Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Mạng Giám Mục

Những án mạng kỳ lạ và những bức thông điệp chỉ dẫn về các án mạng được gửi đến báo chí như thách thức dư luận. Liệu kẻ bí ẩn có biệt danh là  "Giám Mục", người được cho rằng đã đánh máy và gửi những thông điệp đó, có phải là hung thủ? Rất nhiều lĩnh vực có thể được đưa vào một tiểu thuyết trinh thám đã xuất hiện trong cuốn sách này. Những bài đồng dao gợi cảm hứng cho hung thủ về các án mạng. Công thức toán học tìm thấy bên cạnh xác nạn nhân. Một án mạng liên quan đến cờ vua. Những tình tiết liên quan đến triết học, y học, thiện văn học... cũng có ảnh hưởng khá quan trọng đến diễn biến của câu chuyện. ... Hơn một lần, nghi can đã bị nghi ngờ nhiều nhất bỗng nhiên chết với nhiều nghi vấn. Bất ngời nối tiếp bất ngờ... *** Review Vụ án mạng Giám mục (Philo Vance #4). Về nội dung: quyển sách viết rất ổn, nhìn chung bảo vô cùng đặc sắc thì không phải, nhưng chắc chắn là có những nét riêng của mình. Tuy nhiên, trước hết phải nói nó không dễ đọc, vì hàm lượng kiến thức Toán, Vật lý cao cấp, Lịch sử, Nghệ thuật,… rất nhiều, tương đương với dung lượng dành cho vụ án. Lý do là rất nhiều các nhà khoa học dính líu vào vụ này. Nói đơn giản, nó như một sự pha trộn giữa các tác phẩm thời kì Hoàng Kim và các tác phẩm của H.G.Wells. Bản thân tôi thì đọc được không vấn đề, tuy nhiên độc giả thông thường có thể thấy mệt khi theo dõi. Về bản thân vụ án: không quá khó đoán hung thủ, mặc dù tất cả chỉ là suy đoán vì thủ pháp gây án hoàn hảo không có chứng cứ. Việc có ích duy nhất là xem xét thời gian hoạt động và chứng cứ ngoại phạm của các nhân vật tình nghi, sau đó khoanh vùng hung thủ. Việc còn lại là để sự việc diễn tiến để dùng thủ pháp “loại trừ” (loại trừ đúng nghĩa đen) để đoán ra hung thủ. Có twist cuối truyện, nhưng không thật sự đặc sắc với những ai đọc thể loại này lâu năm, và thật sự là đến lúc đó thì tùy vào diễn biến truyện xem tác giả “chọn mặt” ai để “gửi vàng”. Về việc làm sách: Bìa không tạo được cảm giác thu hút, thấy nghi ngại (cảm giác cá nhân) có thể khiến khó bán sách. Mặc dù nếu xem kỹ thì bìa là bản đồ (không trọn vẹn) hiện trường nên cũng khá thú vị. Dịch thuật ban đầu cảm tưởng như dịch word-to-word nhiều, còn non tay nhưng về sau càng đọc càng vào, dịch càng lên. Sách cũng không có các trang thông tin sau khi truyện kết thúc (trước bìa 3 và 4), hơi khó hiểu. Điều đáng nói ở đây là công sức trong việc chú giải: đây là điều rất đáng ghi nhận vì đội ngũ làm sách đã cố gắng hết sức để giữ cho trải nghiệm của người đọc được như khi đọc nguyên tác. Các chú thích rất nhiều và được làm rất chi tiết, phân ra rõ ràng chú thích cũ của tác giả và chú thích mới của người dịch. Các đoạn “tiếng nước ngoài” rất nhiều (các nhân vật thời này có vẻ thích chêm vào vài câu Latin, Đức, Pháp để tỏ ra nguy hiểm? Điều này gây khó chịu khi đọc, nhưng không phải lỗi ở đội ngũ làm mà là do nguyên bản, không thể trách họ). Rất giống Poirot, nhưng Trẻ làm chỉ dịch đúng 1 lần, nên lần sau gặp lại từ đó không nhớ thì rất khó chịu. May là đội ngũ làm sách rất có tâm nên không phải chịu đựng cảnh này. Một chi tiết khá thú vị nữa là các nhân vật nhắc đến những tên tuổi nổi danh trong giới khoa học đương thời như thể trong những câu chuyện thường ngày, như thể họ đang cạnh tranh những công trình khoa học với những người đó, điều này khiến cho cuốn sách có cảm giác như đã thực sự diễn ra trong thời điểm đó. Tuy nhiên, có điểm hơi thất vọng là mặc dù tác giả xây dựng hình tượng Vance rất nguy hiểm: ngoài bắt chước Conan Doyle xây dựng Sherlock Holmes từ góc nhìn của Dr. Watson, ông này còn vô cùng hiểu biết, cái quái gì cũng nói chuyện được (chém Toán cao cấp, Vật lý, thậm chí cờ vua như đúng rồi). Nhưng cuối cùng vẫn không giải quyết vụ án ở mức độ hiệu quả cao nhất. Đáng lẽ không nên nâng bi quá đà như vậy. Điểm cá nhân: 7/10. Nguyễn Minh Thắng   VỤ ÁN MẠNG GIÁM MỤC – S.S. VAN DINE Ngày xửa ngày xưa, ở 1 vùng đất xa xôi bên kia đại dương (ờ thì thật ra cũng không xưa lắm và không xa lắm, chỉ là mùa xuân năm 1929 ở New York thôi), có 1 cô tiểu thư hiền lành giỏi bắn cung tên là Belle Dillard. Belle sống với bác mình là giáo sư Bertrand Dillard và người con nuôi của ông, Sigurd Arnesson. Ngày nọ, 1 trong những người thường tập bắn cung với Belle bị chết vì cung tên. Sau đó không lâu, 1 sinh viên có quen với gia đình Dillard bị chết do súng lục bắn vào đỉnh đầu. Tiếp theo là những cái chết kỳ lạ ứng với 1 bài đồng dao trẻ con xảy ra xung quanh gia đình Dillard. Thám tử Philo Vance, luật sư Van Dine, công tố viên Markham, trung sĩ Heath của Cục Hình sự, cùng với sự hợp tác của Arnesson, đã tiếp nhận điều tra các vụ án bí ẩn nêu trên. Manh mối ít ỏi, không có động cơ gây án, ai cũng không có chứng cứ ngoại phạm… cuộc điều tra cứ xoay quanh những bài đồng dao trẻ con, các công thức toán học phức tạp và những ván cờ vua kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Rất may, khi những vụ án mạng đáng sợ cứ tiếp tục xảy ra thì bên cạnh tiểu thư Belle luôn có Arnesson thông minh, vững vàng che chở cho cô. Nếu cứ không tìm được hung thủ thì mọi chuyện rồi sẽ đi về đâu? Biển được tặng cuốn “Vụ án mạng giám mục” khi đi offline Hội Thích Truyện Trinh Thám đầu tháng 5/2018 nhưng hạ tuần tháng 5 mới bắt đầu đọc nó. Quyển sách giản dị nhỏ nhắn do thành viên của hội tự dịch và tự in, bìa sách gợi liên tưởng đến Google Map. Khi được chọn sách, (nói thật thì cuốn Biển tăm tia đã được người khác chọn trước), còn “Vụ án mạng giám mục” vẫn xếp thành 1 chồng nhỏ, thấy thương quá nên Biển lấy 1 cuốn!, và quyển sách cũng thương lại Biển, vì nó rất xuất sắc. Sách nhỏ nhưng nặng, đọc lâu hết. Chữ in to rõ, chất giấy tốt. Nội dung Biển đã kể sơ ở trên, lôi cuốn từ trang đầu đến trang cuối. Biển xin phép khen ngợi 2 người dịch quyển này, dịch rất kỹ, rất mượt, không có lỗi dùng từ hoặc lỗi chính tả. Trong khi đọc, có những câu Biển cảm giác rõ rằng dịch giả đã phải cân nhắc kỹ lưỡng bao nhiêu để sắp xếp trật tự câu chữ cho hợp lý nhất và hay nhất. Không phải vì sách được tặng hoặc vì Biển phải đợi lâu để “chộp” được nó mà Biển khen nó hay, bản chất của nó hay sẵn. Quyển sách nhìn đơn giản nhưng thật sự hấp dẫn, đọc cứ như Sherlock Holmes. Tuy cũng thuộc dòng trinh thám kinh điển nhưng Biển thấy nó mang nhiều hơi hướm hiện đại (vì bối cảnh truyện là thế kỷ XX) và hay hơn quyển “Hồ sơ số 113”. Đọc được a/b truyện thì Biển đã đoán (đúng) được hung thủ (a/b là 1 phân số, không dùng số mà dùng chữ ab để không spoil truyện). Độc giả có thể đọc 1 mạch đến hết, cũng có thể đọc từng chương rồi dừng lại để nghiền ngẫm thêm. “Vụ án mạng giám mục” không có chi tiết kinh dị, có thể đọc thoải mái không cần băn khoăn. Theo Biển thì đây là 1 quyển đáng có trên kệ sách của mọi mọt. Biển xin gửi lời cảm ơn Hội 4T đã tặng Biển quyển này, và cảm ơn người đầu tiên đã nảy ra ý tưởng dịch quyển này sang tiếng Việt để đem đến cho độc giả VN 1 quyển sách hay. Nói nhỏ nhỏ: nếu được, mong Hội 4T hãy đầu tư nhân lực + hiện kim để dịch thêm các truyện trinh thám khác của tác giả này nhé ^^ (Sea, 28-5-2018) Camellia Phoenix *** S. S. Van Dine là bút danh của Willard Hungtington Wright (15/10/1888 - 11/04/1939), một nhà phê bình nghệ thuật và cũng là một nhà văn người Mỹ. Ông tạo ra thám tử hư cấu rất nổi tiếng là Philo Vance, xuất hiện trong cuốn sách đầu tiên vào năm 1926, sau đó là trong các bộ phim và trên đài phát thanh. Willard Hungtington Wright là con trai của Archibald Davenport Wright và Annie Van Vranken Wright. Ông sinh ngày 15 tháng Mười năm 1888, tại Charlottesville, Virginia. Em trai ông, Stanton Macdonald-Wright (1890 - 1973), một nghệ sĩ trừu tượng nổi tiếng của Mỹ, có vẽ một bức tranh chân dung ông bằng sơn dầu vào khoảng năm 1913 -1914. Năm 1907, Wright kết hôn với Katharine Belle Boynton tại Seattle, Washington. Ông kết hôn lần thứ hai vào năm 1930 với Eleanor Rulapaugh, được biết đến dưới cái tên Claire De Lisle, một họa sĩ tranh chân dung. Wright, một nhà văn chủ yếu tự học, đã theo học trường St. Vincent College, Pomona College và đại học Havard nhưng không hoàn tất. Ông cũng học nghệ thuật ở Munich và Paris, chính việc học ở đây đã dẫn dắt ông tới công việc liên quan đến văn học và phê bình nghệ thuật cho tờ Los Angeles Times. Wright là một người ủng hộ chủ nghĩa tự nhiên của Theodore Dreiser. Ông đã viết tiểu thuyết “The Man of Promise” và một số truyện ngắn theo thể loại này. Khi là biên tập viên cho tạp chí văn học The Smart Set, từ năm 1912 - 1914, ông đã cho xuất bản một số tiểu thuyết hiện thực của các tác giả khác. Ông bị sa thải khỏi vị trí đó khi chủ sở hữu bảo thủ của tạp chí cảm thấy rằng Wright đã cố tình khiêu khích độc giả trung lưu của họ với sự hứng thú của ông về những tác phẩm hư cấu trái với thông lệ và bị cho là khiêu dâm. Trong thời gian hai năm đó, Wright đã xuất bản truyện ngắn của Gabriele D’Annunzio, Floyd Dell, Ford Madox Ford, D.H. Lawrence và George Moore; một vở kịch của Joseph Conrad; và những bài thơ của Ezra Pound và William Butler Yeats. Ông xuất bản cuốn “What Nietzsche Taught” vào năm 1915. Trong cuốn sách này, ông cung cấp thông tin và những lời nhận xét trong các cuốn sách của Nietzsche, cũng như trích dẫn từ mỗi cuốn sách. Năm 1917, ông đã xuất bản Misinforming a Nation, một lời phê bình gay gắt về sự thiếu chính xác và định kiến tiếng Anh của bách khoa toàn thư Britannica tái bản lần thứ 11. Wright tiếp tục sự nghiệp trong vai trò một nhà phê bình và nhà báo cho đến năm 1923, khi sức khỏe ông trở nên yếu đi do làm việc quá sức, nhưng thật ra là do nghiện thuốc (theo “Tiểu sử bút danh S. S. Van Dine” của John Loughery). Bác sĩ đã khuyên ông nên nghỉ ngơi (được cho là do bệnh tim, nhưng thật ra là do nghiện cocaine, một loại ma túy chiết xuất từ lá coca) trong hơn hai năm. Thất vọng và chán nản, ông bắt đầu sưu tập và đọc hàng trăm tác phẩm về tội phạm và điều tra. Wright cũng quyết định thử sức mình với tiểu thuyết trinh thám và tham khảo ý kiến của Maxwell Perkins, biên tập viên Scribner nổi tiếng mà ông quen tại Đại học Harvard. Năm 1926, cuốn sách đầu tiên về Philo Vance, The Benson Murder Case, được xuất bản dưới bút danh “S. S. Van Dine”. Wright lấy bút danh từ chữ viết tắt của từ “steamship” và cái tên Van Dine, mà theo ông nói là một cái tên cổ trong gia đình. Tuy nhiên, theo như lời Loughery, “không ai có cái tên Van Dine trong cây gia phả”. Ông tiếp tục viết thêm 11 tiểu thuyết trinh thám, và những quyển sách đầu tiên về vị thám tử nghiệp dư trong tầng lớp thượng lưu, Philo Vance (người có tình yêu về mỹ học giống Wright), trở nên nổi tiếng tới nỗi lần đâu tiên trong đời Wright trở nên giàu có, nhưng niềm vui không trọn vẹn. Số phận của ông đã được báo trước một cách kỳ lạ ở Stanford West, người anh hùng trong cuốn tiểu thuyết của ông, nổi tiếng do từ bỏ công việc không được ưa chuộng trong khi tìm kiếm “một nền móng vững chắc của văn minh và tầng lớp quý tộc” và trở thành một tiểu thuyết gia thành công. Tiêu đề của một bài báo ông viết ở đỉnh cao của sự nổi tiếng của mình, “Tôi từng là một nhà trí thức và bây giờ hãy nhìn tôi đi”, phản ánh cả niềm tin và sự hối tiếc của ông về việc ông không được coi trọng như là một nhà văn hàng đầu. Những cuốn sách sau này của ông đã ít nổi tiếng hơn vì sở thích của công chúng trong việc đọc các tiểu thuyết hư cấu bí ẩn đã thay đổi. Wright, người có tính cách giống với Vance, là một người điệu bộ và ham mê nghệ thuật, hiểu biết về nghệ thuật, âm nhạc và phê bình. Ông sống trong một căn hộ đắt đỏ, với niềm yêu thích trang phục và thức ăn đắt tiền, và sưu tập các tác phẩm nghệ thuật. Wright mất vào ngày 11 tháng Tư năm 1939, ở thành phố New York, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết “The Grade Allen Murder Case” và để lại một tiểu thuyết ngắn được dự định dựng thành phim cho Sonja Henje, và được xuất bản sau khi ông mất dưới tên “The Winter Murder Case”. Series về thám tử Philo Vance gồm 12 tác phẩm: The Benson Murder Case (1926) The Canary Murder Case (1927) The Greene Murder Case (1928) The Bishop Murder Case (1928) The Scarab Murder Case (1929) The Kennel Murder Case (1933) The Dragon Murder Case (1934) The Casino Murder Case (1934) The Garden Murder Case (1935) The Kidnap Murder Case (1936) The Grade Allen Murder Case (1938) The Winter Murder Case (1939) Cùng với sự thành công trong vai trò một nhà văn viết tiểu thuyết hư cấu, những dòng giới thiệu và ghi chú của Wright trong tuyển tập “The world’s great detective stories” (Những truyện trinh thám hay trên thế giới - 1928) rất quan trọng trong lịch sử nghiên cứu phê bình về tiểu thuyết trinh thám. Ông cũng đã viết một bài báo có tựa đề “Twenty rules for writing detective stories” (Hai mươi quy tắc viết truyện trinh thám) vào năm 1928 được đăng trên tạp chí The American. Nó thường xuyên được tái bản và thường được đối chiếu với “Ten commandments of detective fiction” (Mười điều răn về truyện trinh thám - 1929) của Ronald Arbuthnott Knox (1888 - 1957), một linh mục, nhà thần học và tác giả truyện trinh thám người Anh. Wright cũng viết một series truyện ngắn cho hãng phim Warner Brothers vào đầu thập niên 1930. Những câu chuyện này đã được sử dụng trong một series gồm 12 phim ngắn, với độ dài khoảng 20 phút mỗi tập, được phát hành vào năm 1931 -1932: The Clyde Mystery (tháng 09/1931) The Wall Street Mystery (11/1931) The Week End Mystery (12/1931) The Symphony Murder Mystery (01/1932), The Studio Murder Mystery (02/1932) The Skull Murder Mystery (03/1932) The Cole Case (The Cole Murder Case) (04/1932) Murder in the Pullman (05/1932) The Side Show Mystery (06/1932) The Campus Mystery (07/1932) The Crane Poison Case (07/1932) The Trans-Atlantic Murder Mystery (08/1932) Trong số đó, The Skull Murder Mystery cho thấy việc xây dựng tình tiết kịch bản mạnh mẽ của Wright. Nó cũng nổi tiếng về cách đối xử không phân biệt chủng tộc đối với những nhân vật người Trung Quốc, một điều khá bất thường vào thời điểm đó. Theo như được biết, không có kịch bản nào của ông được xuất bản thành sách và dường như không có bản thảo nào tồn tại đến ngày nay. Những phim ngắn cực kỳ phổ biến vào thời điểm đó và Hollywood đã làm hàng trăm phim như thế trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, trừ một số phim hài câm, hầu hết những bộ phim này đều bị lãng quên và không được liệt kê trong các cuốn sách tham khảo về phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Giám Mục của tác giả S. S. Van Dine & Nhã Nhã (dịch) & Tào Huỳnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nữ Thám Tử Nghiệp Dư: Alice và Chiếc Bình Cổ - Caroline Quine
Nguyên tác : THE CLUBS 0F THE LEANING CHEMNEY Dịch theo bản tiếng Pháp: ALICE ET LE VASE DE CHENE Nhà Xuất bản HACHETTE 1966 Alice Roy là con gái một luật sư. Lòng yêu công lý, tính thích mạo hiểm và khả năng phán đoán thiên bẩm đã khiến Alice trở thành một NỮ THÁM TỬ NGHIỆP DƯ. Cô cùng các bạn đã lập nhiều kỳ tích trong việc truy tìm kẻ gian, phanh phui nhiều vụ pham tội. Bộ truyện NỮ THÁM TỬ NGHIỆP DƯ gồm nhiều tập, mỗi tập kể về một vụ phá án của Alice. Bộ Nữ Thám Tử Nghiệp Dư gồm có: - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 1: Alice và Bọn Làm Bạc Giả - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 2: Alice và Chiếc Bình Cổ - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 3: Alice và Cây Đàn Dương Cầm - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 4: Alice và Bí Mật Sau Bức Tường Đổ *** - Alice ! Thật là điên mới đi vào con đường vắng tanh không một bóng người thế này. Nhất là với số tiền mà chúng ta mang theo trong túi xách. Nếu bị ai cướp mất thì khốn !. Mắt nhìn thẳng vào cảnh vật xuyên qua khung kính chắn gió trước mặt, Bess cố giữ thật chặt chiếc túi xách bằng da đặt trên đùi. Cảnh vật bất biến của một rừng cây dày đặc tới mức dù giữa ban ngày, ánh mặt trời cũng khó mà lọt qua được. Những đám mây đen kịt chồng chất trên bầu trời đêm, gió lay mạnh khiến cây rừng rít lên. Bess rùng mình và bất giác xích lại gần cô bạn gái của mình: - Ớn quá chị ơi ! Cô khẽ nói. Gương mặt Alice bình thường vốn tươi tỉnh giờ cũng có vẻ căng thẳng. - Thôi nào, thôi nào, Bess, kềm bớt trí tưởng tượng của cậu lại đi. - Alice vừa nói để trấn an bạn vừa lắc nhẹ mái tóc vàng óng mượt như tơ của mình. - Chúng ta sắp tới nơi rồi mà. Alice cố làm ra vẻ đầy tự tin tuy trong lòng cô lúc này cũng đang rối như tơ vò. Với sự điệu nghệ của một tay lái lão luyện, cô cho xe lăn bánh trên con đường Trois-Ponts và nhìn lơ đãng về phía chiếc xắc tay. Trong xắc chứa đựng thành quả của cuộc bán đấu giá gây quỹ từ thiện tại Carney mà hai cô đã tham gia hôm nay. Trên cương vị là thủ quỹ của quỹ từ thiện trên, Alice có nhiệm vụ ký gửi toàn bộ số tiền thu được vào một ngân hàng ở River City. Nhìn con đường như một dải băng đen ngoằn ngoèo trải dài trước mắt, cô tự hỏi phải chăng mình đã quá bất cẩn khi cho xe đi vào con đường tắt vắng tanh này. Bằng một cử chỉ kiên quyết, cô hất ngược một lọn tóc bướng bỉnh ra đằng sau và định bằng hành động này, gạt những ý nghĩ đen tối. - Thôi, đừng có thần hồn nát thần tính chứ ! Alice tự nhủ thầm. "Thời đại này làm gì còn có phù thủy hoặc bọn thảo khấu đón đường đòi tiền mãi lộ nữa". Bess cắt ngang luồng suy nghĩ của bạn: - Chị không lái nhanh thêm một chút được sao ? Alice ngoảnh đầu lại mỉm cười thân thiện với cô bạn đồng hành. Bess chẳng phải là một trong những bạn gái thân thương nhất của cô đó ư ? Bất chợt, một tia chớp chói lòa rạch những đường ngoằn ngoèo trên nền trời đen, tiếp liền theo là một tiếng sấm rền vang. Những giọt mưa nặng hạt rơi xuống, vỡ tan trên mặt kính xe. - Ôi ! - Bess rên rỉ - Lại còn thế nữa chứ !. Alice không đáp. Xe họ đang tới những khúc quẹo gắt dẫn tới cây cầu được gọi là cầu "Thợ Săn" và việc lái xe đòi hỏi cô phải tập trung cao độ để tránh rủi ro. Vừa bẻ lại tay lái sau cua quẹo cuối cùng, cô chợt thoáng thấy, dưới ánh đèn pha nhạt nhòa vì nước mưa, bóng một người đàn ông đầu đội nón, mình vận áo mưa rộng thùng thình. Khom lưng cúi nhìn xuống lòng đường, ông ta có vẻ như đang tìm kiếm vật gì đó vừa đánh rơi. Bess hoảng hồn thét lên. Alice bẻ ngoặt tay lái, nhấn còi inh ỏi và đạp mạnh cần thắng. Bánh xe rít ken két, chiếc xe rùng mạnh, chao đảo và lết thêm cả chục thước mới chịu ngừng hẳn. - Liệu mình đã... - Bess lắp bắp lên tiếng nhưng không nói được hết câu. Alice lấy cây đèn bấm trong hộc đựng đồ lặt vặt cạnh bảng điều khiển và nhảy vội khỏi xe. Một người đàn ông nằm sõng soài trên mặt đất chắn ngang đường đi. - Bess - Alice gọi bạn, giọng thảng thốt thấy rõ - Ông ta bị thương rồi. Cô chưa kịp lại gần nạn nhân, thì người đàn ông đã lảo đảo đứng lên, nhưng lại khuỵu xuống ngay rồi lại lồm cồm đứng dậy và nhìn quanh như vừa đánh rơi vật gì. - Xin lỗi, ông bị thương có nặng lắm không ? - Alice hỏi, giọng run vì sợ hãi. - Kệ tôi. Quỉ tha ma bắt các người đi cho rồi ! Câu đáp cộc cằn khiến Alice sửng sốt đứng sững như trời trồng. Một chiếc nón nỉ mềm xèo chụp trên đầu, kéo sụp xuống tận mang tai, lại thêm cổ áo bành tô bẻ cao hất ngược lên đã che khuất hoàn toàn gương mặt của người đàn ông, ngoại trừ đôi mắt sáng và sắc như dao. Thình lình, bất ngờ đến độ khó tin, gã cắm đầu cắm cổ chạy như bị ma đuổi, thoáng chốc đã tới bìa rừng, nơi có những lùm cây rậm rạp. - Ông... ông gì ơi ! - Alice lớn tiếng la trong lúc đưa tay lượm một cái gói vừa lăn xuống vệ đường trũng sâu. - Có phải ông muốn tìm cái gói này không ? - Hãy đặt gói đồ xuống đất rồi cút xéo ! - Gã quay lại nói giọng ra lệnh. - Sao ông la dữ vậy ? Cháu chỉ muốn giúp ông thôi mà. Ông có bị sao không ? - Đi mau đi, không thì người gặp nguy hiểm chính là cô đây. Đừng dí mũi vào chuyện người khác. Và như để bồi thêm trọng lượng cho lời hăm dọa, một cục đá xanh lớn bay vút trong bóng đêm, rơi bịch xuống trên mặt đường cách Alice chưa đầy một gang tay. Bess, thận trọng núp sau lưng bạn, giật nhẹ tay áo Alice. - Mình đi thôi chị - cô khẽ nói - Lỡ đó là một nguời điên thì sao ? Nhưng, thái độ của kẻ lạ mặt đã khơi dậy những mối ngờ vực trong đầu Alice. Cô đưa gói giấy cầm trên tay lên săm soi một chỗ rách và chợt nhận ra dường như đây là một đồ vật làm bằng gốm sứ. Tiếc thay, một cục đá xanh, lần này được nhắm khá chính xác, đã làm vỡ tan mặt kính của cây đèn bấm và cũng vỡ luôn cơ may thấy rõ hơn vật gì bên trong cái gói bí mật ấy. Bess thét lên sợ hãi: - Alice ! Em xin chị đấy ! Chúng mình đi thôi ! Alice đặt nhẹ gói đồ xuống đất, nắm lấy tay bạn, chạy thẳng về phía xe và nổ máy. Mưa lúc này đang đổ xuống như trút nước. Máy xe vừa nổ giòn, Alice ngoái đầu nhìn qua khung kính phía sau xe: người đàn ông đã biến mất. Không biết ông ta đã lượm lại vật mà ông ta đánh rơi chưa ? Đó là cái gì quí đến nỗi ông ta suýt mất mạng vì nó ? - Ôi chao ! - Bess thở phào nhẹ nhõm khi thấy những thân cây đang vùn vụt chạy giật lùi dọc hai bên vệ đường. - Lần sau nếu chị nổi hứng muốn làm quen với một kẻ lạ mặt ngay giữa rừng thì hãy lựa dịp nào không có em cùng đi ấy. - Mình cũng công nhận là ông ta chẳng có gì là dễ thương hay tử tế cả. - Alice đáp với nụ cười hóm hỉnh - Dù sao cũng đáng tiếc là mình không thấy rõ mặt ông ta cũng như không thấy rõ món đồ trong bao. - Ờ, không biết đó là cái gì nhỉ ? - Một cái bình để cắm hoa. Mình đã rờ bên ngoài chiếc bình và đã thoáng nhìn thấy hình vẽ những chiếc móng đỏ trên nền men xanh lục. - Bình bằng gốm sứ màu xanh lục có vẽ những chiếc móng màu đỏ ư ? Lạ thật ! - Lạ ở chỗ nào ? - À, thì... tại nó giống hệt một cái lọ mà em đã có dịp thấy trong tủ kính của cửa tiệm Dick Milltop. Một chiếc bình màu xanh lục trên đó vẽ một con rồng đen có những móng màu đỏ. Dick là anh họ của Bess. Anh ta có một cửa tiệm bán đồ sành sứ trên đường Bedford; hầu hết các mặt hàng bày bán trong tiệm là do tự tay anh ta làm. Anh ta đang mở một lớp đào tạo các thợ thủ công gốm sứ. Bess cũng là một trong các học viên của anh ta. - Cái bình mà em vừa nói với chị đẹp không chê vào đâu được. - Bess nói tiếp sau vài giây im lặng. - Đó không phải là tác phẩm của Dick, có người đã cho anh ấy mượn, em đoán thế. Vui vẻ vì biết chắc đã gần đến River City, Bess tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp tuyệt hảo của chiếc bình, với niềm hưng phấn của một đệ tử mới nhập môn nghệ thuật gốm sứ. - Chị nên đến tham dự vài tiết dạy tại cơ sở gốm sứ của anh họ em, - cô nói - thấy mà mê luôn. Alice chỉ nghe một cách lơ đãng những lời tán dương của bạn mình. Cô đang bận nghĩ đến người đàn ông còn ở lại đằng kia. Ông ta làm gì trong rừng giữa đêm hôm khuya khoắt thế này ? Hiển nhiên là ông ta không muốn bị ai bắt gặp. Xe hơi của Alice bất thần vọt ra từ chỗ quẹo, đã khiến ông ta không kịp tìm chỗ núp. Tại sao ông ta bỗng tỏ ra dữ dằn và hăm dọa ngay khi cô vừa lượm được cái gói ? Liệu có phải là ông ta đã lấy trộm chính chiếc bình mà Bess đã say mê ngắm nghía, khi nó được trưng bày trong tủ kính của tiệm đồ gốm Dick Milltop ? Đồ gốm màu xanh lục ư ? Những móng rồng màu đỏ ư ? Đâu phải là một hòa sắc thường thấy ? - Chị không nghe em nói gì hết à ? - Bess gắt, bực bội thấy rõ. - Xin lỗi ! Mình đang bận nghĩ về cung cách kỳ lạ của người đàn ông nọ. - Làm ơn đi - Bess la lên với vẻ giễu cợt - Không lẽ chị định nói là chị lại vừa "đánh hơi" thấy một vụ án hình sự nữa ! Mưa đã ngừng rơi. Những vì sao sáng lấp lánh trên bầu trời đêm. Xe rốt cuộc đã lăn bánh trên đường phố của River City. Bess ngạc nhiên nhận thấy bạn mình đang cho xe chạy vào đường Bedford. - Ủa, đường này có cửa tiệm của Dick mà, chị định đến đó ư ? - Phải rồi - Alice đáp - Mình muốn ngó sơ qua tủ kính trưng bày sản phẩm của Dick xem sao. Lát sau, Alice đậu xe dưới cột đèn đường ngay trước một cửa tiệm giới thiệu và trưng bày các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ. Hai cô gái xuống xe và không tránh khỏi một thoáng lo âu, bắt đầu quan sát tỉ mỉ những bộ chén, đĩa, những lọ độc bình và những bộ đồ trà xếp thứ tự trên nền nhung đen. Hai cô hoài công tìm kiếm mà chiếc lọ độc bình Bess vừa nói vẫn không thấy đâu. Alice muốn vào bên trong nhưng cửa tiệm đã được khóa kỹ. - Lạy Chúa ! Chiếc bình đã bị đánh cắp mất rồi ! - Bess nói nhỏ. - Chớ vội đoan chắc. Biết đâu Dick lại chẳng đã cất nó ở một chỗ an toàn ban đêm. Dù sao ta cũng nên hỏi lại cho chắc ăn. Rảo bước, hai cô gái đến một nhà hàng và ở đó họ đã gọi điện được cho Dick. Một giọng đàn ông ngái ngủ trả lời họ. - Dick Milltop phải không ? - Alice hỏi - Đây là Alice Roy. Xin lỗi vì đã phải đánh thức anh giữa đêm khuya, nhưng vì có chuyện rất quan trọng. - Chuyện gì vậy ? - Đó là chuyện chiếc bình có hình rồng chạm nổi. Nó không còn ở trong tủ kính của cửa tiệm nữa. Có phải chính anh đã cất nó vào nơi nào khác không ? - Cái bình có hình rồng khắc nổi, cô vừa nói vậy hả ? Không ! Giọng Dick lo lắng. - Nó vẫn còn ở đó lúc tôi đóng cửa tiệm mà, - anh ta nói tiếp - Tôi chắc chắn là thế. Cô nói là nó không còn ở đó nữa hả ? Nhưng, nếu vậy thì... Chết tôi rồi ! - Anh hãy tới ngay cho; phần tôi, tôi sẽ báo cảnh sát giùm anh. - Cám ơn cô đã có nhã ý lo giúp tôi chuyện ấy. Chiếc bình ấy trị giá cả triệu đôla mà nó lại không thuộc sở hữu của tôi, thế mới chết chứ.  ! ... Mời các bạn đón đọc Nữ Thám Tử Nghiệp Dư: Alice và Chiếc Bình Cổ của tác giả Caroline Quine.
Hợp Âm Thứ Bảy - Lý Trà
Mã Tu Hòa đã từng tiếp xúc với rất nhiều hồ sơ tội phạm hung ác. Duy chỉ có người phụ nữ hàng xóm là anh không thể nhìn thấu, cô là người cứu mạng anh nhưng đồng thời cũng là nghi phạm trong một vụ kỳ án....Càng tiếp cận anh lại càng để ý cô. Còn đối với Cố Thất Hải thì Mã Tu Hòa chính là người trong lòng. Giữa trời rực lửa, anh nhẹ nhàng cầm tay cô và nói: "Chúng ta sẽ cùng nhau chạy thoát cùng nhau sống xót" Ngay tại thời điểm đó cô đã biết trong tim mình có anh. Mã Tu Hòa không hoàn mỹ, tính tình hay ghen, lại vô cùng háo sắc...nhưng điều đó chỉ đối với mình cô. Cuộc sống của anh đầy rẫy những nguy hiểm và tội ác nhưng vì anh cô nguyện ý tất cả. *** Mùa hè năm nay dường như tới sớm hơn những năm trước, dưới nắng hè chói chang, một mình Cố Thất Hải mang hai chiếc vali hành lý chuyển đến dưới tầng nhà trọ mới, bước chân có chút không vững, tiếng chuông điện thoại trong túi vang lên. Cô lau mồ hôi trên trán, lấy ra điện thoại xem, quả nhiên là bà chủ nhà gọi đến. Lần này Cố Thất Hải thuê nhà của một người phụ nữ trung niên hay sốt ruột. Cuộc gọi này chắc chắn là giục cô nhanh chóng lên phòng gặp bà. Cô cắn môi, kéo nhanh đồ đạc vào thang máy, một phút sau liền có mặt ở tầng 11. Đúng như Cố Thất Hải đóan, bà chủ nhà lòng đã nóng như lửa đốt đứng đợi cô trước thang máy. “Nhanh lên nào, tí nữa thím còn có hẹn đi chơi mạt chược nữa.” Bà chủ nhà nhanh chóng kéo Cố Thất Hải vào phòng 1102, vội vàng nói cho cô về mấy điểm cần lưu ý khi thuê nhà. Cố Thất Hải ngoan ngoãn đứng một bên lắng nghe, dù sao người đang gấp là chủ nhà nên bà cũng chủ động nói ngắn gọn. Sau một hồi nói chuyện, bà chủ nhà liền giao chìa khóa nhà cho Cố Thất Hải, thuận miệng hỏi: “Hình như cháu vẫn còn là sinh viên phải không? Tiền thuê nhà là do cha mẹ hỗ trợ sao?” Cố Thất Hải ậm ừ: “Cháu… Cháu đi làm thêm kiếm tiền.” Bà vỗ vỗ vai cô: “Người do A Diễn giới thiệu thím rất tin tưởng. Nhớ đúng thời hạn trả tiền cho thím, những chuyện khác cháu liền tùy ý.” Nói xong bà chủ nhà liền nhìn thời gian rồi vội vàng chạy vào thang máy rời đi. Cố Thất Hải nhớ ra, vừa rồi khi đi theo bà chủ nhà cô liền để lại hai vali đồ đạc ở trước cửa thang máy. Khi nãy vừa nghe bà chủ nói chuyện cô vừa chú ý động tĩnh ngoài hành lang. Trừ bỏ tiếng người về ở gian phòng bên cạnh cô đều không nghe thấy gì khác, nên cũng không lo lắng việc có người lấy trộm mất đồ. Cô định đi ra ngoài mang đồ vào, nào ngờ vừa mở cửa ra liền thấy hai chiếc vali đang nằm yên lặng trước cửa. Cô ngó ra bên ngoài, nơi này chỉ có ba căn hộ. Nhà cô ở là 1102, bên cạnh là số nhà 1101 và đối diện là 1103. Như vậy tiếng bước chân cô vừa nghe được là của chủ nhà 1101, có lẽ người đó vừa giúp cô chuyển hành lý đến trước cửa. Khi nào đó nhất định phải tìm cơ hội cảm ơn người ta mới được. Cố Thất Hải yên lặng nhớ kĩ chuyện này rồi bắt đầu chuyển đồ đạc vào nhà mới, bắt đầu sắp xếp mọi thứ. Một lúc sau, người cô nhễ nhại mồ hôi, vừa trải xong ga giường đột nhiên nghe thấy chuông báo tin nhắn vang lên. Là của người giới thiệu phòng. Hà Diễn hỏi cô: “Cảm thấy nhà mới thế nào?” ... Mời các bạn đón đọc Hợp Âm Thứ Bảy của tác giả Lý Trà.
Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi - Alexandra Marinina
Nữ thám tử Nastya Kamenskaya đối mặt với một vụ án giết người với nạn nhân là một phụ nữ lớn tuổi sống cô đơn một mình. Trong nhà có nhiều của quí nhưng kẻ gian đã không đúng đến. Từ cái chết của bà lão, Nastya tiếp tục đối đầu với nhiều cái chết khác, và dấu vết dẫn cô đến tận Ucraina với một tổ chức tội phạm và những âm mưu tưởng như không tưởng.. Huyễn hoặc của tội lỗi được đánh giá là một trong những tác phẩm hay của Alexandra Marinina, nếu bạn vượt qua được lối kể chuyện rề rà, những tình huống rối rắm đan xen để đi đến cái kết, bạn sẽ thấy mình không bỏ thời gian uổng phí. *** Nhìn vào căn phòng ấy, với cái xác người phụ nữ có tuổi nằm sóng sượt, có cái gì đó khơi dậy các câu chuyện của Dostoievsky. Án mạng người đàn bà làm nghề cho vay nặng lãi. Tuy vậy, theo các chứng liệu ban đầu, bà ta không làm chuyện cầm cố và không biến nhà mình thành hiệu cầm đồ. Hơn nữa, quang cảnh trong căn hộ xây từ thời Xtalin chứng tỏ sự dư dật và nguồn gốc quí tộc của chủ nhân. Nơi đây nhà bác học nổi tiếng, viện sĩ Smagorin đã từng sống, nhưng đó là lâu lắm rồi. Người đã khuất, Ekaterina Venediktovna Aniskovets, là con gái của ông. Đã ba lần kết hôn và ngần ấy lần đổi họ, nhưng chỗ ở thì không. Ở trong tòa nhà này, có lẽ bà sống lâu hơn tất cả các cư dân khác. Có điều căn hộ của bà vẫn còn là riêng, những căn khác đã từ lâu biến thành các căn hộ chung cư bị đổi chủ xoành xoạch. Họ hoặc được cấp hoặc mua nhà ở mới và chuyển đi, những người khác dọn đến nhờ sang đổi với người thân hoặc vợ hay chồng mình. Các cánh cửa căn hộ đều bị đục nham nhở để lắp chuông và giá gác danh thiếp, và chỉ có cửa căn hộ của Ekaterina Venediktovna có một cái chuông duy nhất và một bảng kim loại có đề Viện sĩ N.V. Smagorin. Viên giám định pháp y xem xét tử thi, chuyên viên chấp pháp hình sự thì bói toán trên các dấu vết. Án mạng hẳn là vụ lợi, được thực hiện với mục đích cướp của, vì căn hộ rất sang trọng bị xáo trộn đến dễ sợ. Thấy ngay là người ta muốn tìm kiếm cái gì đó. - Nạn nhân có bà con gì không ? - Dự thẩm viên Olshansky hỏi người hàng xóm được mời sang chứng kiến. - Tôi không biết, - người thiếu phụ mặc đồ thể thao đáp một cách thiếu quả quyết - Tôi mới ở đây không lâu, trọn nửa năm. Nhưng tôi được nghe rằng bà ấy không con cái gì. - Ai ở tòa nhà này có thể kể điều gì đó về bà Aniskôvets ? Ai đã sống lâu ở đây ? - Ôi, tôi chịu thôi - người hàng xóm lắc đầu. Ở đây tôi ít tiếp xúc với mọi người, tôi chỉ là người thuê phòng. Bà chủ mua căn hộ rồi cho thuê từng phòng. Tôi là dân tị nạn - bà này tiếp lời. - từ Tadjikistan. Ở đây mọi người tránh né tụi tôi như dịch bệnh, tuồng như chúng tôi có thể truyền nhiễm. Bởi vậy họ có chuyện trò gì lắm với chúng tôi đâu. Quả là vị hàng xóm này không được tích sự gì. Giờ thì phải đi lòng vòng từng căn hộ để gom góp đôi chút chứng liệu về người đàn bà có tuổi đã bị sát hại dã man bằng một vật nặng đập vào gáy. Với cư dân tòa nhà này, người quá cố Ekaterina quả thật đã hầu như không tiếp xúc , tuy vậy cháu chắt và người quen của bà không phải là ít. Là dân Matxcơva gạo cội, bà lớn lên ở đây. Tốt nghiệp phổ thông và đại học tổng hợp, rồi làm ở Bảo tàng Lịch sử. Và đã kết giao bè bạn ở mọi nơi. Tất nhiên đến hôm nay không phải tất cả họ đều còn sống. Nhưng dù sao số người còn có thể kể về nạn nhân vẫn khá nhiều. ... Mời các bạn đón đọc ​Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi của tác giả Alexandra Marinina.
Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd - Agatha Christie
Ở làng King’s Abbot, vụ tự sát của bà góa Ferrars làm dấy lên đồn đoán rằng bà đã giết chồng, bị tống tiền và có quan hệ mờ ám với ông Roger Ackroyd, một người giàu có trong làng. Tối hôm sau, ông Ackroyd bị giết trong phòng làm việc trước khi phát hiện được ai là kẻ tống tiền người đàn bà góa. Thám tử lừng danh Hercule Poirot ra tay phá án, với sự trợ giúp của bác sĩ James Sheppard. Xuất bản lần đầu năm 1926, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd nhanh chóng trở thành hiện tượng xuất bản và sau này được coi là tác phẩm kinh điển của dòng văn học trinh thám phổ thông, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn chương thể loại này *** Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Bà Ferrars chết vào đêm hôm thứ năm, giữa hai ngày 16 và 17 tháng 9. Người ta gọi tôi đến vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ sáu, song tôi không thể làm gì hơn được nữa. Bà ta đã chết được mấy tiếng đồng hồ rồi. Vào khoảng 9 giờ hơn, tôi về đến nhà. Cửa đóng kín. Tôi lặng lẽ mở bằng chiếc chìa khóa riêng, treo áo và mũ ở phòng ngoài. Tôi đứng yên một lúc; một cảm giác nặng nề và lo lắng đè nặng lên tôi. Không biết cái gì sẽ xảy ra sau đây, chắc chắn là tôi không thể đoán được. Nhưng trong đầu tôi cứ quay cuồng một ý nghĩ rằng trong thời gian tới đây, sẽ có nhiều điều bất ngờ nữa xảy ra như cái chết của bà Ferrars. Như người ta thường nói: Những gì con người không hy vọng thì luôn luôn xảy đến. Trong bếp có tiếng cốc va chạm nhau lách cách và một giọng nói khô khan vọng ra, đó là giọng của chị gái tôi: Caroline. - Cậu đã về đấy à, James? Một câu hỏi vô nghĩa, nếu không phải là tôi thì còn là ai khác nữa cơ chứ? Tôi vẫn im lặng không muốn trả lời, chính bà chị tôi là nguyên nhân của sự im lặng này. Caroline là một người đàn bà rất thóc mách và thậm chí còn hơn thế nữa, nếu người ta đề cập đến một vấn đề hay câu chuyện nào đó ở ngoài cái nhà này, Caroline có thể tìm mọi cách để biết cho bằng được những câu chuyện không đâu ra đâu của thiên hạ, mặc dù bà ta vẫn chỉ ngồi ở nhà. Tôi không biết bà chị tôi làm việc đó như thế nào, chỉ biết là bà ấy làm được thôi. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao tôi phải câm miệng. Tất cả những điều tôi sắp phải kể cho Caroline nghe bây giờ, xung quanh cái chết của bà Ferrars, có thể là những điều mà toàn thị trấn này đã được biết cách đây một giờ đồng hồ rồi. Song, bà chị tôi lại luôn luôn muốn biết những cái gì mà những người khác không biết cơ, đó đâu phải là lỗi của tôi. Chồng bà Ferrars bị chết cách đây đã được hơn một năm. Mỗi khi nói về cái chết của ông Ferrars, Caroline vẫn hay khẳng định rằng: Ông Ferrars chết là do bị bà vợ đầu độc. Caroline khẳng định như vậy không dựa trên một chứng cứ hoặc lý lẽ nào và thường xuyên cãi lại khi tôi nói rằng ông Ferrars chết vì bệnh dạ dày quá nặng, thêm vào đó, ông ta còn có thói quen uống rượu mạnh nhiều một cách kinh khủng. Đây là một bằng chứng đúng đắn vì hậu quả của nó đối với bệnh này của ông Ferrars cũng giống như kết quả của một vụ đầu độc. Nhưng Caroline không bao giờ dựa trên cơ sở này để đánh giá lại về bà Ferrars cả, mà vẫn buộc tội bà ấy là một kẻ giết người. - Cậu chỉ cần quan sát kỹ là hiểu ngay bà ta là một người như thế nào - Caroline vẫn thường nói với tôi như vậy. Tôi vẫn do dự đứng ngoài phòng khách không muốn vào và đang suy nghĩ về tất cả những điều đó thì giọng nói gắt gỏng của bà chị tôi lại vọng ra: - Cậu đang làm gì ngoài ấy thế hả, James? Sao không vào đây mà ăn sáng đi? ... Mời các bạn đón đọc Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd của tác giả Agatha Christie.