Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Con Mèo

Ở Việt Nam, sách văn học tầm cao, có ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm người Nhật qua nhiều thế hệ chưa xuất hiện nhiều. Đúng như nhận định của ông Mitsuyoshi Numano, giáo sư văn học của Đại học Tokyo trong Hội thảo văn học Nhật Bản tháng 9-2009 tại Hà Nội: "Hình như phần lớn các tiểu thuyết (của Nhật) được dịch đều thuộc về các nhà văn ăn khách hiện đại trong khi các nhà văn quan trọng trước đó với những tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian thì hầu như chưa được dịch sang tiếng Việt Nam." Trong số lượng rất lớn các tác giả văn học Nhật trong hơn 100 năm từ thời Minh Trị đến nay vị giáo sư này đã lựa chọn ra 10 tác giả văn học mà ông cho là quan trọng nhất ở Nhật gồm có: Mori Ogai (1862-1922), Akutagawa Soeki (1867-1916), Tanizaki Junnichiro (1886-1965), Akutagawa Ryunosuke (1892-1927), Dazai Osamu (1909-1948), Kawabata Yasunari (1899-1972 - giải Nobel văn học), Mishima Yukio (1925-1970), Abe Kobo (1924-1993), Oe Kenzaburo (1935 - giải Nobel văn học), Murakami Haruki (1949). Để người Việt Nam hiểu và thấy được cái hay của văn học Nhật, cần thiết phải dịch văn học Nhật sang tiếng Việt nhiều hơn nữa để người Việt Nam có cơ hội tìm hiểu và tiếp xúc nhiều hơn với các tác phẩm và tác giả quan trọng của văn học Nhật. Chính các dịch giả sẽ là cầu nối để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Tôi vui mừng ghi nhận sự xuất hiện của những dịch giả mới người Việt, có nghiên cứu cẩn thận và hiểu sâu về con người, văn hóa Nhật Bản, với niềm say mê văn học Nhật, đã đem đến cho bạn đọc Việt Nam những kiệt tác được dịch trực tiếp từ nguyên bản. Đây là một điểm rất cần khuyến khích và nhiệt tình cổ vũ. Tiểu thuyết Tôi là con mèo của văn hào Natsume Soeki, do bà Bùi Thị Loan dịch từ bản tiếng Nhật, là một trong chưa nhiều trường hợp tôi vừa nói ở trên. Vị trí và vai trò của các tác phẩm của Natsume Soeki trong nền văn học Nhật bản là rất quan trọng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ người Nhật Bản, bất cứ người Nhật Bản cũng biết đến các tác phẩm Botchan,Wagahai wa neko dearu, Kokoro… của ông. Ông được coi là nhà văn dân tộc lớn nhất trong nền văn học cận đại ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị. Các nhà phê bình văn học đánh giá ông là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản cùng Mori Ogai và Akutagawa Ryunosuke. Năm 2006 bạn đọc Việt Nam đã được đọc cuốn Cậu ấm ngây thơ (Botchan) và bây giờ lại được cầm trên tay bản dịch kiệt tác Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) của đại văn hào Natsume Soeki, cả hai đều do dịch giả Bùi Thị Loan chuyển ngữ sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Việc Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) tài trợ cho bản dịch tiểu thuyết Tôi là con mèo lần này của bà Loan là một trong những hoạt động rất tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam. Tác phẩm dịch này ra đời là món quà ý nghĩa để tiến tới kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Nhật Bản (2013). Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Natsume Soeki. Mượn lời kể của một con mèo sống trnog nhà một thầy giáo dạy trung học, tác giả đã vẽ nên bức tranh trào phúng về diện mạo điển hình của tầng lớp trí thức Nhật thời Minh Trị. Con mèo lắng nghe và quan sát các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng của "ông giáo" Kushami, thực chất đó là những cuộc thảo luận về triết học và nghệ thuật cũng như thói đời trong thế giới mà mãnh lực đồng tiền đang xâm chiếm tình cảm con người trong buổi giao thời và xung đột giữa văn hóa Đông - Tây ở Nhật Bản. Độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự tẻ nhạt và kệch cỡm trong lối sống, sự nửa vời và lười nhác trong học thuật của những nhân vật chính như ông giáo Kushami, nhà mỹ học Meitei, cử nhân khoa hoạc tự nhiên Kangetsu, rồi một vài nhà thơ, nhà phê bình… từ các cuộc tranh luận như bất tận của họ, xoay quanh nhiều vấn đề nghệ thuật kinh điển và hiện đại, của Nhật cũng như của thế giới. Ở khía cạnh khác, bạn đọc có thể tìm thấy trong cuốn sách này những chi tiết văn hóa đặc trưng của Nhật, được miêu tả tinh tế, tròn trặn và trầm tĩnh. Điểm nổi bật trong kiệt tác này, chính là bạn đọc được làm quen và thưởng thức giọng văn châm biếm hóm hỉnh mang nhiều nét tự trào của một bút pháp bậc thầy. Nhưng lưu ý rằng cái hóm hỉnh lại "rất Nhật" nên người đọc Việt Nam đôi khi cần có chút hiểu biết về văn hóa Nhật mới thấy hết cái hay cái hóm của nó. Dịch giả Bùi Thị Loan là một người Việt Nam am hiểu văn hóa văn học Nhật, hiện tại bà vẫn đang sinh sống và làm việc tại xứ sở hoa anh đào. Bà là một người dịch mới, trong thế hệ các dịch giả văn học thời hiện đại, được tiếp xúc và chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên bản. Bản dịch của bà Bùi Thị Loan, mà theo tâm nguyện bà muốn cố gắn chuyển tải một cách trung thực văn phong của một đại văn hào Nhật Bản, có thể, đôi chỗ còn làm cho bạn đọc Việt Nam, nhất là lớp trẻ, cảm thấy hơi có gì đó khác lạ, hơi khó dung nạp. Nhưng dụng ý của người dịch quyết tâm giúp bạn đọc Việt Nam dần khám phá đỉnh núi Natsume Soeki một cách thuần chất và nguyên vẹn, dù không dễ. Như đã nói, vốn dĩ tác phẩm Tôi là con mèo - một tác phẩm được viết ra ở Nhật Bản cách đây hơn một thế kỷ, dù rằng là kiệt tác của nhân loại, sống mãi với thời gian, đã đi vào tâm hồn bao thế hệ người Nhật, nhưng chính người Nhật hiện đại cũng cảm thấy nhiều chỗ khó đọc, vì vậy chuyển ngữ sang tiếng Việt là một công việc đầy gai góc. Đối với độc giả nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để thấy hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm này thiết nghĩ cũng cần có thời gian. Mọi phán xét xin dành lại cho độc giả. Thúy Toàn *** "Tôi là con mèo" là tác phẩm đầu tay của nhà văn Natsume Soseki (1867-1916). Trong tác phẩm Cậu ấm ngây thơ (NXB. Hội Nhà văn phát hành năm 2006), tôi đã có dịp giới thiệu qua về ông. Có thể nói, đây là tác phẩm rất quan trọng không chỉ đối với cuộc đời và sự nghiệp của Natsume Soseki mà còn đối với cả đời sống văn học Nhật Bản và quốc tế. Bởi vì nó là tác phẩm đã giúp phát hiện ra một đại văn hào, sau đó ảnh hưởng của nó và nhà văn lớn này đã góp phần gieo mầm, tạo ra nhiều nhà văn, nhà văn hóa, học giả có giá trị cho Nhật Bản. Trong số đó có người rất nổi tiếng, như văn hào Akutagawa Ryunosuke, một đệ tử của Natsume Soseki. Trên thế giới, đặc biệt là Hàn Quốc và Trung Quốc, cũng có nhiều nhà Soseki học khá nổi tiếng. Bối cảnh và nội dung của Tôi là con mèo là đời sống hiện thực xảy ra xung quanh nhà văn Soseki. Những nhân vật chính trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ bạn bè, học trò, những người xung quanh ông. Một số được đưa nguyên tên thật vào trong tác phẩm như nhà thơ Masaoka Shiki, nhà thơ Takahama Kyoshi. Nhưng tất cả đều được miêu tả qua lăng kính trào lộng, đùa vui, mang đậm tính chất Rakugo (một loại tấu hề), đại diện tiêu biểu của nền văn hóa Edo. Con mèo và thầy giáo Kushami cũng là nhân vật dựa vào nguyên mẫu là tác giả và con mèo nhà ông. Chính con mèo này đã gợi hứng cho ông viết tác phẩm. Lúc đầu chỉ là ý định viết thử cho vui, ông bắt đầu bằng câu "Tôi là con mèo,…" rồi đưa bản thảo cho tạp chí, nhờ góp ý và đặt tên. Ông Takahama Kyoshi, người phụ trách của tạp chí, đã góp ý lấy câu mở đầu này làm tên của tác phẩm. Kiệt tác "Wagahaiwa neko dearu" (Tôi là con mèo) đã được ra đời như vậy và trở thành một cái tên rất thân quen với bất kỳ người Nhật nào cũng như bất kỳ ai hiểu biết về Nhật Bản. Natsume Soseki lúc nhỏ đã học chữ Hán, sau đó học tiếng Anh và văn học Anh. Ông là người thuộc thế hệ Hán học cuối cùng và thế hệ Tây học đầu tiên của Nhật Bản. Vì vậy trong ông có một khối lượng đồ sộ kiến thức đông tây kim cổ mà ông đã tích lũy được qua nhiều năm bằng trí tuệ của một thiên tài. Trong tác phẩm đầu tay này, những kiến thức ấy được dịp xuất hiện trong mọi cơ hội, khi thì nghiêm túc, khi thì hài hước, đùa bỡn nhưng tất cả đều giúp độc giả khám phá ra những tư tưởng, kiến thức, những trăn trở uyên thâm, cao đẹp, đầy nhân văn của một thiên tài rất nặng lòng với thời thế. Tác phẩm bắt đầu được viết năm 1905, khi cuộc chiến tranh Nhật-Nga (1904-1905) đang ở đỉnh điểm. Truyện in dần trên tạp chí Hototogisu cho đến cuối năm 1905 thì ông định kết thúc truyện ở chương 5. Nhưng do độc giả tha thiết yêu cầu nên ông lại viết tiếp và hoàn thành vào năm 1907 với 11 chương hầu như độc lập với nhau… Đây là tác phẩm văn học quá lớn đối với khả năng của một dịch giả văn học không chuyên như tôi nên bản dịch chưa thể gọi là hoàn hảo trong việc chuyển tải đầy đủ tất cả cái hay, cái đẹp, cái quý của tác phẩm, hòng làm xiêu lòng độc giả Việt Nam như nó đã chinh phục độc giả Nhật Bản. Vả lại, cũng cần phải có thêm điều kiện hiểu biết lịch sử, văn hóa, tính cách tâm lý của người Nhật thì mới tiếp nhận được hết những giá trị của tác phẩm. Bởi vì đối với người Nhật, cái hay của văn học Natsume Soseki cũng giống như cái hay của Truyện Kiều đối với người Việt Nam, người ta thích thú không chỉ vì nội dung mà còn do ngôn ngữ và nhạc điệu của tác phẩm. Người Nhật Bản mỗi tầng lớp mỗi thế hệ, từ các em học sinh tiểu học năm thứ 5 trở đi cho đến các vị cao niên, từ những người lao động bình thường đến bậc học rộng, uyên bác, ai cũng có thể tìm thấy trong tác phẩm này những điều lý thú, cần thiết, bổ ích hay tâm đắc với mình. Mặc dù việc tiếp thu qua bản dịch gặp phải những hạn chế chủ quan từ dịch giả và khách quan từ độc giả, nhưng tôi mong rằng Tôi là con mèo cũng phần nào làm được như vậy với bạn đọc Việt Nam. Hơn nữa, ngoài chức năng là một tác phẩm văn học để giải trí, tôi hy vọng cuốn sách này còn là một nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những người có nguyện vọng tìm hiểu về Nhật Bản. Để có được thành quả nhỏ này là nhờ công lao rất lớn của nhiều người đã giúp đỡ tôi. Trước hết là chị Lê Thị Bình, bạn tôi, người đã phát hiện bản dịch thảo của tôi và quyết tâm giới thiệu nó với bạn đọc. Chị Bình đã dành nhiều thời gian, công sức và khắc phục nhiều trở ngại để tổ chức thực hiện việc này. Chị là người rất quan tâm đến văn hóa và văn học Nhật Bản, luôn hoạt động tích cực trong Ban văn hóa Hội Hữu nghị Việt - Nhật và trong Câu lạc bộ thơ Haiku Việt Nam. Nhờ công lao và nhiệt tình của chị Bình, với sự giúp đỡ của NXB. Hội Nhà văn, bản dịch Tôi là con mèo đã nhận được tài trợ của Quỹ giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) để cho ra mắt kiệt tác này. Nhân đây tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quý Quỹ và Nhà xuất bản. Trong quá trình dịch, tôi may mắn được một người bạn đồng nghiệp người Nhật đã tận tình giúp đỡ tôi. Không những chỉ đọc duyệt, anh còn dạy cho tôi biết thêm nhiều về tiếng Nhật và kiến thức về nhiều lĩnh vực của Nhật Bản, khiến bản dịch nhuần nhuyễn hơn. Cũng nhân dịp này, chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhà thơ Nguyễn Bao và nhà văn, dịch giả nổi tiếng Thúy Toàn. Những lời nhận xét và chỉ dẫn rất quý báu của hai ông về kiến thức dịch văn học, giúp cho người ngoại đạo như tôi khắc phục được nhiều yếu kém trong công việc. Và biên tập viên Nhà xuất bản đã luôn nhiệt tình và trách nhiệm khi làm việc, trao đổi với tôi từ xa. Xin trân trọng giới thiệu Tôi là con mèo với độc giả. Xin kính dâng bản dịch này lên hương hồn Đại văn hào Natsume Soseki, nhà văn Nhật Bản tôi rất kính phục, nhân ngày giỗ lần thứ 95 của ông (9-12-1916/ 19-12-2011). 7-12-2011 Bùi Thị Loan *** Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 ... Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Organ Mùa Xuân - Kazumi Yumoto
Kiriki Tomomi bước vào kỳ nghỉ xuân trước khi lên cấp 2 với nhiều khúc mắc. Bố mẹ đã ly thân do cuộc chiến triền miên với gia đình hàng xóm. Bà qua đời mới đây khiến cô bé chìm đắm vào sầu muộn và những giấc mộng lạ lùng. Ở nhà cả ngày chỉ có ông luôn lủi thủi với những việc riêng và cậu em Tetsu còn nhỏ nhưng ương bướng. Thế nên khi Tetsu bắt đầu rời khỏi nhà lang thang khắp thành phố với một sứ mệnh kỳ lạ: tìm mèo ốm, Tomomi liền đi theo bảo vệ em... Những cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trong thành phố đã khiến Tomomi vụt thay đổi, cô hiểu hơn những người xung quanh, hiểu hơn chính mình. Và, cuốn sách đã như một cung đàn trong trẻo, đẫm dư vị mát lành và chơi vơi của mùa xuân, cho người đọc đắm chìm vào muôn vàn cảm xúc ngây thơ, để khi tỉnh lại sực nhận ra, lá đã xanh, hạ đã sang, và cô bé con kia đã lớn tự lúc nào. *** Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Mời các bạn đón đọc Organ Mùa Xuân của tác giả Kazumi Yumoto.
Qui Cố Hương - Jiro Osaragi
“Nghĩ đến con cái tự nhiên lòng mình thanh sạch. Đó là diễm phúc của kẻ làm cha mẹ đó, cô biết không!” [Jiro Osaragi, Qui Cố Hương. Bản dịch Bùi Ngọc Lâm, Saigon 1973] Đọc Jiro Osaragi thấy cái không khí Âu châu của Kazuo Ishiguro phả khắp. Đây là tác gia tôi ít đọc, hình như chỉ biết có Hành Trình (The Journey), và nay làHomecoming. Nước Nhật của Osaragi là nước Nhật hậu chiến, nước Nhật thất trận. Thay vì nhìn đất nước dưới nhãn quan của người trong cuộc tham luyến và tội tình, của người cố gắng níu giữ vàng son đã mất như Y. Kawabata, Osaragi đặt mình là kẻ bàng quan. Ông cho nhân vật của mình đào thoát ra hải ngoại rồi quay về nhìn cố hương. Để thấy rằng những ngôi đền trên đỉnh núi vẫn đáng ngưỡng vọng, những cội anh đào sân chùa vẫn đáng chiêm bái, những vườn đá vườn sỏi vườn rêu vẫn đẹp đẽ, nhưng là cái đẹp của nghèo. Bởi nghèo nên buộc phải làm đẹp theo cách ấy. Gian nhà hoang chỉ có một vò rượu chơ vơ, là vì nghèo. Minimalism hóa ra là con đẻ của sự hoang tàn, túng thiếu. Nó đẹp một cách đau xót. Tình phụ tử, tình yêu trong văn Osaragi cũng được cảm bằng mắt người-ngoài-cuộc. Tỉnh táo, điềm tĩnh. Cha rất sung sướng khi con đã đến, nhưng lẽ ra con không nên làm thế, con không nên gặp một hồn ma, con đã đủ can đảm để lớn lên, thì con có thừa can đảm để xa cha. Em là người đàn bà khác thường, nhưng em đã gây ra cho tôi bao nhiêu oan khiên, vậy xin phép em, mai tôi đi sớm, tôi rửa hận bằng cách từ chối tình yêu của em. Tuyệt vời! Khi được hỏi mình có những tật xấu gì, Đức Dalai Lama nói, tôi còn tham luyến, chẳng hạn tôi không rời được cái đồng hồ đeo tay này. Còn bám chấp vào một cái gì, là còn phiền não. Đọc Osaragi để học cách yêu thương mà không nhất thiết phải dính chặt vào đối tượng yêu thương. *** Jiro Osaragi (4/10/1897 – 30/4/1973) tên thật là Haruhiko Nojiri. Ông sinh ra tại Yokahama, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo, ông được nhận vào giảng dạy tại trường nữ sinh Kamakura (ngày nay là trường trung học Kamakura Jogakuin) nằm tại Kamakura, tỉnh Kanagawa. Nhờ các kỹ năng ngôn ngữ của mình, năm 1922, ông được tuyển dụng vào Bộ Ngoại giao. Nhưng sau trận động đất Great Kanto năm 1923, ông mất việc và quyết định trở thành nhà văn. Năm 1924, ông xuất bản quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên Hayabusa no Genji. Các tiểu thuyết của ông phổ biến với bối cảnh lịch sử như Kurama Tengu (1924 – 1959), Teru Hi Kumoru Hi (“Sunny Days Cloudy Days”, 1926 – 1927), và Ako Roshi (“Loyal Retainers of Ako”, 1927 – 1928) đã được phát hành trên báo và tạp chí mang lại cho ông một lượng lớn những người ủng hộ. Nhiều truyện sau này được chuyển thể thành phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Qui Cố Hương của tác giả Jiro Osaragi.
O, Mari! - Robert Enghibarian
N hận được cuốn tiểu thuyết O, Mari! của tác giả Robert Enghibarian từ tay bà Raisa Vardanyan, Đại sứ Armenia mới nhận nhiệm vụ ở Việt Nam, với đề nghị tôi sớm tổ chức dịch ra tiếng Việt để có cơ hội sắp tới giới thiệu với đông đảo bạn đọc chúng ta thêm hiểu về đất nước của bà, tôi thấy có cảm tình ngay với cuốn sách. Sách dày dặn, in ấn chững chạc, bìa các tông cứng, mặt bìa trang nhã với gương mặt xinh đẹp hiền hậu của một cô gái phương Tây bên cạnh ngọn tháp Epphen Pari quen thuộc. Linh cảm mách bảo tôi cuốn sách hẳn nói đến một mối tình có dính líu giữa chàng trai Armenia - xứ sở thuộc châu Á, vốn là một nước Cộng hòa Xô viết nằm ở cực Nam Liên xô trước đây, và cô gái bên trời Âu - cô gái Pari chăng? O, Mari! Bất giác tôi nhớ ngay tới khúc hát quen hình như đã được nghe ở đâu đó chỉ một hai lần mà cứ nhớ mãi: “Ô, Mari! Đóa hoa hồng. Trên đồng nội nơi em đi qua hoa cỏ ngả rạp mình đón chào em…”. Có lẽ trong bộ phim đạo diễn điện ảnh Liên xô nổi tiếng Rôman Karmen quay những ngày cuối chiến dịch Điện Biên Phủ có cảnh nhiều gương mặt các sĩ quan Pháp bị bắt làm tù binh buồn rầu ngẫm nghĩ trong tiếng hát của ca sĩ giọng teno da diết “Ô, Mari! Đóa hoa hồng...” Về nhà, tôi đã bắt tay vào đọc cuốn sách O, Mari! và càng đọc càng thấy hấp dẫn. Đúng là câu chuyện về một tình yêu sét đánh, say đắm giữa chàng trai người bản địa, sinh viên năm thứ hai khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Erevan Armenia và cô gái "tóc sáng màu, cao không dưới một mét bảy lăm, dáng thể thao,…. gợi nhớ hình ảnh một nữ diễn viên nước ngoài…với một sự khác biệt chưa từng thấy, hoàn toàn nổi bật so với các khuôn mẫu sắc đẹp địa phương…Một thân hình được luyện tập, một bộ ngực nhỏ nhắn gần như không lộ ra, cặp chân dài, cần cổ cao, mái tóc vàng, ánh bạch kim chấm vai..." Chàng tên là Đavid, con trai một cán bộ cao cấp- tổng biên tập phụ trách một tờ báo lớn của một nước cộng hòa, từ bé đã luyện tập thể thao, đã đạt tới danh hiệu cấp quốc gia về môn vật tự do, là một trang nam nhi tuấn tú, học giỏi, nghĩa hiệp, được bạn bè cùng trường kính nể. Còn tên nàng chính là Mari, như trong bài hát quen thuộc, sinh ra ở Pari, bố là người gốc miền tây Armenia đã phải lưu lạc sang sống ở Pari từ sau Đại chiến thế giới thứ nhất, mẹ là một phụ nữ Pháp. Lên chín tuổi Mari theo cha mẹ hồi cư theo lời kêu gọi chiêu hồi của chính phủ Liên xô vào năm 1948, nay là sinh viên khoa Ngữ văn cùng một trường Đại học Tổng hợp Erevan. Một lần làm nhiệm vụ đội trưởng đội tự quản sinh viên ở cổng trường, Đavid đã tình cờ để ý thấy Mari…lập tức hình ảnh của Mari gây ấn tượng mạnh cho Đavid và chàng trai đã mê mẩn tìm cách làm quen với nàng. Chàng đã có cơ hội tự nguyện giúp nàng từ việc nhỏ nhất, mua hộ bữa ăn trưa cho nàng đến việc giải thoát cho nàng khỏi sự quấy quả hăm dọa của bọn côn đồ đường phố. Từ những sự quan tâm và nghĩa hiệp ấy dần dần nàng có cảm tình lại với Đavid. Mặc cho sự can ngăn chân thành của người bạn “nối khố” ngay từ sau những rắc rối đầu tiên xảy ra khi Đavid bắt đầu “dính" Mari, anh chàng Rapha hơn tuổi nhưng cùng khoa Luật: “tớ không khuyên cậu lằng nhằng với con búp bê đó. Quanh nó có cả trung đoàn bọn lượn vè vè, lại thêm một số cậu nghiêm túc nữa. Cậu sẽ vất vả, sẽ nhận được là: “vĩnh biệt, chàng trai, au revoir!”. Cô ta không dành cho cậu. Cô ta cần một chàng trai trí thức chững chạc, có tương lai chứ không phải một sinh viên năm thứ hai, dù là nhất đẳng môn vật tự do…” Bố mẹ Đavid cũng can ngăn con trai. Bố Đavid khuyên: “…Mari - không nghi ngờ gì, là một cô gái tốt, nhưng nó đã biết nó cần gì trong cuộc đời này, còn con thì chưa. Người vợ tương lai của con hiện đang học cấp một. Đấy, con xem mẹ con lấy bố trẻ hơn bố đến tám tuổi…Mari là người đồng niên với con nhưng trong cuộc sống nó già dặn và thông minh hơn con nhiều, phải đến bảy - tám năm. Con có thể là người đàn ông yêu quý của nó, nhưng không bao giờ là uy tín thực sự. Con cứ đi lại với con bé, làm bạn, nếu có thể có tình bạn đơn thuần, đừng ngu ngốc, đừng làm hỏng đời của con và của nó”. Nhưng tình yêu giữa đôi trai gái vẫn cứ mỗi ngày một khăng khít gắn bó. Đavid và Mari quấn quýt bên nhau như hình với bóng, như đôi sam bể…Vượt qua biết bao trở ngại thử thách trong bối cảnh xã hội có nhiều vấn đề phức tạp của lịch sử thời kỳ “băng tan” những năm 50, 60 thế kỷ trước ở Liên xô. Tình yêu khăng khít kéo dài suốt hơn bốn năm trời ăn học cho đến khi cả hai người cũng đã nhận được bằng tốt nghiệp, bắt đầu thu xếp công ăn việc làm… Đavid và Mari lại phải chia tay… Tình yêu không trọn vẹn mặc dù cả hai phía đều có thiện chí…Mari theo bố mẹ một lần nữa đi tái định cư ở Pari. Còn Đavid kiên quyết ở lại đất nước, quê hương với những người thân: cha mẹ, em trai mình, bạn bè, đồng nghiệp, kể cả những người bạn cùng học không tốt đẹp gì. Đavid đã từng khẳng định suy nghĩ và quyết định đúng của mình. Phản đối lại cái nhìn của ông Varugian, chuyên gia hóa học cũng là người hồi hương, luôn thất vọng từ khi trở về nước, Đavid khẳng định: “Chú cứ yên tâm, cháu ở đất nước của mình cảm thấy mình là người chủ!” Điều chia cắt mối tình không phải hai người cùng lứa tuổi, không phải những ghen tuông hờn giận thỉnh thoảng lại bột phát ở anh ở chị, cái thói thường của bất cứ đôi trai gái yêu nhau nào, không phải ở những hiểm nguy xã hội luôn rình rập…mà là ở cái nhìn một hiện thực xã hội khác nhau xuất phát từ môi trường văn hóa giáo dục của mỗi người, như có lần chính Đavid cũng đã nhận thức ra… Đavid và Mari chia tay nhau một cách đau đớn đầy nước mắt: “trước khi ra máy bay cùng cha mẹ trở lại Pari, Mari òa khóc nức nở. Không e ngại những người chung quanh, nàng ôm chặt lấy tôi, ghì sát vào ngực tôi”. Và chàng trai cũng: “Mái tóc sáng của Mari vừa mất hút không còn thấy, tôi mặc cho tình cảm bùng ra. Lấy cổ áo bành tô che đi, tôi nức nở khóc tức tưởi”. Một câu chuyện tình yêu, rất chân thật, được kể lại với những bối cảnh xã hội chân thật, được viết ra bởi tác giả, gần như tự sự cuộc tình duyên của chính mình. Những điều tác giả, một nhà khoa học dày dặn kinh nghiệm trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, trên cương vị với trách nhiệm của một nhà hoạt động xã hội có uy tín, hiện giữ các trọng trách trong giới trí thức đương đại ở Liên bang Nga, đưa ra trong cuốn tiểu thuyết đem cho người đọc nhiều hiểu biết, nhiều suy nghĩ như những bài học trong cuộc sống đang đi lên, hướng đến cái thiện, cái đẹp, hạnh phúc của con người. Đối với riêng tôi, như một người đọc, tôi vô cùng biết ơn tác giả. Có lẽ tôi hân hạnh được là người cùng thế hệ với tác giả, tuổi đời sấp xỉ hơn kém nhau chút ít. Tôi may mắn được sống ở Liên xô những năm tác giả miêu tả trong sách. Tôi cũng đã có lần từng được đến Erevan thủ đô của quê hương Armenia của tác giả, đến thăm ngôi trường Đại học Tổng hợp quốc gia Erevan, quảng trường Lênin, nơi nhân vật của cuốn sách đã ăn học, đã sinh sống… Cám ơn tác giả đã cho tôi sống lại tuổi trẻ của tôi, cho tôi thấy rõ thêm quê hương của ông, cho tôi thấy rõ hơn những bước đường tôi đã đi qua và hướng đi tiếp tới tương lai trên đoạn đường đi tiếp cùng với nhân dân, đất nước quê hương của mình. Và hy vọng rằng cuốn sách cũng để lại cho không ít bạn đọc khác ở Việt Nam có được những trải nghiệm như bản thân tôi… Dịch giả: THÚY TOÀN   R obert Enghibarian - Giám đốc viện Quốc tế điều hành (Đại học tổng hợp) MGIMO thuộc Bộ Ngoại giao Nga, Tiến sĩ khoa học luật pháp, Giáo sư, Nhà hoạt động công huân các khoa học của Liên bang Nga, Tiến sĩ Danh dự của Viện Hàn lâm khoa học nước cộng hòa Armenia và nhiều nước ngoài (Serbia, Sloveniya, Canada), nhiều trường cao đẳng Nga và nước ngoài. Trong cuốn tiểu thuyết tâm lý - bi kịch: những sự việc bi thảm của cuộc sống những người đương thời của tác giả đã diễn biến trên nền rất nhiều sự kiện xã hội - chính trị, nhiều biến thái của các quan hệ xã hội. Con người và thể chế, tình yêu và tình cảm, nghĩa vụ, tình bạn và sự phản bội, sự nóng vội của tuổi trẻ và sự sáng suốt của tuổi trưởng thành, những mô típ của các hành động con người, những sự thất thường của số phận luôn thay đổi - đó chỉ là một ít vấn đề mà tác giả suy nghĩ tới. Các hoạt động được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết, đều được dựa trên các sự việc có thật, tất cả các nhân vật đều có nguyên mẫu của mình và nhiều khi mang tên họ thật. Cốt truyện sinh động, các nhân vật sáng rõ mạnh mẽ, sự thật chướng tai gai mắt về sự không giới hạn trên bình diện quốc gia tái hiện lại bức tranh sống động của quá khứ vừa qua - mặt trái của thời kỳ băng tan(1) - thời kỳ Khơrusốp, .... được tiểu thuyết hóa. Mời các bạn đón đọc O, Mari! của tác giả Robert Enghibarian.
Lila K Hành Trình Tìm Lại - Blandine Le Callet
Một cuốn tiểu thuyết hướng nghiệp, nơi mà sự hồi hộp gay cấn pha lẫn với một câu chuyện tình gây bấn loạn. Hành trình tìm lại cuộc sống của Lila K cũng là một cuốn sách tự vấn về những tiến triển và những lệch hướng có thể về xã hội chúng ta. Trước tiên đó là một tiếng nói: tiếng nói của một cô gái trẻ nhạy cảm và chua cay, mong manh nhưng đầy ý chí, cô kể lại câu chuyện của mình kể từ ngay những người đàn ông bận đồ đen đến bắt cô khỏi tay mẹ mình, và đưa cô đến một Trung tâm, nửa ký túc xá, nửa nhà tù, nơi mà cô đã được ăn uống và học hành. Thông minh tuyệt đỉnh, không thích nghi với xã hội, bị trấn thương tinh thần nặng nề, Lila đã quên hẳn cuộc đời trước đây của mình. Cô chỉ có một nỗi ám ảnh: tìm lại mẹ mình, và những ký ức đã mờ nhạt xưa kia của mình mà thôi. Và thế là cô bắt đầu một công việc học tập hỗn độn, giữa một môi trường khác biệt hoàn toàn một cách kỳ dị, nơi mà sự an ninh hình như kể từ đây là rất đảm bảo, nhưng lại là nơi mà các tác phẩm sách báo không có chỗ trú. Theo dòng cuộc điều tra mà nó sẽ đưa cô ra đi trượt khỏi lề của sự chính đáng, Lila dần dần khám phá quá khứ của mình, và cuối cùng sẽ biết được mẹ của cô hiện giờ ra sao. Chặng đường đi của cô sẽ va phải con đường của nhiều nhân vật khác, trong số đó có một thầy giáo thông thái nhưng có tính khiêu khích, một người giáo dưỡng vừa rất đúng tập tục lại rất mẫn cán, một nữ nhạc công chơi đàn vi-ô-lon-xen bị suy nhược thần kinh do hiếm con, một nữ gác cổng hiểm độc, một thanh niên bị dị hình, một người ham tìm sách quý hiếm, một con mèo đa sắc… Mời các bạn đón đọc Lila K Hành Trình Tìm Lại của tác giả Blandine Le Callet.