Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sáu Kẻ Bất Hảo

Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình… "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới.   Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới. *** LEIGH BARDUGO - Nữ tiểu thuyết gia đa tài của dòng văn học fantasy Leigh Bardugo sinh ra tại Jerusalem và lớn lên ở Los Angeles. Cô là tác giả sách bán chạy của New York Times với các series tiểu thuyết Fantasy xoay quanh Vũ trụ Grisha, trong đó nổi bật là bộ sách MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN. Bardugo tốt nghiệp Đại học Yale, làm việc trong các lĩnh vực quảng cáo, báo chí, và gần đây nhất là hoá trang cùng hiệu ứng kĩ xảo. Ngoài ra cô cũng là một trong hai giọng ca chính của ban nhạc Captain Automatic. Bên cạnh đó, Leigh Bardugo cũng sẽ tham gia với tư cách giám đốc sản xuất series phim dài tập chuyển thể Vũ trụ Grisha sẽ được ra mắt vào cuối năm 2020 này do dịch vụ xem phim trực tuyến Netflix thực hiện. *** “Nhưng chẳng phải mọi cô gái đều mơ điều đó hay sao? Mở mắt dậy và thấy mình là công chúa. Hoặc được định mệnh ban cho những năng lực pháp thuật và một số phận phi thường. Có những người sống như thế… Nhưng với những người còn lại thì sao? Những người vô danh tiểu tốt, những đứa con gái vô hình thì sao? Chúng ta được dạy hãy ngẩng cao đầu như thể đang đội vương miện. Chúng ta được dạy viết nên những điều kỳ diệu từ sự tầm thường. Đó là cách thức mà bạn sống sót khi không phải người được chọn, khi trong huyết quản bạn không có dòng máu vương tộc. Khi thế giới chẳng nợ bạn gì sất, bạn vẫn lấy được thứ gì đó từ nó”. MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN Vậy là mình đã đọc xong trọn bộ “Móng vuốt quạ đen”. Tuy đã viết review cho tập 1&2 nhưng giờ mình sẽ review cho cả bộ truyện mà không đọc lại review của tập 1&2. Tập 3&4 được phát hành kèm theo boxset cho bốn cuốn, thay vào chỗ của hai cuốn 1&2 là hai hộp giấy có kích thước đúng bằng hai cuốn sách, ai đã mua tập 1&2 thì chỉ cần lấy hộp giấy ra và thay sách vào. Boxset được thiết kế rất đẹp, đồng điệu với bốn bìa sách, trong mỗi cuốn đều kèm theo một bookmark với hình vẽ “cắt” từ một phần hình bìa. “Móng vuốt quạ đen” thuộc thể loại truyện kỳ ảo phiêu lưu dành cho tuổi từ 12 trở lên, tuy vậy mình tin rằng tuổi 32 đọc vẫn sẽ thấy hay. Dàn ý tổng quan của cả bộ truyện là: Sáu kẻ bất hảo thuộc băng nhóm Cặn Bã của thành phố Kettledam được một thành viên cao cấp của Hội Đồng Thương Gia nhờ đi giải cứu một nhà phát minh đã sáng chế ra thứ ma túy có tác dụng gia tăng công lực cho các phù thủy (trong truyện gọi là Grisha). Bản thân nhà phát minh này cũng là một phù thủy, ông đang bị giam trong Lâu Đài Băng thuộc vùng đất băng tuyết của một vương quốc thù địch. Sáu kẻ bất hảo gồm: + Inej Ghafa: biệt danh Bóng Ma, chuyên thu thập thông tin + Kaz Brekker: biệt danh Tay Nhám, là một kẻ cướp và lừa đảo tàn nhẫn + Wylan: chuyên gia phá hủy, biết thổi sáo + Jesper Fahey: tay súng thiện xạ, cao lêu nghêu + Nina Zenik: một Grisha + Matthias Helvar: chiến binh của vương quốc thù địch Bộ truyện này của tác giả Leigh Bardugo ngắn hơn so với các bộ fantasy của Cassandra Clare, do đó mình có thể đọc hết bốn cuốn trong khoảng một tuần. Vì không có nhiều thời gian để đọc chứ nếu tập trung hoàn toàn thì mình nghĩ có thể đọc 1 cuốn / ngày. Tuy nhiên vì nhịp truyện khá nhanh, diễn biến dồn dập và kịch tính nên cần đọc chậm chút để thưởng thức cái hay của truyện và không quên tình tiết. Lúc đọc các cuốn này thì mình phải ngưng hoàn toàn những cuốn khác, vì “Móng vuốt quạ đen” thực sự rất hấp dẫn và dễ đọc, cứ muốn đọc tiếp hoài. Mỗi cuốn được chia thành các phần chính lớn, trong mỗi phần là từng chương nhỏ được tuần tự kể qua góc nhìn của sáu nhân vật chính. Tác giả rất biết cách “trói chặt” người đọc khi mỗi kết chương đều là những câu, những tình huống rất giựt gân, khiến người đọc không thể bỏ sách xuống và tự buộc mình phải thức thật khuya để đọc *** Joost có hai vấn đề: mặt trăng và ria mép. Lẽ ra cậu phải đi tuần tra quanh tư dinh của ngài Hoede, thế nhưng suốt mười lăm phút vừa qua cậu chỉ quanh quẩn ở bức tường phía đông nam của khu vườn, tìm kiếm trong vô vọng một thứ gì đó lãng mạn mà không ngớ ngẩn để nói với Anya. Giá mà cô có đôi mắt xanh như biển khơi hoặc như màu ngọc lục bảo. Nhưng chúng lại có màu nâu, đáng yêu và mơ màng… Nâu như sôcôla tan chảy ư? Hay là nâu như lông thỏ? “Cứ nói là làn da cô ấy tựa như ánh trăng,” anh bạn Pieter đã khuyên Joost như vậy. “Bọn con gái thích thế.” Một giải pháp hoàn hảo, nhưng thời tiết ở Ketterdam không chiều lòng Joost. Suốt cả ngày nay chẳng có cơn gió nào từ ngoài cảng thổi vào, lớp sương trắng đục quấn chặt những con kênh và ngõ ngách quanh co trong sự ẩm ướt. Ngay cả ở đây, giữa những tư dinh tại Geldstraat này, không khí cũng sực mùi cá và mùi nước súc hầm tàu. Khói từ các xưởng tinh chế trên những hòn đảo lân cận tạo thành một lớp mây mù thớ lợ che phủ bầu trời đêm. Vầng trăng tròn trông bớt giống một viên ngọc và như một cái mụn rộp vàng đục cần được chọc vỡ nhiều hơn. Hay là ca tụng nụ cười của cô ấy nhỉ? Chỉ có điều, Joost chưa bao giờ nghe Anya cười. Pha trò không phải là thế mạnh của cậu. Joost liếc nhìn mình ở một trong những tấm gương gắn trên các cánh cửa đôi dẫn ra vườn. Mẹ của cậu nói đúng: ngay cả trong bộ đồng phục mới này, trông cậu vẫn giống như một đứa con nít. Joost lướt nhẹ ngón tay qua môi trên. Giá như bộ ria mép của cậu chịu mọc. Dù sao thì nó cũng có vẻ dày hơn hôm qua, rõ ràng là thế. Mới làm vệ quân trong đội thị tuần được non sáu tuần lễ mà Joost đã thấy công việc này không thú vị như mong đợi. Cậu cứ tưởng mình sẽ được truy đuổi những tên trộm ở Barrel, hoặc đi tuần tra hải cảng để kiểm định những chuyến hàng cập bến. Nhưng từ sau vụ ám sát ông đại sứ tại Toà thị chính, Hội đồng Thương buôn liên tục kêu ca về tình hình an ninh, và thế là Joost bị mắc kẹt với việc đi lòng vòng quanh tư dinh của một tay lái buôn may mắn. Nhưng ông ta không phải là một kẻ vô danh. Ủy viên hội đồng Hoede là thương gia có chức vụ cao nhất trong chính quyền Ketterdam. Kiểu người có thể làm nên đại sự. Joost chỉnh lại áo xống và khẩu súng, rồi vỗ nhẹ cây dùi cui nặng trĩu treo lủng lẳng bên hông. Biết đâu cậu có thể lọt vào mắt xanh của Hoede. Tinh mắt và sử dụng dùi cui linh hoạt, cậu ta xứng đáng được thăng cấp!Joost hình dung ông ta sẽ nói như thế. “Trung sĩ Joost Van Poel,” cậu lẩm nhẩm, tận hưởng từng chữ một. “Đội trưởng Joost Van Poel.” “Đừng có ngắm vuốt nữa mà.” Joost giật nảy người, hai má đỏ ửng, trong lúc Henk và Rutger tiến ra vườn. Cả hai người đều lớn tuổi hơn, to con hơn và có đôi vai rộng hơn so với Joost. Họ là cận vệ trong nhà, gia nhân của ủy viên hội đồng Hoede. Do vậy họ được mặc chế phục mầu xanh của ông ta, mang những khẩu súng trường bá cháy của Novyi Zem, và luôn nhắc cho Joost nhớ rằng cậu chỉ là một anh lính quèn trong đội tuần tra của thành phố. “Có nâng niu mấy sợi râu loe ngoe đó thì cũng chẳng làm cho chúng mọc nhanh hơn được đâu,” Rutger nhận xét kèm theo một tràng cười sang sảng. Joost đáp, cố vớt vát một chút thể diện. “Tôi phải đi tuần tra nốt đây.” Rutger huých Henk một cái. “Có nghĩa là cậu chàng sắp thò đầu vào trong xưởng Grisha để ghé thăm bạn gái đấy.” “Anya ơi, em có thể dùng năng lực Grisha để làm râu anh mọc được không?” Henk chế giễu. Joost quay gót, hai má đỏ bừng, và bước đi dọc theo mặt đông của toà nhà. Bọn họ đã trêu chọc cậu từ hôm đầu tiên cậu đến đây. Nếu không vì Anya, chắc cậu đã nài nỉ đội trưởng cho mình đổi qua nhiệm vụ khác. Anya và Joost chỉ trao đổi với nhau vài lời trong các chuyến tuần tra, nhưng cô luôn là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong những đêm dài của cậu. Ngoài ra, Joost phải công nhận là cậu cũng thích tư dinh của Hoede, ít nhất với những thứ cậu quan sát được trong vài lần trộm nghía qua cửa sổ. Ngài Hoede sở hữu một trong những tư dinh lớn nhất Geldstraat. Sàn nhà được lát những vuông đá hai màu trắng đen, các vách tường gỗ bóng sẫm màu được chiếu sáng bởi những chùm đèn thuỷ tinh thổi giống như đàn sứa lơ lửng gần các ô trần. Đôi khi Joost vờ như đây là nhà mình, và cậu là một thương gia giàu có đang đi hít thở không khí trong khu vườn tráng lệ của mình. Trước khi đi tới góc tường, Joost hít một hơi thật sâu. Anya à, đôi mắt em nâu như… vỏ cây? Cậu sẽ nghĩ ra một thứ gì đó. Dù sao thì cậu nên ứng khẩu là hơn. Joost ngạc nhiên khi thấy mấy cánh cửa kính của xưởng Grisha đang mở. Sự giàu có của Hoede không chỉ nằm ở lớp gạch lam vẽ tay được lát trong nhà bếp hay những lò sưởi phủ đầy chậu hoa tulip, mà còn ở chính cái xưởng này. Các Grisha giúp việc theo giao kèo không hề rẻ, và Hoede có đến ba người. Nhưng Yuri không xuất hiện bên bàn thợ dài, còn Anya thì chẳng thấy đâu. Chỉ mỗi mình Retvenko đang ở đó, nằm ườn trên ghế trong chiếc áo choàng màu lam thẫm, mắt nhắm nghiền, một cuốn sách đang mở đặt trên ngực. Joost ngập ngừng trên ngưỡng cửa, rồi hắng giọng. “Mấy cái cửa này nên được đóng lại và khoá chặt vào buổi tối.” “Ở đây nóng như cái lò,” Retvenko dài giọng đáp lại mà không buồn mở mắt, với âm sắc Ravka nặng và uốn lưỡi nhiều. “Bảo Hoede là bao giờ tôi không chảy mồ hôi nữa thì tôi sẽ đóng cửa.” Retvenko là một Tiết Khí Sư, lớn tuổi hơn những Grisha giúp việc theo giao kèo khác. Mái tóc ông ta đã ngả màu muối tiêu. Theo lời đồn thì ông ta từng chiến đấu cho phe thua cuộc trong nội chiến Ravka và chạy sang Kerch sau đó. “Tôi sẽ rất sẵn lòng chuyển lời phàn nàn của ông tới Ủy viên hội đồng Hoede,” Joost nói dối. Toà nhà luôn luôn được sưởi quá mức như thể Hoede bị buộc phải đốt than, nhưng Joost không phải là người lưu ý chuyện đó với ông ta. “Trong lúc chờ đợi…” “Cậu có tin của Yuri à?” Retvenko cắt ngang, rốt cuộc cũng mở đôi mắt trũng sâu của mình. Joost bối rối nhìn những bát đựng nho đỏ và các chồng vải nhung màu đỏ rượu nằm trên bàn thợ. Yuri đang nghiên cứu cách nhuộm màu đỏ của trái nho cho những tấm rèm của phu nhân Hoede, nhưng mấy hôm trước anh ta ngã bệnh nặng và Joost không gặp anh ta kể từ lúc đó. Bụi đã bắt đầu bám trên chỗ vải nhung, còn những trái nho bắt đầu hỏng. “Tôi không nghe gì cả.” “Phải rồi. Cậu còn bận nghênh ngang tới lui trong cái bộ đồng phục tím ngớ tím ngẩn.” Đồng phục của cậu thì có liên quan gì? Mà tại sao Retvenko phải có mặt ở đây? Ông ta là Tiết Khí Sư riêng của Hoede, thường xuyên rong ruổi trên những con tàu hàng quý báu nhất của ngài thương gia để bảo đảm mưa thuận gió hoà, cho phép chúng cập bến an toàn và nhanh chóng. Tại sao ông ta không đi biển vào lúc này? “Tôi nghĩ có thể Yuri đang bị cách li.” “Hữu ích ghê,” Retvenko đáp với nụ cười khinh khỉnh. “Cậu có thể ngừng vươn cổ ngó nghiêng được rồi đó. Anya đi rồi.” Joost lại cảm thấy mặt mình nóng bừng. “Cô ấy đang ở đâu?” Cậu hỏi, cố tỏ ra uy quyền. “Cô ấy nên ở trong nhà vào buổi tối.” “Một giờ trước Hoede đã đưa con bé đi. Cũng giống như cái đêm ông ta đến tìm Yuri.” “Ông nói ông ta ‘đến tìm Yuri’ nghĩa là sao? Anh ta bị bệnh mà?” “Hoede đến tìm Yuri, khi về Yuri ngã bệnh. Hai ngày sau, thằng bé mất tích luôn. Giờ tới lượt Anya.” Mất tích luôn? “Biết đâu đây là một việc khẩn cấp. Nếu có ai đó cần được cứu chữa thì…” “Đầu tiên là Yuri, giờ là Anya. Tôi sẽ là người tiếp theo, và không ai để ý ngoại trừ anh lính quèn Joost. Cậu đi ngay đi.” “Nếu Ủy viên hội đồng Hoede…” Retvenko giơ cánh tay lên, và một luồng gió đẩy Joost lùi lại. Cậu loạng choạng cố đứng vững, bám tay vào khung cửa. “Tôi đã bảo đi ngay.” Retvenko vẽ một vòng tròn trong không khí và cánh cửa đóng sầm lại. Joost buông tay ra vừa kịp lúc để tránh bị kẹp ngón tay. Cậu ngã ra ngoài vườn. Joost đứng dậy nhanh hết mức có thể và phủi sạch bộ đồng phục với cảm giác nhục nhã ê chề trong lòng. Một tấm kính cửa đã bị rạn do lực tác động. Qua lớp kính rạn cậu nhìn thấy nụ cười của Retvenko. “Chuyện này sẽ được tính vào giao kèo của ông,” Joost vừa nói vừa chỉ tay vào tấm kính rạn. Cậu căm ghét giọng điệu nhỏ nhen ti tiện vừa bật ra từ miệng mình. Retvenko vẫy tay, và cánh cửa rung lên lạch cạch. Joost bất giác lui lại một bước. “Đi tuần đi, cún con à,” ông ta nói. “Mọi chuyện suôn sẻ ghê!” Rutger cười khúc khích, lưng dựa vào bờ tường của khu vườn. Anh ta đứng đó được bao lâu rồi? “Anh không có chuyện gì khác để làm ngoài bám theo tôi à?” Joost hỏi. “Tất cả các cận vệ được gọi đến nhà thuyền, kể cả cậu. Hay là cậu đang bận kết bạn?” “Tôi chỉ đang nhắc ông ta đóng cửa lại.” Rutger lắc đầu. “Đừng nhắc. Hãy ra lệnh. Bọn họ là gia nhân, không phải khách mời danh dự.” Trong lòng chưa hết nhục nhã, Joost bước đi bên cạnh anh ta. Tệ nhất là Rutger nói đúng. Retvenko không có quyền gì để mà nói năng với cậu như vậy. Nhưng cậu còn làm gì được đây? Ngay cả khi cậu có đủ dũng khí, việc ẩu đả với một Tiết Khí Sư cũng giống như đánh một cái bình đắt tiền. Các Grisha không phải là người giúp việc đơn thuần, họ là tài sản quý báu của Hoede. Ngụ ý của Retvenko khi nói về Yuri và Anya khiến Joost bận tâm. Có phải ông ta đang bao che cho Anya hay không? Các Grisha giúp việc theo giao kèo bị giữ ở trong nhà là có lí do cả. Nếu lang thang ngoài đường mà không được bảo vệ, họ có nguy cơ sẽ bị bọn buôn nô lệ bắt mất. Biết đâu cô ấy đang hẹn hò ai đó, Joost rầu rĩ phỏng đoán. Dòng suy nghĩ của Joost bị cắt ngang bởi ánh sáng và sự nhộn nhịp bên cạnh nhà thuyền đối diện dòng kênh, cậu có thể nhìn thấy ở bờ bên kia những toà nhà tráng lệ của các thương gia, cao và thanh thoát. Các đầu hồi gọn ghẽ trên mái tạo thành những hình thù đen thâm trên nền trời. Các khu vườn và nhà thuyền của chúng được chiếu sáng bằng những ngọn đèn lồng rực rỡ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trời Xanh Của Trái Đất Hồng - VItaliy Melentyev
Một truyện khoa học viễn tưởng về cuộc gặp gỡ tình cờ cùng chuyến du hành trong vũ trụ giữa một thiếu niên Trái Đất cùng những nhà du hành vũ trụ - cũng là thiếu niên đến từ hành tinh của họ - Trái Đất Hồng . Không quá khô khan và chứa đầy những kiến thức kỹ thuật phức tạp như các truyện khoa học viễn tưởng khác, những công nghệ của tương lai được tác giả mô tả một cách trực quan và dễ hiểu nhưng không kém phần thú vị và cuốn hút. Truyện này mình đọc lần đầu tiên năm 1986, cũng là năm nó được xuất bản lần đầu. Hiện nay truyện đã được tái bản . *** Khi Iuri bước ra khoảng rừng thưa mà em rất thông thạo (vì ở đấy bao giờ cũng có nhiều dâu rừng đang chín) thì Sarik đã đứng trước ở đó rồi, chân đang dậm dậm. Nó hết giơ chân này lại giơ chân khác lên và sủa ăng ẳng. Iuri phá lên cười – cái con Sarik này đến là ngộ và hay hoảng hốt quá. Nhưng sau … Nhưng sau thì chính em cũng suýt buột miệng kêu lên. Không, không phải vì em sợ hãi. Nếu Iuri đã có đủ can đảm bỏ nhà ra đi, và bỏ nhà ra đi một cách đàng hoàng, viết giấy hẳn hoi để lại cho bố mẹ, nếu khi đã đi hẳn rồi, em còn không quên đưa đơn thuốc của bà em đến hiệu dược phẩm và lấy số tiền để dành ít ỏi của mình để trả tiền thuốc, và cuối cùng nếu đêm qua em đã ngủ lần đầu tiên trong rừng mà không sợ tiếng kêu của lũ chim đêm, không sợ những tiếng sột soạt và lách tách vẳng lên khắp xung quanh, thì tức là Iuri không thể lại kêu lên vì sợ hãi được. Ừ, mà có gì phải sợ cơ chứ? Em muốn kêu lên là vì khoái chí, vì ngạc nhiên, và còn vì một cái gì đó thật mơ hồ, không tài nào hiểu nổi. Nhưng Iuri là đàn ông, một người đàn ông thực sự. Bởi vậy em chỉ khẽ huýt một tiếng sáo. Sarik quay ngay đầu lại và vẫy vẫy đuôi cụt ngủn. ... Mời các bạn đón đọc Trời Xanh Của Trái Đất Hồng của tác giả VItaliy Melentyev.
Nữ Hoàng Thinh Lặng - Marie Nimier
Nữ hoàng thinh lặng, cuốn tiểu thuyết thứ chín là một truyện kể đầy xúc động về những quan hệ rất khó khăn giữa tác giả với người cha của mình. “Nữ hoàng thinh lặng” – cha của Marie từng gọi cô bằng biệt hiệu này khi cô còn bé. Ông là nhà văn Roger Nimier, nổi tiếng từ tuổi hai mươi lăm với tác phẩm Khinh kỵ binh màu lam, chết vì tai nạn xe hơi năm 1962, ở tuổi băm sáu. Ngồi cạnh ông trên xe hơi và chết cùng ông là nữ tiểu thuyết gia xinh đẹp hai mươi bảy tuổi, mang cái tên lạ Sunsiaré de Larcône. Lúc đó Marie mới lên năm. Về ông bố tài hoa mệnh yểu, đứng đầu nhóm nhà văn trẻ ngỗ ngược mà mọi người gọi là các “khinh kỵ binh”, những kẻ “vô chính phủ và khuynh hữu”, khước từ văn học dấn thân theo kiểu Sartre, nhạo báng tiểu thuyết luận đề, chắc chắn Marie chẳng có nhiều kỷ niệm. Sau này, không cố ý mà khi ký tên, cô thường viết Ni-er, thay hai chữ m và i ở giữa bằng một nét gạch dài, thành thử tên cô hóa ra Nier (chối bỏ), như thể trong vô thức cô chối bỏ người cha. Và một thời gian dài Marie từng theo phái tả, có những lúc cực tả, đó cũng là một cách chối bỏ. Phải đợi đến đến tuổi bốn mươi bảy, sau khi đã viết và công bố tám cuốn tiểu thuyết, Marie Nimier mới quyết định lần theo dấu vết của cha, cố tái tạo bức chân dung đầy nghịch lý, mâu thuẫn. Đó là một người bố “chẳng thực sự ở đó khi ông đang hiện diện, chẳng thực sự vắng mặt khi ông rời bỏ chúng tôi” – sau này Marie biết rằng vào lúc cô sinh ra, cha mẹ cô đang tính chuyện ly hôn. Là nhà văn chói sáng đến mức tác phẩm trở thành tên gọi cả một nhóm, một khuynh hướng sáng tác, ông ngừng sự nghiệp tiểu thuyết rất sớm và cũng chóng bị lãng quên. Là “một con người thung dung nhẹ nhõm, nghiêm túc, dối trá, trung thực, chậm chạp, nhanh nhẹn, cần mẫn, lười nhác, trơ tráo, ái quốc, tàn nhẫn, yêu thương, dửng dưng, say đắm, trang trọng, phù phiếm, đúng đắn, vụng về trong tình cảm như thể người ta lóng ngóng chân tay”, bạn bè Roger miêu tả ông như vậy. Marie hoài nghi những tính từ “đóng sống” một cá tính, giam cầm một nhân cách. Các từ điển văn học, từ điển tác gia, như cô viện dẫn, cũng không giúp nhiều lắm: “Bảo hoàng dạng d’Artagnan, có kiến thức vô cùng rộng lớn, Roger Nimier đi ngược lại những gì ông coi là thứ suy-nghĩ-cho-sẵn của thời đại ông, giới tri thức cánh tả, chống lại họ sẽ là những người được đặt biệt hiệu Khinh kỵ binh…”. Để khám phá điều bí ẩn, để hiểu sự dữ dội và những dằn vặt ở chàng khinh kỵ binh trứ danh, Marie Nimier cô con gái viết về bố, nhà văn viết về nhà văn, đã tìm đến những nơi, những người, những thứ có thể giúp hồi ức sống lại: cô tới thăm mộ cha, đi gặp người anh ruột, người anh cùng mẹ khác cha, rồi người con của nữ tác giả xinh đẹp tử nạn cùng Roger, phát hiện những bức thư chưa từng công bố của ông… Song trước hết, và chủ yếu, cô thực hiện cuộc du hành vào tuổi thơ chao đảo không an ổn của chính mình, chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối gia đình cô và bản thân cô với người cha lãng tử, với ông bố từng có mà cũng không hề có. Và, dần dà dần dà, trong khi đan dệt, phân tích mạng lưới những hồi tưởng, những quan hệ, lấp đầy khoảng trống do người cha chết yểu để lại, Marie không chỉ tìm lại được cha mà còn tìm lại được bản thân, không chỉ hòa giải với cha mà còn hòa giải với chính mình. Xem lại bản thảo cuốn tiểu thuyết Trẻ thơ buồn của cha, cô phát hiện “có lòng nhân hậu trong nét bút”, và đột nhiên thấy hình như kiểu chữ ấy không thể là kiểu chữ của một kẻ hung bạo, tàn ác. Trên một tấm bưu ảnh, Roger đã viết cho cô con gái nhỏ: “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?”. Với bé Marie, ở đó chứa đựng một ẩn ngữ không sao giải được: “Nữ hoàng thinh lặng có thể nói gì để không bị mất danh hiệu của mình và không mất tình thương yêu của cha?”. Cuối cùng nữ tác giả đã tìm ra cách giải đáp: viết văn chính là “nói trong lặng thinh”, nhà tiểu thuyết là người vừa nói vừa không nói, kể chuyện mà vẫn im tiếng. Khi được hỏi nên giới thiệu Nữ hoàng thinh lặng như tiểu thuyết hay truyện kể, Marie Nimier trả lời là cứ để trống đừng xác định. Quả thật trong tác phẩm có kết cấu vừa tài tình vừa mang tính mộng du này, hư cấu và thực sự chồng lên nhau, quá khứ và hiện tại hòa trộn. Theo tác giả, có lẽ đó là một essai, không phải theo nghĩa tiểu luận, mà theo nghĩa đầu tiên của từ này: thể nghiệm. Với bút pháp giản dị và mực thước, với giọng điệu cực kỳ chính xác và tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng, không trách cứ, không oán hận, lay động tâm hồn người đọc tận bề sâu. Tác phẩm đã được trao tặng giải Médicis 2004. LÊ HỒNG SÂM *** Nữ hoàng thinh lặng là cuộc du hành vào một tuổi thơ chao đảo của chính tác giả - nhà văn Marie Nimier – để chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối cô với người cha quá cố lãng tử “có mà như chưa hề có”. Câu chuyện kể sống động và giản dị, những hồi ức miên man cứ thế chảy trôi vào lòng người. “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?” để không vĩnh viễn mất đi tình yêu của cha? Đó là thông điệp hiếm hoi sót lại từ người cha - một nhà văn tài hoa nhưng yểu mệnh, tín hiệu của tình yêu mà tác giả vin vào đấy để giải mã trong suốt cuộc kiếm tìm.  “Cha tôi qua đời vào một chiều thứ sáu, ở tuổi ba sáu…” trong một tai nạn xe khi đi chơi với người tình. Điều này đã khắc sâu trong lòng cô con gái bé bỏng và nhạy cảm thêm một vết hằn, cùng với tuổi thơ thiếu vắng tình thương trong một gia đình mà cha mẹ ly dị khi cô con gái duy nhất chỉ mới lên 5. Trong một khoảng thời gian dài, cô đã cố gắng bôi xóa hình ảnh cha trong ký ức, bởi nỗi mất mát lớn lao hơn cả đó là lòng tin vào cuộc sống, vào con người, vào tình yêu và hạnh phúc. Những kỷ niệm nhức nhối ào ạt kéo về, từ việc tìm thăm mộ cha cho đến những phát hiện đầy bất ngờ nơi bạn bè, đồng nghiệp một thời của ông đã khơi lại những ký ức rất đỗi sống động, cuốn hút, những bí ẩn tưởng đã vĩnh viễn chôn vùi. Nimier phát hiện mình giống cha kinh khủng, càng tìm hiểu, cô càng thấy yêu thương và thông cảm, thứ tình yêu bấy lâu cố đè nén, cố xóa bỏ bởi thù hận, hiểu lầm… Và Nữ hoàng thinh lặng đã không thể thinh lặng mãi, không thể chôn vùi theo cha mãi những yêu thương, day dứt. Dẫu muộn màng, cô đã viết tất cả mong giải tỏa đám mây mù giữa hai cha con, không trách cứ cũng chẳng còn oán hận… Marie Nimier là nữ nhà văn Pháp, sinh tại Paris. Cô cho ra mắt quyển tiểu thuyết đầu tiên năm 28 tuổi và tiếp tục thành công cho đến nay, Nữ hoàng thinh lặng là tiểu thuyết thứ 9 của cô, được khán giả khắp thế giới đón nhận, được tặng giải thưởng Medicis 2004. Một giọng văn nữ mộc mạc, giản dị, ngọt ngào, đằm thắm mà sâu sắc, với bút pháp mực thước, giọng điệu tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng đã lay động tâm hồn độc giả tận bề sâu. *** Marie Nimier là một tiểu thuyết gia và nhạc sĩ người Pháp, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1957 tại Paris, là con thứ hai của Nadine và Roger Nimier. Marie  bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1985, và ngay lập tức tác phẩm đầu tay Sirene (Tiên cá) của bà đã được Viện Hàn lâm Pháp đánh giá cao. Những tiểu thuyết đã xuất bản: Sirène (Tiên cá), NXB Gallimard, Paris, 1985 La Girafe (Hươu cao cổ), NXB Gallimard, Paris, 1987 Anatomie d'un chœur (Cấu tạo của một điệp khúc), NXB Gallimard, Paris, 1990 L'Hypnotisme à la portée de tous (Thuật thôi miên dành cho mọi người), NXB Gallimard, Paris, 1992 La Caresse (Mơn trớn), NXB Gallimard, Paris, 1994 Celui qui court derrière l'oiseau, NXB Gallimard, Paris, 1996 Domino, NXB Gallimard, Paris, 1998 La Nouvelle Pornographie, NXB Gallimard, Paris, 2000 La Reine du silence (Nữ hoàng thinh lặng), NXB Gallimard, Paris, 2004 (đoạt giải Prix Médicis, 2004) Les Inséparables (Không thể tách rời), NXB Gallimard, Paris, 2008 (đoạt gải Prix Georges-Brassens, 2008) Photo-Photo, NXB Gallimard, Paris, 2010 *** Franck mang cây vào nhà, bọn trẻ trang trí nó, chúng làm một con lừa đất (con trước bị mất hai chân), làm trắng khung cửa sổ bằng bình xịt và treo quanh cửa những cành ô rô và chùm tầm gửi. Trên cuốn lịch Mùa vọng, chỉ còn sáu ngày nữa. Franck cắm điện súng bắn nhựa để sửa chuồng bò bị rời ra. Khi Élio tìm đôi ủng để đặt dưới cây thông, nó tự hỏi phải đặt một, hay là hai chiếc. Câu chuyện lại làm Franck nhớ lại. Cái này làm anh nhớ – Franck nói, quay người về phía tôi, khẩu súng ngửa lên để tránh keo nhỏ giọt lên bàn bếp – cái này làm anh nhớ tới giày của bố em. Chiếc giày của bố tôi ư? Tôi không hiểu anh muốn nói gì. Anh ngạc nhiên là tôi không biết chương có ý nghĩa này của bản anh hùng ca gia đình. Một tối mẹ đã kể lại cho anh trong khi tôi đọc cho bọn trẻ. Theo anh, hiển nhiên tôi phải biết. Câu chuyện ư? Một buổi tối năm 1962, Frédéric Dard và vợ từ Paris quay trở lại Mureaux nơi họ ở trong thời kì đó. Xa lộ phía tây không một bóng người. Họ nhận thấy, ở phía con đường, khối màu sẫm của một chiếc ôtô gặp tai nạn. Nghĩ rằng tai nạn vừa mới xảy ra, họ dừng lại để cấp cứu người qua đường, nhưng không còn ai ở vệ đường. Chỉ có một chiếc giày vương vãi trên bờ dốc, một chiếc giày côi cút mà vợ chồng nhà văn khai báo trong đồ vật thất lạc, như thể cử chỉ này có thể làm dịu đi chút ít linh cảm về điềm gở. Chiếc giày này, người vợ ông ta nói về nó như về một con vật nhỏ nhắn, một cái gì đó mềm mại và ấm nóng. Bà ta nhìn thấy nó, bốn mươi năm sau, bà ta vẫn còn cảm thấy nó ở trong tay. Bà ta chưa bao giờ kể câu chuyện này trước đám đông, rất đơn giản vì nó không phải là một giai thoại mà là một thời khắc quan trọng của cuộc đời họ. Chỉ vào hôm sau, khi đọc hàng tít lớn của các báo, họ mới biết được sự thật hiển nhiên: họ đã giữ trong tay chiếc giày của Roger Nimier. Chuồng bò được gắn lại, và chúa Jésus ở trong lòng mẹ mình. Đức Mẹ đồng trinh trùm khăn màu lam. Lũ trẻ làm cho đức mẹ một loại tạp dề di chuyển được để đứa bé có thể ra ngoài và tìm được vị trí trong chiếc máng vào nửa đêm ngày 24. Jeseph đứng xa hơn một chút, chống gậy. Ông ta có vẻ mệt mỏi. Xa hơn nữa, Ba Vua đã ở đấy bước đi bên cạnh lạc đà của họ. Một vòng hoa nhấp nháy được gắn vào cành thấp tạo ra chút ít ảo giác cho toàn bộ cảnh vật. Cuối cùng, Élio để hai chiếc ủng dưới cây thông và Merlin, một đôi giày mềm của năm trước. Đối với tháng Mười Hai thì thời tiết này đặc biệt dễ chịu. Tôi hay nghĩ tới chiếc giày. Tôi có cảm giác cầm nó trong tay, như thể chính tôi là người nhặt nó bên vệ đường. Cử chỉ đặt chiếc giày vào trong ôtô khiến tôi xúc động mãi không thôi. Trò chơi ghép hình đã hoàn tất, hay ít ra là khung của nó, viền của nó: ở phía trong, có một khoảng trống lớn nơi mà đôi chỗ những tập hợp mảnh ghép được đặt vào, những hòn đảo nhỏ rời rạc mà giờ đây được nối lại với nhau bằng các đường ngoằn ngoèo giống như con đường bị từ ngữ đào xới. Và những từ ngữ cần thiết, kì lạ thay, những từ ngữ đã lưu thông, đủ sức để lại dấu vết của chúng, dường như được sắp xếp quanh mảnh bị khuyết, mảnh đã được tìm ra, mà không cần có một kế hoạch, một chiến lược viết lách nào điều khiển kết quả này.   Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Thinh Lặng của tác giả Marie Nimier.
Một Người Chân Chính - Boris Polevoy
Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông. Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế. Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Người dịch Minh Đô (Phạm Dân). *** LỜI TÁC GIẢ Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ. Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em. Mạc tư khoa (Mascơva) 2-1960 Bôris Pôlêvôi *** LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ   Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin. Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp. Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi. Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất. Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó. Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi [1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí. Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác. Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát. Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè. Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể. Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm. Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích. Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích. Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản. Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ. Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn. Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy. Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi. Có người đôi khi hỏi tôi: - Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ. Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra. Sự việc xảy ra như thế này này. Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin. Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo. - Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả. Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được. Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi. Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta. Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú. Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến. Bôris Pôlêvôi Mátxcơva Tháng 11 năm 1950   Mời các bạn đón đọc Một Người Chân Chính của tác giả  Boris Polevoy.
Đấu Trường Đen - Mario Puzo
Tác giả của tiểu thuyết Bố già lừng danh tiếp tục cho ra mắt bạn đọc cuốn Đấu trường đen. Tác phẩm lấy bối cảnh nước Đức sau Thế chiến thứ II, với không gian trải rộng từ nước Mỹ xa xôi tới tận Berlin hoang tàn đổ nát. Cuốn sách kể về cuộc đời của Mosca, chàng cựu chiến binh trẻ với tâm hồn chai sạn vì hội chứng chiến tranh chán ngán rời bỏ nước Mỹ quay lại Berlin đổ nát để bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, cũng để tìm lại cô gái Đức mà anh tình cờ gặp trong cuộc chiến... Đấu trường đen còn là bản mô tả đời sống Berlin sau chiến tranh hết sức chân thực, sống động với những vụ áp phe chợ đen, buôn lậu, những thủ đoạn lừa đảo..., và những tình bạn chân thành, những mối quan hệ nồng ấm tình người. Liệu tình yêu của cô gái Đức có làm mềm lại tâm hồn chai sạn của Mosca? Sự hỗn loạn sẽ kéo dài trong bao lâu?... Đấu trường đen sẽ lý giải tất cả.   Đấu Trường Đen chỉ với 300 trang, hơn mười nhân vật chính và một ít nhân vật phụ... thế mà cuốn sách bao trùm không gian rộng lớn, đủ sức đánh dấu sự kiện lịch sử mang tính chủ đề lên án chiến tranh và kêu gọi loài người muốn sống phải loại trừ chiến tranh. Đấu Trường Đen gợi lại hậu quả chiến tranh qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, có sức thấm sâu, tạo xúc tác lớn... Toàn bộ cuốn sách là lời cảnh tỉnh bọn hiếu chiến ích kỷ khi ngọn triều chiến tranh chưa có dấu hiệu ngưng tràn tới. Ở lĩnh vực văn học Đấu Trường Đen ngoài giá trị nghệ thuật cống hiến cho bạn đọc, còn có ích cho các nhà văn trẻ bởi tính khái quát đề tài và cấu trúc chương mục, phân bố nhân vật với đường viền hiện trường và bối cảnh lịch sử. Bản dịch khác của Nhà Xuất Bản Phương Đông là Đấu Trường U Ám. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) ... Mời các bạn đón đọc Đấu Trường Đen của tác giả Mario Puzo.