nếu bạn xong deep work mà bạn không rơi vào trạng thái "zombie" hay đm não bộ như muốn ngưng hoạt động, nhức đầu, đầu ong ong thì rất tiếc, đó đéo phải deep work, nhưng tất nhiên là dành cho những người đã deep work được một thời gian, còn nếu bạn mới bắt đầu, chỉ cần hoàn thành đủ số lượng là tốt lắm rồi :nosebleed: Note 3 : Như ở Note 2 tôi đã đề cập tới trạng thái "Zombie", vậy tôi làm sao để giải trừ trạng thái XẤU này, nếu ở trong game, sẽ có một loại thuốc nào đó, còn ở ngoài đời, bạn có thể sử dụng : 1. Caffeine : cái này tôi thường dùng trước khi deep work, khoảng 200mg, bạn có thể/nên sài caffeine dạng viên, hơn là uống, dễ kiểm soát lượng cf nạp vào cơ thể bạn hơn, như tôi sài lọ của Allmax thì phải (chả nhớ tên hãng), giá cũng rẻ nhưng tôi sẽ ko đi sâu hơn kẻo lại nhầm là bán tpbs :gach: 2. Pzizz : cái app này sẽ giúp bạn NAP 20 phút, hoặc thiền, nhưng tôi thì không thích ngồi kiểu Thiền, mà ngồi kiểu đó ai nhìn tưởng thần kinh đang luyện bí kíp võ công tàu thì bỏ mẹ. Tôi thì thích nằm hơn, đừng cố ngủ, ko biết người ta định nghĩa nap của họ như nào, với tôi, nap chỉ đơn giản nằm xuống thoải mái nhất, relax, và KHÔNG NGHĨ BẤT CỨ GÌ trong 20-25 phút, không phải ngủ, cũng không nên lâu hơn, nếu không sẽ rất dễ ngủ quên mẹ luôn :surrender: Bạn nên nap trước và sau khi Deep Work, tại sao cả trước, bởi vì nhiều bạn hay kêu là ko thể tập trung khi vào deep work, vì trước đó các bạn ấy hay lướt mxh như fb, voz,... hay thứ gì đó thú vị, tôi ko bắt các bạn bỏ, nhưng các bạn nên có một đầu óc SẠCH trước khi vào DEEP WORK, NAP là cách tốt giúp bạn dọn dẹp đầu óc cả trước và sau khi xong DEEP WORK 3. Gym/Thể thao : Tôi thì chọn Gym, đó là cách tốt để bạn rèn, Gym cũng là một kiểu rèn Deep Work, não bạn sẽ tập trung tập luyện trong khoảng 1 tiếng (trung bình), tất nhiên trừ các ông tới Gym để lên facebook =]] Và nó cũng rèn bạn tính kỉ luật,giúp xả stress và trên hết là Sức Khỏe :byebye: 4. Nói chuyện với ny/người bạn thân : tôi có thể nói chuyện với ny cả ngày chỉ về việc chúc cô ấy ngủ ngon, tất nhiên bạn không nên bỏ nhiều thời gian, nhưng rảnh thì có thể làm, hơn nữa nc với ny nhiều cũng sẽ giúp bạn trong việc nofap đấy, ít nhất là nó hiệu quả với tôi, và giúp tôi giết thời gian rảnh. Bạn rảnh, đừng deep work, bạn deep work 2 tiếng,quá đủ cho 1 ngày rồi, nếu hôm nay 2 tiếng đó, bạn chưa làm được cái gì cho đời, thì hôm nay, bạn là thằng vô dụng, đó là trừng phạt với bạn, bạn ko được phép làm gì nữa, có gì muốn làm, để mai, lúc đó bạn sẽ thấy quý thời gian deep work và tập trung hơn vào nó _______________________________________________________________ Lâu không Deep Work, bắt đầu từ hôm nay tôi cũng sẽ deep work từ mức beginner với anh em, mọi thứ được cập nhật bên dưới Bạn đã đủ động lực? : - Nếu bạn chưa đủ động lực muốn thay đổi, tôi khuyên bạn nên từ bỏ, vậy làm sao biết bạn đủ động lực chưa? - Khi tôi bắt đầu deep work, tôi biết về cuốn sách này qua reddit, một số user trên đó khuyên tôi đọc, lúc đó khi tôi xem một video, tôi ít khi xem quá 2 phút, tất nhiên là video về lập trình, học hành chán ngắt, tôi mua quyển "Tôi nói gì khi tôi nói về chạy bộ" mà mới đọc có 20 trang :stick: Vậy đây là thử thách để xem động lực của bạn tới đâu, hãy chọn 1 cuốn sách (nhiều hơn 100 trang, bản thân tôi chọn thẳng cuốn Deep Work), chọn một khoảng thời gian thích hợp, chọn một chỗ ngồi và lấy 1 cốc nước ra, bắt đầu đọc, không biết nó tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Tàu, không cần biết bạn có hiểu hết không, hãy ngồi đọc, đọc cho hết thì thôi, đọc không sao nhãng. Nếu bạn đọc trên máy tính, bật f11 lên, bất cứ khi nào mà bạn nghĩ lung tung, ko tập trung vào sách, hay muốn mở cái khác, tắt f11,etc... uống hết cốc nước, đứng lên lấy cốc khác, bắt đầu lại. Hoặc bạn có thể chơi hard mode hơn là tự vả vào mặt, lấy bút đâm ngón tay hay là đọc lại từ đầu nếu bị xao nhãng :"> Mấy cái tra tấn này là tôi nghĩ ra thôi chứ cũng chưa thử làm =]] Nói chung làm sao bạn có thể đọc hết cuốn sách mà ko sao nhãng chút nào, vì bất cứ việc gì, thì ok, bạn đã sẵn sàng, đủ hành trang để vào Deep Work ***   Mời các bạn đón đọc Làm Ra Làm Chơi Ra Chơi của tác giả Cal Newport.
Một Túi Yêu Thương - Gail Reichlin & Caroline Winkler
Cuốn sách này ủng hộ việc các bậc phụ huynh nghiêm khắc dạy bảo, uốn nắn sửa sai khi trẻ mắc lỗi, nhưng đồng thời cũng đề cao thái độ tôn trọng cả cha mẹ và trẻ nhỏ. Cuốn sách khuyến khích bạn không chỉ nghĩ về những gì bạn nên nói, mà cả cách bạn nói điều đó ra như thế nào. Cách mà chúng ta giao tiếp với con trẻ có thể khích lệ con hợp tác hơn, giúp gắn kết các thành viên gia đình, và để chúng ta có thêm những khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau. *** Lần đầu tiên nuôi dạy một đứa trẻ, bạn sẽ có rất nhiều câu hỏi. Một số câu hỏi không thực sự quan trọng, một số khác bạn có thể tự trả lời bằng chính bản năng làm cha mẹ và bằng những kiến thức sẵn có của bản thân. Nhưng sẽ còn rất nhiều câu hỏi mà bạn không tìm được câu trả lời, trong suốt nhiều năm, cho đến khi con dần khôn lớn. Bạn biết tìm ai để có thể nhận được lời khuyên? Bạn có thể tìm được câu trả lời qua rất nhiều cuốn sách nuôi dạy trẻ nhưng thực tế là chỉ có một vài trong số đó đáng để bạn mua. Những câu trả lời mang tính tức thời, nặng tính lý thuyết, thiếu thông tin, không thể nào áp dụng thành công cho các tình huống thực tế trong cuộc sống. Thực tế, nuôi dạy trẻ là một lĩnh vực đầy phức tạp và khó khăn. Đã nhiều năm, tôi khuyên các cha mẹ trẻ tìm tới ông bà – những người đã làm rất tốt công việc nuôi nấng những đứa trẻ của họ, và hãy để bản năng làm cha, làm mẹ chỉ đường cho bạn. Ai sẽ cho lời khuyên về những vấn đề như dạy một đứa trẻ đang chập chững ngồi bô tốt hơn một bà mẹ đã thành công trong việc nuôi con? Hay để có lời khuyên khi đứa trẻ lên 3 bị đau ốm thì còn gì tốt hơn là tìm đến và nghe lời chia sẻ của một ông bố đã thành công trong tình huống như vậy? Gail Reichlin và Caroline Winkler chính là những vị phụ huynh mà bạn cần tìm. Tôi đã biết Gail được một vài năm nay, và tôi cảm thấy cô có khả năng viết nên một cuốn sách nuôi dạy trẻ. Cô rất giàu kinh nghiệm và là người đặc biệt quan tâm tới trẻ em. Cô và người cộng sự, Caroline Winkler, hai phụ nữ giỏi giang, những bà mẹ tuyệt vời của ba đứa trẻ, họ có cả một kho báu kinh nghiệm để cho bạn những lời khuyên, những hướng dẫn chính xác và đáng tin cậy. Họ cũng là những người thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với các ông bố, bà mẹ, thậm chí cả các chuyên gia về trẻ em. Được viết nên từ những kiến thức thực tế và tấm lòng chân thành, ấm áp, cuốn sách chứa đựng hầu hết những điều mà người đọc tìm kiếm và sẽ tìm thấy, ngay trong cuốn sách này. — Tiến sĩ Burton L. White Tác giả của cuốn sách The New First Three Years of Life (tạm dịch: Ba năm đầu tiên của cuộc đời) và Raising a Happy, Unspoiled Child (tạm dịch: Nuôi nấng một đứa trẻ hạnh phúc, ngoan ngoãn) Mời các bạn đón đọc Một Túi Yêu Thương của tác giả Gail Reichlin & Caroline Winkler.
Gia Huấn Ca - Nguyễn Trãi
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ, Hễ làm người dạy kỹ thì nên, Phấn-son cũng phải bút-nghiên, Cũng nhân-tâm ấy há thiên-lý nào.  Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, người làng Nhị-khê, huyện Thượng-phúc (tức phủ Thường-tín, tỉnh Hà-đông bây giờ). Năm 21 tuổi, đỗ Thái-học-sinh (Tiến-sỹ) niên-hiệu Thánh-nguyên thứ 1 triều Vua Hồ Quí Ly (1400). Làm quan đến chức Ngự-sử-đài chánh chưởng. Thân-phụ là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Bảng-nhỡn niên-hiệu Long-khánh thứ 2 triều Vua Trần Duệ-Tông (1374), vì cớ là hàn-tộc mà lấy con-gái Trần Nguyên Đán là tôn-thất nhà Trần, theo phép nhà Trần không được bổ-dụng. Mãi đến triều nhà Hồ mới được dùng làm Trung-thư thị-lang. Khi quân Minh sang xâm-lấn, hai cha con vua nhà Hồ bị bắt, Phi Khanh cũng bị giải về Tàu. Nguyễn Trãi khóc theo đến Nam-quan. Phi Khanh ngoảnh lại bảo rằng : « Con về rửa hờn cho nước, báo thù cho cha, mới là người đại trung đại hiếu, không nên theo nhi-nữ thường tình ! » Nguyễn Trãi trở về đi theo Lê Thái-Tổ khởi nghĩa ở Lam-sơn. Trong 10 năm kháng-chiến với quân Minh, giúp Vua Lê bằng mưu-kế : phàm các văn-thư từ-trát giao-thiệp với tướng nhà Minh, đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đã đánh đuổi ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan-phục-hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ-nhất. Triều Vua Lê Thái-Tông được làm Nhập-nội hành-khiển (tức Tể-tướng). Năm 60 tuổi, về trí-sĩ tại Côn-sơn (thuộc huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương bây giờ). Ba năm sau, vì án Nguyễn Thị Lộ, bị tru di tam tộc. Sử chép : Niên-hiệu Đại-bảo thứ 3 triều Lê Thái-Tông (1442), nhà vua đi tuần phương đông, duyệt võ ở Chí-linh, Nguyễn Trãi đón xa-giá đến chơi chùa Côn-sơn. Thiếp của Nguyễn Trãi là Thị Lộ, có tài có sắc, được nhà vua vời. Khi xa-giá đến vườn Lệ-chi (xã Đại-lai, huyện Gia-bình, tỉnh Bắc-ninh bây giờ) nhà vua bị bệnh sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi Vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trãi phải tội tru di. Năm ấy Nguyễn Trãi 63 tuổi, có người thiếp đương có thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê Thánh-Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, truy tặng Tế-văn-hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri-châu. Nguyễn Trãi chẳng những là bậc năng-thần kinh bang tế thế, mà còn là một nhà đại văn-hào của Việt-nam ta. Tác-phẩm của Tiên-sinh bằng chữ Hán rất nhiều, hiện nay còn truyền lại đều in trong bộ Ức Trai toàn tập như Ức Trai thi-tập, Ức Trai văn-tập, Quân-trung từ-lệnh tập, An-nam Vũ-cống, v.v… Tác-phẩm bằng Quốc-âm, nay chỉ còn truyền lại có 2 : tức là tập « Gia huấn ca » này và bài thơ « Hỏi ả bán chiếu » mà người ta thường truyền-tụng. Mời các bạn đón đọc Gia Huấn Ca của tác giả Nguyễn Trãi.