Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ông Già Goriot - Honore de Balzac

Ông Già Goriot là một tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1835 của nhà văn Pháp Honoré de Balzac. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng (Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). Lấy bối cảnh là kinh đô Paris năm 1819, Ông Già Goriot đề cập tới số phận của ba nhân vật, ông lão Goriot, tên tù khổ sai vượt ngục Vautrin và anh sinh viên luật Eugène de Rastignac. Tiểu thuyết này được coi là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Balzac, nó lần đầu tiên cho thấy ý định của nhà văn trong việc nối kết các tác phẩm riêng lẻ của bộ Tấn trò đời bằng những nhân vật xuất hiện qua nhiều tiểu thuyết (điển hình là Rastignac). Ông Già Goriot cũng là điển hình cho chủ nghĩa hiện thực trong phong cách viết của Balzac với những nhân vật được mô tả chi tiết và có chiều sâu. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. *** Kính tặng đại danh sĩ Geoffroy Saint Hilare để tỏ lòng ngưỡng mộ sự nghiệp và thiên tài cùa ông De Balzac Bà Vauquer, nhũ danh de Conflans, là một bà già từ bốn mươi năm nay đang cai quản tại thành Paris một ký túc xá ờ đường mới Neuve Sainte Geneviève, khoảng giữa xóm la tinh và vùng ngoại ô Thánh Marcel. Ký túc xá này được gọi là ký túc xá Vauquer nhận ở trọ cả đàn ông lẫn đàn bà, cả người già cả đến hạng thanh niên, mà chẳng bao giờ thanh danh của nhà trọ ấy bị xuyên tạc. Nhưng cũng đã ba mươi năm nay, không hề có một người trẻ tuổi nào ờ đây, và nếu có thanh niên nào lạc lõng chốn này thì có lẽ thanh niên ấy chỉ nhận được của gia đình một số tiền cấp dưỡng rất kém cỏi. Tuy nhiên, vào năm 1819, là lúc mở màn tấn thảm kịch sắp kể ra đây, nhà này có chứa một thiếu nữ khôn lớn. Ta cần phải dùng chữ thảm kịch ờ đây, dầu danh từ này đã mất cả ý nghĩa vì người ta đã quá lạm dụng và quá ngược đãi nó trong thời buổi văn chương bi khổ này? Không phải vì câu chuyện có một kịch tính thật sự: nhưng câu chuyện kể ra có cũng sẽ làm cho đọc giả xa gần không cầm được nước mắt intra muros et extra? Nhưng bạn sống xa cách Paris thông cảm được câu chuyện này chăng? Điều đó không chắc. Những đặc tính của “Cảnh đời” (Scènce de la vie privée) này mang nặng màu sắc địa phương mà chỉ những dân ở giữa đồi Montmartre và vùng Montrouge, ở cái thung lũng nổi danh vì đầy vôi gạch lúc nào cũng sắp sụp đổ và đầy những rạch bùn đen. Cái thung lũng đầy những đau khổ thực sự, những vui mừng thường là giả tạo, cái thung lũng đã hằng bị náo động ghê gớm, đến nỗi chỉ có chuyện gì thật quá lố mới có thể gây được ở đây một cảm xúc lâu dài. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những nỗi đau khổ mà do sự quy tụ của tệ tập và đức hạnh đã làm cho thành lớn lao và nghiêm trọng: trước những cảnh huống ấy, lòng ích kỷ và quyền lợi đều trăm lại và thương cảm; nhưng sự khích động ấy chỉ như một quả ngon được nhai nuốt mau lẹ. Chiếc xe của văn minh, chẳng khác chi chiếc xe chở tượng Thần ờ thành Jaggernath (1), chỉ chậm tiến đôi chút vì có một mảnh tim khó nghiến hơn chững tim khác đã làm kẹt bánh thần xa. Và chính người cũng sẽ làm như thế, người là kẻ đang cầm cuốn sách này trong bàn tay trắng, là kẻ đang chễm chệ trên chiểc ghế bành êm dịu, và người cũng tự nhủ thầm: “Cái này có lẽ cũng tiêu khiển ta được đây!”. Lúc đã đọc xong những nghịch cảnh âm thầm của ông già Goriot, người sẽ ăn ngon cơm; còn lòng người không chút rung cảm, người chỉ quy tội cho tác già đã nói quá, hoặc đã thi vị hóa câu chuyện. Ẩy, nhưng người hãy biết cho rằng tấm thảm kịch xảy ra đây không phải là chuyện bịa đặt hay là một tiểu thuyết. Tất cả đều có thật (2), thật đến nỗi ai cũng có thể nhận thấy từng chi tiết ở ngay mình, có lẽ ở ngay nội tâm mình. Ngôi nhà dùng làm ký túc xá thuộc quyền sở hữu của bà Vauquer. Nhà ở dưới dốc Đường mới Sainte Genevière, ngay chỗ con đất uốn thấp xuống để rẽ qua đường Cái Ná một cách rất đột ngột và rất gắt, đến nỗi ngựa ít lên xuống con đường đó. Trường hợp này đã làm thuận tiện cho không khí êm lặng ở những con đường bị ép giữa khu vực nhà thờ Val de Grâce và đền Panthéon: hai lâu đài đã biến đổi bầu không khí với những màu vàng tung vào đấy, và đã làm mọi vật phải tối tăm vì những mầu sắc chát chúa của các nóc dọi xuống. Ở đây những đá lát đường khô ráo, những rãnh chẳng có nước mà cũng chẳng có bùn, cỏ mọc ven theo các bức tường. Người rất vô tư vào đây cũng phải u buồn như những khách khác, tiếng ồn một cái xe đến đây cũng thành một biến cố đặc biệt, nhà cửa ủ rủ, tường vách sặc mùi một ngục tù. Một người dân Paris lạc loài vào đây chỉ nhận thấy toàn những nhà trọ tầm thường hoặc những trường học, một vẻ nghèo nàn hoặc buồn nản, những người già sắp chết, hoặc những thanh niên đang tươi vui mà phải cặm cụi làm việc. Không một xóm nào ở Paris có thể ghê tởm hơn, hoặc ít người biết hơn. Nhất là con đường mới Sainte Genevière giống như một cái khung bằng hoàng đồng, cái khung cảnh độc nhất hợp với cốt truyện này: để đưa vào cốt truyện và để hiểu, không gì bằng những màu sắc nâu sậm, những lý tưởng trang trọng... cũng như từ bậc một ánh mặt trời tối dần và tiếng hát người đánh xe trầm dần lúc kẻ lữ hành xuống đần Hầm mộ. So sánh đúng thay! Nào ai đoán định được còn gì rùng rợn hơn sự việc này, ai, những kẻ có một quả tim khô héo, hay những kẻ mang một khối óc trổng rỗng? Mặt tiền của ký túc xá nhìn xuống một cánh vườn nhỏ, và cái nhà đâm thẳng góc ra đường Mới Sainte Genevière, trông hình như cái nhà bị con đường cắt sâu vào vậy. Dọc theo mặt tiền nhà, giữa nhà và vườn có một đám sân sỏi lõm sâu vào và rộng lối một thước (3); trước đám sân là một con đường nhỏ rải cát, hai bên có những cây phong lữ thảo, trúc đào và cây lựu trồng trong những chậu lớn bằng sành màu xanh và trắng. Người ta vào đường nhỏ ấy do một cửa lớn trên có tấm bảng mang chữ: Nhà Vanquer, và ở dưới: Nhà trọ cho cả nam phụ lão ấu. Ban ngày, một cánh cửa song thưa có mắc cái chuông rung kêu rổn rảng để thấy ở cuối con đường nhỏ, trên bức tường đối diện với đại lộ một cái vòm tròn vẽ màu cẩm thạch xanh do tay một họa sĩ trong xóm vẽ. Trong chỗ lõm dưới vòm vẽ ấy, có đựng cái tượng thần Ái tình. Nhìn lớp sơn long của bức tượng, những người thích tượng trưng có lẽ nhận thấy đây là một thần thoại của thứ tình ái ở thành Paris mà người ta đang chữa bệnh khỏi được chỉ cách đó vài bước đường. Trên đế bức tượng, một hàng chữ đã bị xóa hết phân nửa làm cho ta nhớ tới cái thời đã xây dựng kỷ vật trang trí này, do lòng hâm mộ đối với văn hào Voltaire, đã trở về Paris vào năm 1777. Đây là thầy ngươi, bất cứ người là ai: Hiện tại ông là thầy ngươi, trong quá khứ ông cũng đã là thầy, hoặc ông phải là thầy của ngươi. Tối đến, cánh cửa song thưa được thay thế bằng một cánh cửa kín. Cái vườn nhỏ rộng bằng bề dài mặt tiền cái nhà, ở giữa bức tường phía đường cái và bức tường ngăn cách nhà bên cạnh. Một màn bìm bìm treo dọc phủ kính cả bức tường chung này, và giữa thành Paris đây là một cảnh đẹp làm người qua đường lưu ý: Mỗi tường thành đều cổ phủ một thảm cây nho hoặc cây ăn quả khác với những lớp trái mảnh mai và đầy bụi: những trái cây này là mối lo âu hằng năm của bà Vanquer và là đầu đề của những cuộc trò chuyện của bà và các khách ở trọ. Dọc theo mỗi bức tường có một đường nhỏ dẫn đến một lùm cây điền ma (4) cái tên cây mà bà Vanquer tuy thuộc dòng dõi de Conflans vẫn đọc trại đi, dầu mấy khách trọ cố phê bình về văn phạm cho bà. Giữa hai con đường bên hông là một cái bồn vuông trồng artisô, có kèm những cây ăn quả được cắt cành lá tròn như búp chỉ, chung quanh thêm những cây chua me, rau diếp hay ngò tây. Dưới vòm cây điền ma có để cái bàn tròn sơn màu lục, có ghế để quanh. Những ngày nóng bức, những khách trọ nhà giàu có thể dùng đến cà phê được đều ra ngồi đây uống nhâm nhi trong lúc ánh nắng có thể làm nở được trứng ấp. Mặt tiền cao ba tầng có cả rầm thượng kiến trúc bằng đá cuội và quét bằng thứ màu vàng nó đã làm cho hầu hết những nhà ở cận Paris đều có cái vẻ khả ố làm sao. Mỗi tầng lầu có năm cửa sổ đều lắp kính nhỏ và đều có bỏ mành mành, nhưng chẳng có bức mành nào được cuốn lên giống nhau, thành thử chẳng bức nào ngay hàng với bức nào. Bề sâu nhà có hai cửa sổ, và tầng dưới hai cửa sổ này được trang trí bằng những song sắt có rào lưới. Sau nhà có cái sân rộng độ hai chục bộ (5): trong sân phát hiện một cuộc sống chung rất hòa hiệp giữa những giống lợn, gà, thỏ.., và phía sau có một cái kho để củi. Giữa kho củi và cửa sổ của nhà bếp, có treo một tủ đồ ăn, dưới tủ là dòng nước dơ của chậu rửa bát. Từ sân này ra đường Mới có một cửa nhỏ do đó đầu bếp đổ rác rến trong nhà ra đường và giội nước chùi rửa nơi đây, nếu không có thể phát bệnh ôn dịch. Lẽ tất nhiên tầng dưới nhà dùng làm nhà trọ và gồm có một phòng ngoài: phòng này được sáng nhờ hai cửa sổ trông ra đường, đi vào do một cửa lớn vừa là cửa sổ. Phòng khách này thông vào một phòng ăn, rồi đến cái chân cầu thang mới đến nhà bếp. Bậc thang bằng gỗ và gạch vuông sơn màu, đánh bóng. Chẳng có gì buồn hơn quang cảnh cái phòng khách đầy ghế bành và ghế dựa bọc vải sọc chen lẫn đường lì và đường láng. Giữa phòng kê một bàn tròn mặt cẩm thạch trang trí bằng hình cái quán trên một tấm sành trắng viền chỉ vàng đã phai hết nửa hình trang trí mà hiện nay đâu cũng có. Nền phòng lát gập ghềnh, tường đóng ván đến ngang lưng người đứng. Phần trên tường còn lại thì dán một giấy sơn vẽ những cảnh chính của truyện Télémaque với các nhân vật vẽ màu. Khoảng giữa hai cửa sổ rào lưới sắt là bức tranh vẽ buổi tiệc của nữ thần Calypso đãi con trai vua Ulysse (6). Trong bốn mươi năm trường, bức vẽ đã gợi bao nhiêu lời chế giễu của bọn thanh niên ở trọ: tự kiêu ngạo bữa ăn mình, bọn này vẫn tưởng đang ở một địa vị cao sang hơn cảnh hiện tại mà sự nghèo khổ đã buộc họ vào. Lò sưởi được trang trí bằng hai độc bình cắm đầy hoa giả đã cũ rích và được bọc lồng lại, ở giữa là một đồng hồ bằng cẩm thạch màu xanh nhạt rất xấu xí. Lòng lò sưởi lúc nào cũng sạch sẽ chứng tỏ là lò chỉ được đốt lửa vào những cơ hội lớn. Phòng thứ nhất này để xông ra một mùi mà trong ngôn ngữ không có danh từ nào diễn tả được, và có lẽ phải gọi nó là cái mùi nhà trọ. Đây là mùi của một phòng hay đóng cửa, mùi mốc, mùi ôi; lạnh lẽo ẩm iu ngửi thấy ngay ở mũi, thâm nhập vào cả áo quần, mùi của một phòng người ta mới ăn cơm, hôi mùi chén bát, mùi một phòng để đồ ăn, mùi một nhà thương thí. Cái mùi có lẽ diễn tả được nếu người ta sáng chế được một phương pháp để đo lường được số lượng yếu tố và buồn nôn của hơi đờm dãi và đặc biệt của mỗi người ở trọ, trẻ hay già. Ấy thế mà mặc dầu có những cái ghê tởm tầm thường ấy, và nếu ta so sánh với cái phòng ăn kề cận đó, ta lại cho cái phòng khách là trang nhã và thơm tho như một phòng khuê. Phòng ăn có vách hoàn toàn lót gỗ nguyên trước có sơn một màu mà bây giờ không còn nhìn ra màu gì nữa, màu ấy đã thành cái nền trên đó cát bụi chồng chất thành lớp vẽ nên những hình kỳ lạ. Những tủ chén bát trơn nhớt dựa tường, trên tủ bày những bình nước sứt mẻ, lu mờ, những tấm sắt tây tròn có vân, mấy chồng dĩa bằng sành dầy có viền xanh, chế tạo tại Tournal. ở một góc để một cái thùng có nhiều hộc số để đựng khăn lau lốm đốm dơ hay đỏ màu rượu vang, của những người ở trọ. Lại có những thứ bàn ghế bất hủ, đâu đâu cũng phế bỏ nhưng được đặt tại đây như những di vật của nền văn minh được đặt tại Nan y viện (7). Người ta còn có thể thấy một phong vũ biểu được đem ra lúc mưa, những tranh ảnh ghê gớm làm hết muốn ăn, cái nào cũng để trong khung gỗ sơn đen có chỉ vàng; một đồng hồ treo bằng đồi mồi khảm đồng; một lò sưởi màu lục, những cây đèn dầu mà dầu và bụi trộn lẫn nhau, một bàn dài trải tấm vải sơn, nhờn mỡ trên ấy một trú sinh nghịch ngợm đã lấy ngón tay viết tên lên như đã dùng một mũi sắt nhọn, những ghế dựa khập khễnh, những tấm đệm cói chỉ trải ra mà không lúc nào hưởng những lồng ấp có lỗ đã bè, bản lề lật ra, gỗ đã đen thui. Muốn giải rõ đồ đạc ở đầy đã cũ kỹ đến bậc nào, đã lũng, mục, lung lay, sứt bể, cụt tay dơ dáy, què quặt, gần tàn phế hấp hối... thì phải làm một bài miêu tả làm quá chậm câu chuyện, và những người gấp nghe chuyện không thể tha thứ. Gạch lát vuông đỏ thì bị vạch đường vì sự lau chùi hay vì những lúc tô màu. Tóm lại, nghèo khổ ngự trị ở đây, không chút thi vị, một nghèo khổ tằn tiện, cô đọng, xơ xác. Nếu cảnh nghèo ở đây chưa có bùn lầy, thì cũng đã có những vết dơ, nếu nó chưa có áo lũng, giẻ rách, thì nó cũng sắp đồ ra thối mục. Căn phòng này hoàn toàn sáng lạn vào lúc bảy giờ sáng, lúc con mèo của bà Vanquer dậy trước chủ nó nhảy lên các tủ đồ ăn, đánh hơi sữa trong những tô có dĩa đậy, và lên tiếng gầm gừ. Ngay sau đó bà chủ xuất hiện với cái mũ ren trên đầu, với một vành tóc giả treo lủng lẳng vụng về ở dưới. Bà ta kéo xà lệt một đôi dép méo mó. Khuôn mặt bì dày dày, mập mạp, ở dưới nổi lên một cái mũi mỏ keo; hai bàn tay nhỏ nhắn, múp míp, thân hình bụ bẫm như con chuột ở nhà thờ, áo lót quá dày và phồng phềnh lên, tất cả hình ảnh này rất phù hợp với căn phòng đầy mùi khốn đốn, chứa một không khí đầu cơ, trong ấy bà Vanquer biết thở mùi nồng thối, không chút gì ghê tởm. Vẻ mặt bà tươi tắn như buổi gió lạnh đầu tiên của tiết thu, đôi mắt nhăn nheo của bà đi từ vẻ nụ cười bắt buộc của vũ nữ đến vẻ cau có của viên thu ngân chiết khấu... tóm lại là cả con người bà giải thích cho cái nhà trọ, cũng như cái nhà trọ ám tàng con người của bà. Ngục tù không thể tồn tại được nếu không có tên ngục tốt, người ta không thể tưởng tượng có thể có cái này mà không cái kia. Vẻ phì nộn xanh xao của người đàn bà thấp bé này là kết quả của lối sinh hoạt kia, cũng như bệnh đậu lào là quy kết của bể khí một bệnh viện. Cái váy lót bằng len đan của bà ló dài hơn cái váy ngoài may với một áo dài cũ mà lớp bông lót lòi ra do những đường nứt nẻ của đường vải rách, cái váy này là một hình ảnh thu gọn của phòng khách, căn phòng ăn, cái vườn nhỏ, và báo trước cái nhà bếp, làm thấy trước những khách trọ ra thế nào rồi. Lúc bà chủ có mặt, quang cảnh thật là hoàn mỹ, bà Vanquer tuổi lối năm mươi, bà giống như mọi người đàn bà khác đã chịu đựng đau khổ. Mặt bà lờ đờ, bộ bà ngây thơ như một mụ môi dong làm bộ tức giận để đòi hoa hồng thêm, nhưng vẫn sẵn sàng làm hết mọi sự để số phận mụ được êm dịu hơn, sẵn sàng bán cả Georges hay Pichegru nếu còn một Georges hay một Pichegru để bán. Tuy vậy, bà là một người tốt, các người ở trọ nói vậy, và ai cũng tưởng bà là nghèo, vì ai cũng nghe bà kêu rêu ho hen như họ. Còn ông Vanquer trước kia thẽ nào? Bà không lúc nào phân giải về người quá cố. Tại sao ông ta mất hết của cải? Bà chỉ trả lời: “Trong những tai nạn”. Ông ta cư xử với bà không tốt, chỉ lưu lại cho bà cặp mắt để khóc, ngôi nhà này để sinh sống, và cái quyền không thương hại một nghịch cảnh của ai, vì theo bà nói, bà đã chịu đựng tất cả những gì người ta có thể chịu đựng được. Nghe tiếng chân bà chủ đi lắc nhắc, mụ Sylvie béo, người làm bếp lật đật dọn ăn sáng cho khách trọ. ... Mời các bạn đón đọc Ông Già Goriot của tác giả Honore de Balzac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dấu Chân Người Lính - Nguyễn Minh Châu
Nơi đây khi đang mùa thu hãy còn là một cánh rừng già im lìm như ngủ. Lúc bấy giờ những người chiến sĩ bộ binh và cả những người chiến sĩ trinh sát dày dạn và ưa hoạt động nhất của cấp trung đoàn hoặc sư đoàn hãy còn ở tuyến hậu phương. Suốt cả một dải rừng núi âm u rậm rạp, thỉnh thoảng mới thấy sáng bừng lên vài bông hoa chuối rừng đỏ nở trên những thân cây gầy khẳng. Tiếp giáp với bìa rừng là bãi lau hoang vu, rồi lại một cánh rừng khác, một bãi lau khác ăn thẳng ra con đường số 9 rải sỏi dẫn tới một thị trấn và ngoại vi khu đồn địch. Suốt cả mùa thu, ở đây còn hết sức yên tĩnh. Trên mặt đất khô ráo đang đón đợi mùa mưa ngàn tới, chỉ có bước chân những đàn voi đi thủng thỉnh xéo nát từng bãi tranh, và báo trước cho chiến dịch sắp mở là bước chân không để lại chút dấu tích của những người lính trinh sát Bộ Tư lệnh chiến dịch và bọn thám báo Mỹ giậm đè lên nhau. Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5 đã từng sống trên mảnh đất này suốt từ trận đánh mở màn chiến dịch. Nhưng anh không khỏi bỡ ngỡ mỗi khi có dịp rời khỏi hầm sở chỉ huy, đi trở lại khu rừng trú quân hồi trung đoàn mới từ giã trạm giao liên cuối cùng tận ngoài bờ sông Xê Pôn. Thế là sau một loạt trận đánh, địch đã dự đoán được đôi chút hướng xuất kích của những đơn vị chiến đấu lớn của chúng ta. Chúng rải thuốc độc hóa học và dùng máy bay B.52 rải bom theo lối "rải thảm". Chỉ có trong vòng nửa tháng, từ khi tiếng súng đầu tiên của ta nổ vào giữa thị trấn, các cánh rừng chung quanh đã quang đi từng vạt, từng vạt cỏ tranh bị thiêu cháy, ở các chân lèn đá và dọc khe suối đã bị phát quang, máy bay trinh sát các loại lượn đi lượn lại thăm dò suốt ngày đêm. Ban đêm từng chùm pháo sáng liên tiếp treo lơ lửng trong bầu sương thăm thẳm trắng rừng trắng núi. Mặc cho máy bay địch trinh sát và bắn phá, dưới mặt đất bộ đội vẫn chen chân nhau đi đông nghìn nghịt. Họ tranh thủ đi nhanh hơn, nhận mặt nhau, chào hỏi nhau. Con đường cứ hình thành dần những khu vực tọa độ (1) của địch. Trên chặng đường đầy cây cối đổ ngả nghiêng, khói bom khét lẹt và đất đỏ lật lên lấp hết cây cối, từng đơn vị cứ đi qua, hết đơn vị này đến đơn vị khác, hết binh chủng này đến binh chủng khác. Ban ngày có những khi máy bay trinh sát không làm nhiệm vụ chỉ điểm cho máy bay phóng pháo, với đôi cánh bằng gỗ dán, nó liệng từng vòng tròn rất hẹp trên từng chỏm cây một. Từ bên thành cửa sổ trống hoác như con mắt mù thò ra một chiếc loa phóng thanh và một giọng nói õng ẹo: Các anh bộ đội Việt cộng dũng cảm! Đây là tiếng nói của người em gái mến thương của các anh. Các anh hãy suy nghĩ mau mau trở về với người em gái mến thương và chính phủ Quốc gia. Các anh sẽ được trọng dụng và chiều chuộng. Em đang trông thấy các anh... *** Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ". Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi. Các tác phẩm: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970) Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983) Bến quê (tập truyện ngắn, 1985) Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, 1987) Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (tiểu luận phê bình, 1987) Phiên chợ Giát (truyện vừa, 1988) Cỏ lau (truyện vừa, 1989) Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nhà xuất bản Văn Học, 2001) Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nhà xuất bản Hà Nội, 2009) ... Mời các bạn đón đọc Dấu Chân Người Lính của tác giả Nguyễn Minh Châu.
Cuộc Đời Ngoài Cửa - Nguyễn Danh Lam
Trong vai một người viết tiểu thuyết, Nguyễn Danh Lam hẳn là mẫu nhà văn không thích, thậm chí rất dị ứng, việc cưng nựng chiều chuộng các nhân vật của mình. Từ những “Bến vô thường”, “Giữa vòng vây trần gian”, đến “Giữa dòng chảy lạc”, đã là thế. Và rồi đến cuốn tiểu thuyết mới nhất này, vẫn là thế. Nguyễn Danh Lam không thèm hạ cố ban cho nhân vật một danh tính rõ ràng. Cũng rất hiếm khi nhà văn gắn cho họ những nét phẩm chất tính cách hoặc những năng lực cá nhân trên mức trung bình. Đã vậy, anh lại hay đẩy các nhân vật vào những cảnh huống trớ trêu, những trạng thái sinh tồn nếu không bi đát thì cũng dở khóc dở cười. Điều, vừa quan trọng lại vừa oái oăm, là ở chỗ: trong những cảnh huống những trạng thái ấy, các nhân vật của Nguyễn Danh Lam luôn có một sự tự nhận thức, thường trực và đầy ám ảnh, về cái bất túc và bất lực của mình… Ở cuốn tiểu thuyết mới nhất này, Nguyễn Danh Lam cho nhân vật chính “lên đường”, làm một chuyến du lịch bụi cùng với cô con gái cả ngày chỉ biết dán mắt vào chơi game trên điện thoại di động và luôn miệng kêu than. Sau lưng họ, là một gia đình rạn nứt. Trước mặt họ, là những khúc rẽ bất ngờ, những đứt gãy nhân sinh còn tồi tệ hơn gấp bội. Nguyễn Danh Lam đã kể những chuyện ấy, một cách bình thản và đầy tiết chế. *** ường phố đã vào khuya. Ông không nhận thấy sự khác biệt nhiều lắm giữa thành phố cao nguyên này với thành phố nơi ông sống. Nhà cửa, phố xá cùng một sắc đèn rờ rỡ. Dò đường một lúc, ông mới lần ra cái khách sạn gã bạn chỉ. Trước đó nửa giờ, gã lí nhí qua máy: Mày thông cảm, giờ này tao không đi được, cứ vào cái khách sạn này, nói tên tao. Mai tao đến kiếm sớm. Mở cửa xe mua một gói thuốc, ông nghe gió thốc từng cơn. Thứ gió kỳ lạ, thổi triền miên, không giống gió của những cơn giông, cũng chẳng phải gió biển. Đây chính là sự khác biệt. Bụi quăng vào mặt ông những đám khô khốc. Không gian se lạnh, khá thú vị. Khách sạn có vẻ nằm ở khu trung tâm. Ông nói tên gã bạn với cô nhân viên tiếp tân. Cô gái xinh đẹp lắc đầu cười. Chú thông cảm, có lẽ ông chủ con biết, chứ con không biết chú ấy. Ông ngớ ra, bối rối. Giá đừng đề cập gã có lẽ hay hơn. Ông nghe gã dặn nên hỏi cô, chứ thực sự chẳng có chủ đích gì. Chẳng hạn như việc giảm giá phòng, hay ưu tiên một vị trí tốt nào đó. Hai cha con cùng đói ngấu. Buổi chiều, sau khi lên hết con đèo, ông dừng nơi thị trấn gần đó mua hai ổ bánh mì, định bụng khi tới nơi sẽ ăn bữa chính. Đường lạ, nhiều đèo dốc, khiến kế hoạch dự kiến đổ bể. Mình đi ăn rồi lên phòng, hay lên phòng rồi đi ăn? Đi ăn luôn đi ba. - Con gái ông nhăn nhó. Giờ này còn chỗ nào ăn uống được không cô? - Ông hỏi cô gái tiếp tân. Nhà hàng tụi con đã nghỉ. Mấy chỗ gần đây, họ cũng đóng cửa hết rồi. Chú nên chạy ra chợ trung tâm, thứ gì cũng có. Lại phải lết ra xe, gương mặt con gái ông vốn nhăn nhó, lúc này càng nhăn nhó hơn. Điệp khúc của nó luôn là đói. Ông hiểu, nó đang tuổi ăn tuổi lớn, không thể chịu đựng được như ba. Ông tấp xe vào một dãy quán sáng đèn. Mấy cặp nam nữ chừng tuổi con ông đi chơi về khuya, co ro quanh cái bàn bên cạnh. Họ cười nói và văng tục. Cách phục sức, mấy chiếc xe đời mới, hoàn toàn chẳng có gì khác thanh niên thành phố. Thuở xa xưa, ông nhớ, sự khu biệt khá rõ ràng, bởi những cách ngăn về giao thông, hành chính. Con gái ông bỏ dở gần nửa tô mì, trong khi ông húp cạn. Sao vậy con, mệt không ăn nổi à? Dở quá - Ông không biết món ăn dở thật, hay đó là nhận xét quen thuộc của con gái. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Ngoài Cửa của tác giả Nguyễn Danh Lam.
Cửa Sông - Nguyễn Minh Châu
Tiểu thuyết được viết từ năm 1966, đây là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Minh Châu, nhưng ông đã chứng tỏ được một bút pháp gây nhiều hứng thú và cảm giác lạ như là một hiện tượng văn học, một sự tìm tòi sáng tạo. Trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu toát lên ba hướng khái quát: chiêm nghiệm những chân lý đời sống, khái quát những tính cách, phát hiện những vấn đề tồn tại xã hội.  Theo lời nhà văn Tô Hoài thì Những cái tưởng như lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, nhưng dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý. Bởi đối với ông, cuộc đời và trang sách như là một, gắn chặt với nhau.  Với Cửa sông, Nguyễn Minh Châu viết về hình ảnh một làng quê hiền hoà bên sông Kiều, dòng sông thơ mộng, những con người hồn hậu và bình dị của ngôi làng nhỏ bé ven sông, nhưng trong khói lửa chiến tranh, mỗi người đều được trui rèn, hun đúc và trở thành những người con quả cảm và gan dạ bên bến sông, kể cả cô giáo Thùy bé nhỏ và hiền dịu năm nào...  ... Thùy cảm thấy trong khuôn ngực bé nhỏ của mình như có một con chim đang vỗ cánh chực bay tung ra. Cô thở rất mạnh. Tuy đã ở làng Kiều bao nhiêu năm, đã ra vào cái trụ sở hợp tác xã này bao nhiêu lần, nhưng hôm nay, đứng ở đây, cô vẫn không sao khỏi bỡ ngỡ như người vừa mới đến. Thuỳ nhìn lá cờ đỏ, trong lòng rất xúc động nghĩ đến bao nhiêu người đảng viên cộng sản của làng Kiều đã ngã xuống... *** Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ". Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi. Các tác phẩm: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970) Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983) Bến quê (tập truyện ngắn, 1985) Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, 1987) Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (tiểu luận phê bình, 1987) Phiên chợ Giát (truyện vừa, 1988) Cỏ lau (truyện vừa, 1989) Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nhà xuất bản Văn Học, 2001) Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nhà xuất bản Hà Nội, 2009) ... Mời các bạn đón đọc Cửa Sông của tác giả Nguyễn Minh Châu.
Có Được Là Người - Primo Levi
Khi người ta hai mươi bốn tuổi, hãy còn “ít hiểu biết, không kinh nghiệm và dứt khoát muốn sống trong một thế giới siêu thực của mình”, mà bị bắt rồi đưa vào trại tập trung Auschwitz - nơi sau này sẽ được ghi nhận như một trong những nơi chốn khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người - người ta sẽ khó lòng gọi đó là một chuyện may mắn. Có lẽ chỉ khi là một trong số rất ít ỏi người sống sót sau Auschwitz (theo nhiều số liệu thì chỉ khoảng 2% tù nhân Auschwitz là còn sống khi trại được giải phóng) và bắt đầu ghi lại những hồi ức kinh khủng về khoảng thời gian đen tối đó trên những tấm vé tàu ở Turin thì Primo Levi mới, như sau này ông viết trong lời mở đầu cuốn Có được là người, coi việc bị bắt vào Auschwitz tương đối muộn là một điều may mắn: Vào thời điểm ông bị đưa vào Auschwitz, đầu năm 1944, do cần nhân công lao động chính phủ Đức đã quyết định kéo thời gian sống của tù nhân trước khi giết, thay vì đưa thẳng vào trại hơi ngạt. Được viết năm 1947, Có được là người thuật lại câu chuyện thực của chính tác giả từ lúc bị bắt tại Ý đến khi được/bị đưa vào trại tập trung Auschwitz và chuyện ông đã sống sót trong chốn địa ngục đó như thế nào. Cần nói thêm rằng, vào thời điểm tác giả và những người Do Thái khác bị tống lên đoàn tàu chở người nổi tiếng của Đức quốc xã, Auschwitz đối với họ là một cái tên chưa có ý nghĩa gì mấy - thậm chí họ còn cảm thấy “nhẹ cả người” vì ít nhất cái đích đến đó “cũng là một nơi nào đó trên trái đất này”. Họ sẽ nhanh chóng nhận ra cái “nơi nào đó” kia là nơi mà họ bị tước đoạt tất cả: vợ con, bố mẹ già, tư trang, nhân phẩm, thậm chí cả tên - mỗi người tù chỉ còn biết đến như một dãy số xăm vào cánh tay trái; là nơi mà họ sẽ phải sống - nếu như chưa chết hoặc chưa bị giết - dưới những điều kiện phi nhân nhất; là nơi mà rồi họ sẽ chia sẻ những giấc mơ giống nhau đến kỳ lạ: giấc mơ được ăn, mà mỗi khi thức ăn chạm miệng là vụt tan biến thành nghìn mẩu vụn. Ở chốn này, một ngày được coi là tốt lành khi ngày đó họ có vài giờ để “cảm thấy bất hạnh theo cái kiểu của những con người tự do” - tức khi những người tù xoay xở được thêm chút xúp loãng đủ tạm no nê mà có sức nghĩ về gia đình, vốn là việc những khi khác họ không làm nổi. Cho đến bây giờ, đã có hàng nghìn cuốn sách viết về những trại diệt chủng trong thế chiến thứ hai. Còn vào thời điểm Primo Levi quyết định kể lại câu chuyện của mình, chúng cũng đã quá nổi tiếng. Levi khẳng định trong lời mở đầu rằng cuốn sách không nhằm đưa ra “những lời buộc tội mới” mà chỉ cung cấp thêm tư liệu cho những nghiên cứu về “tâm trạng con người”. Cuốn sách đặt ra nhiều câu hỏi nhức nhối: khi nào một con người là người? con người khác gì với con vật? liệu một con người có thể lấy đi nhân phẩm của một con người khác? người có thể làm gì đối với người? thiện, ác, đúng, sai liệu có ý nghĩa gì trong một nơi chốn khủng khiếp như Auschwitz? Trong quá trình học cách tồn tại, và nhờ cả may mắn để tồn tại đến những ngày cuối cùng giữa chốn phi nhân đó, Levi luôn tìm cách nhận ra những dấu hiệu con người: một cái ôm với người đồng hương trẻ tuổi Schlome, thái độ không từ bỏ, không chịu chấp nhận của Steinlauf, tình bạn với Alberto, Thần khúc của thi hào Ý Dante và nhất là sự tốt bụng của Lorenzo - người không ngại hiểm nguy tặng thường xuyên tặng xúp và bánh mì cho Levi. Cho dù sau Auschwitz người ta có thể phục hồi về mặt thể chất, tinh thần là một cái gì đó khó hồi phục hơn nhiều. Không phải ai cũng có thể chịu đựng được những hồi ức về quãng lịch sử đen tối đó. Bản thân con người tốt bụng Lorenzo kia đã không vượt qua nổi chứng rối loạn về tâm lý và cuối cùng chết vì thiếu sự chăm sóc bản thân vào năm 1952. Còn Levi, dù chọn cách đương đầu với quá khứ bằng cách viết sách và đi nói chuyện về Auschwitz, thì chết vào nhà riêng vào năm 1987, và cái chết nhiều bí ẩn của ông được nhiều nguồn tư liệu coi là tự sát. Dẫu sao, thì như Elie Wiesel, một tù nhân Auschwitz khác, đã nói, thực ra Primo Levi đã chết từ bốn mươi năm trước trong Auschwitz. Với một câu chuyện u ám như thế, lẽ ra Có được là người phải là cuốn sách nặng nề và khó đọc. Nhưng thật lạ kỳ, đây lại là một page turner - một cuốn sách bắt người ta phải lật không ngừng. Sức hấp dẫn của cuốn sách không nằm ở câu chuyện mà nằm ở cách tác giả kể chuyện - đó gần như là một giọng kể phi cảm xúc, che giấu sự kinh tởm trước những gì được mô tả - và cách mà cuốn sách gợi ra những suy nghĩ, những truy vấn mênh mang trong người đọc. * Có được là người - Primo Levi, Nhã Nam và NXB Hội nhà văn, Trần Hồng Hạnh dịch từ nguyên bản tiếng Ý  *** Tôi bắt đầu thử thách của mình với một tác phẩm hạng nặng. Số trang vừa phải (287 trang), nhưng những gì nó mang lại đủ để tôi xuống tinh thần trong khoảng thời gian không vừa phải chút nào.  " Nhân vật trong những trang sách này không phải con người. Tính người của họ đã bị vùi lấp, chính họ đã tự chôn nó vì sự xúc phạm phải chịu hay đã gây ra cho người khác. Những tên SS độc ác và bệnh hoạn, những Kapo, tù chính trị, tội phạm, prominent lớn nhỏ cho đến những nô lệ Haftling người này giống hệt người kia, tất cả các bậc trong cái hệ thống điên rồ mà bọn Đức dựng lên ấy đều bị gom lại đầy nghịch lý trong một sự tồi tàn nội tâm giống hệt nhau. " Tôi được tác giả cuốn sách thông báo rằng mọi điều diễn ra trên từng trang sách không có gì là bịa đặt, nói cách khác tôi đang được chứng kiến một khúc phim tài liệu chân thực nhất về những gì diễn ra từ Lager đến Auschwitz, về những người Do Thái khốn cùng trong một công cuộc chà đạp nhân phẩm khốn cùng. Giọng văn của Primo Levi rõ ràng khiến những kẻ quen đọc văn chương nửa thích thú nửa nản lòng, bởi ông không hoa mĩ mà chỉ kể lể, với thứ ngôn ngữ lạnh lùng và thiếu sinh khí chẳng khác gì cuộc sống tối tăm, dở người dở ngợm của những tù nhân DoThái trong những ngày tháng ấy. Làm sao để khiến người đọc ngày hôm nay có thể tưởng tượng rằng thứ chủ nghĩa dân tộc bệnh hoạn của Đức Quốc xã đã sản sinh ra không chỉ một tội ác diệt chủng, mà còn là sự huỷ hoại nhân tính vô cùng tàn khốc mà người với người có thể gây ra cho nhau vào thời đại được xem là văn minh tiên tiến ở Châu Âu, nếu không phải là kể hết ra một cách giản đơn và trần trụi. Sức hấp dẫn trong những con chữ nhuốm màu bi kịch của cuốn tự truyện này nằm ở chỗ đó.  Những người Do Thái thiên tài, trải qua bao nhiêu biến thiên và lăng nhục vẫn tự cường khẳng định vị trí của mình trong guồng quay tàn khốc của lịch sử. Nhưng vào những ngày đen tối nhất trong chiến dịch cưỡng bức và tàn sát của quân đội Đức, Levi chỉ nhìn thấy sự yếu đuối rất con người ở họ. Họ đã bị tước đoạt đến tận răng, từ bộ quần áo đến cái tên làm nên gốc tích của họ, bị lăng nhục đến tận răng, từ giá trị tri thức cho đến phẩm cách làm người đến mức chỉ có thể suy nghĩ về việc tồn tại vật vờ đến từng giây phút sống. Họ sẵn sàng ăn cắp, lọc lừa, chà đạp lên đồng loại, khốn khổ vì miếng bánh mì hay chết chìm trong việc tuân theo trật tự kiểu mẫu của những tên đao phủ. Phần lớn họ tin rằng mình đã chết, đã trở thành thú vật, khước từ mọi tư duy và hi vọng được sống như một con người, và một phần cũng đáng kể hơn vẫn còn suy nghĩ về điều đó, bám chắc lấy nó và chiến đấu đến kiệt lực vì nó.  "Đối mặt với cái thế giới hỗn loạn đáng nguyền rủa này, suy nghĩ của tôi trở nên lộn xộn. Có thật sự cần phải suy ngẫm về một cơ chế đạo đức rồi áp dụng nó không? Ý thức được mình không có cơ chế nào lại chẳng tốt hơn sao?" Chỉ có hai loại người tồn tại trong một thời kì ác mộng: một là những kẻ chết chìm vì sự tàn khốc của nó, hai là những kẻ bước ra khỏi nó và mang những vết thương sâu thẳm không bao giờ chữa lành được. Chiến tranh hay diệt chủng thì càng khủng khiếp hơn bởi sức huỷ diệt của chúng thừa sức vằm nát sự mỏng manh của thân phận con người. Primo Levi có thể là một người may mắn trở về và kể lại câu chuyện đau thương của thế hệ ông, nhưng cũng như bao con người khác nếu còn một trái tim sẽ còn bị hành hạ bởi vô vàn trải nghiệm, sau cùng ông cũng không thể hạnh phúc bởi những trang viết giải độc của chính mình.  "Chúng tôi nằm trong một thế giới của người chết và kiệt sức. Dấu hiệu văn minh cuối cùng đã biến mất xung quanh và cả bên trong chúng tôi. Công trình biến con người thành thú vật mà bọn Đức thời đắc thắng đã dựng lên giờ đây đang được bọn Đức bại trận hoàn thành nốt." Primo Levi tự sát tại nhà riêng vào năm 1987, bốn mươi hai năm sau ngày ông bước chân ra khỏi địa ngục trần gian do chính con người tạo nên. Ít ai hiểu được ông nghĩ gì trước khi chết, nhưng rồi chắc chắn cũng ít ai hiểu được ròng rã bốn mươi hai năm được làm người đó con người ta còn phải mang nặng điều gì khi cơn ác mộng tồi tệ nhất đã qua đi.  Cá nhân tôi suy nghĩ đến một di sản. Thứ di sản đớn đau dai dẳng của một thế kỉ toàn trị. Đó là điều mà đã chấp nhận làm người thì khó có thể quên đi như một giấc mơ phù phiếm được.   Mời các bạn đón đọc Có Được Là Người của tác giả Primo Levi.