Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider

Đỉnh Tuyết là cuốn sách thứ hai trong series Alex Rider, được viết bởi tác giả người Anh Anthony Horowitz. Cuốn sách được phát hành tại Vương quốc Anh vào ngày 3 tháng 9 năm 2001 và ở Bắc Mỹ vào ngày 15 tháng 4 năm 2002, với tựa đề thay thế là Point Blank. Truyện viết về cuộc phiêu lưu mới của Alex Rider, trong một điệp vụ mới của tình báo nước Anh. Với trí tưởng tượng phong phú, cách hành văn hiện đại và rất lôi cuốn qua hàng loạt tình tiết gay cấn, tác giả đưa người đọc đến một ngôi trường kỳ lạ, bí ẩn từ giáo viên đến học sinh và tại đây Alex Rider đã đối đầu với một tên sát nhân thiên tài và điên khùng nhất nhì thế giới. Truyện phù hợp với mọi đối tượng bạn đọc đặc biệt là những bạn trẻ yêu thích các chuyến phiêu lưu mạo hiểm và những ai đã đọc qua phần 1 “Công tắc bão” càng không thể bỏ qua. *** Alex Rider là bộ tiểu thuyết tình báo cho thanh thiếu niên về một điệp viên nhỏ tuổi có tên là Alex Rider, đã được xuất bản thành sách và phát hành bắt đầu từ năm 2000 cho đến nay, gồm 13 cuốn. Ngoài 13 cuốn là nội dung chủ yếu, bộ truyện còn kèm theo sáu truyện tranh, bảy truyện ngắn và một cuốn bổ sung. Tại Vương quốc Anh, cuốn tiểu thuyết đầu tiên (tập 1) phát hành vào năm 2000, cuốn cuối cùng (tập 13) phát hành năm 2020. Bộ tiểu thuyết được Walker Books ở Anh xuất bản. Ở Việt Nam, một số cuốn trong bộ tiểu thuyết này đã được dịch ra tiếng Việt. Tác giả của bộ truyện này là Anthony Horowitz - một nhà văn người Anh chuyên viết tiểu thuyết và kịch bản đã nổi tiếng về các tác phẩm The Diamond Brothers (anh em kim cương), The Power of Five (Người gác cổng), Sherlock Holmes, v.v. Bộ tiểu thuyết này nổi tiếng vì là một tác phẩm văn học thuộc thể loại tiểu thuyết ly kỳ pha với hoạt động tình báo (spy fiction), kết hợp phiêu lưu, đã hấp dẫn nhiều lứa tuổi, hiện rất phổ biến ở nhiều nước châu Âu, châu Mỹ. Sách được bán rất chạy, hiện đã bán được trên 9 triệu bản hoặc có thể hơn nữa. Một số tập của bộ tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim chiếu rạp (từ 2006), thành phim truyền hình (từ 2020) với tựa đề cùng tên. Ngoài ra một số nội dung trong cốt truyện còn được chuyển thể thành trò chơi điện tử "Alex Rider Game". Ở Việt Nam, phần I của bộ phim truyền hình cùng tên là Alex Rider đã công chiếu trên kênh AXN châu Á từ tháng 3 năm 2021. *** Chiếc xe hơi vẫn chở ông đi làm vào bảy giờ mười lăm phút sáng là một chiếc Mercedes được chế tạo theo đơn đặt hàng, có bọc thép và các ô cửa đều được lắp kính chống đạn. Tài xế của ông là một nhân viên FBI đã về hưu, lúc nào cũng thủ trong người một khẩu súng lục Beretta tự động và rất thành thạo cách sử dụng nó. Từ chỗ chiếc xe hơi dừng đến lối vào tòa nhà Roscoe, nằm trên Đại lộ số Năm ở New York, chỉ cách nhau có năm bước chân, thế nhưng những chiếc camera được gắn vào hệ thống truyền hình cáp vẫn theo sát ông ta trong từng cử động. Các cánh cửa tự động nhẹ nhàng khép lại sau lưng ông; một tay bảo vệ mặc đồng phục - có trang bị vũ khí - dõi theo khi ông băng qua phòng lớn, bước vào thang máy riêng. Chiếc thang máy riêng của ông có những bức vách lát đá cẩm thạch trắng muốt, một tấm thảm màu xanh dương, một tay vịn màu bạc, và không có nút bấm nào cả. Ông Roscoe đặt bàn tay của mình lên một ô kính nhỏ. Bộ phận cảm biến đọc vân tay của ông, kiểm tra lại chúng và kích hoạt thang máy. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại, thang máy lên thẳng một mạch tới tầng thứ sáu mươi. Không một ai có thể sử dụng nó. Mà nó cũng không bao giờ dừng lại ở bất cứ tầng nào trong tòa nhà. Trong lúc thang máy đi lên, các nhân viên tiếp tân ở tiền sảnh bắt đầu nhấc điện thoại, thông báo cho tất cả nhân viên trong tòa nhà biết rằng ông Roscoe đang đến. Mọi người làm việc trong văn phòng riêng của ông Roscoe đều đã được lựa chọn một cách cẩn thận và xem xét chặt chẽ, kỹ lưỡng cả về lý lịch lẫn chuyên môn. Không bao giờ có thể gặp ông mà không hẹn trước. Hẹn trước rồi thì phải ba tháng sau mới được gặp. Khi người ta giàu, người ta phải cẩn thận. Cuộc sống có nhiều người kỳ quặc lắm, những kẻ bắt cóc, những tên khủng bố - liều lĩnh và cướp bóc. Ông Michael J. Roscoe là chủ tịch Tập đoàn điện tử Roscoe và là người thứ chín, hay thứ mười, giàu nhất trên thế giới, thế nên ông rất cẩn thận. Từ lúc chân dung ông Roscoe xuất hiện trên trang bìa tạp chí Thời đại (Vua điện tử), ông biết rằng mình đã trở thành mục tiêu của nhiều người. Khi ở chốn công cộng, ông bước đi rất nhanh, đầu cúi xuống. Mắt kính râm ông chọn phải che được nhiều nhất gương mặt tròn trịa và bảnh trai của ông. Bộ complê ông Roscoe mặc rất đắt tiền nhưng vô danh. Nếu đến nhà hát hay đi ăn tối, thì vào đến phút chót, ông mới đến, ông không hề thích phải đi quanh quẩn đâu đó. Cuộc sống của ông có hàng tá hệ thống bảo vệ khác nhau, mặc dù chúng làm ông khó chịu, nhưng ông đã biến chúng trở thành thói quen. Hãy hỏi bất kỳ một điệp viên hay nhân viên an ninh nào đi. Thói quen là thứ có thể giết chết người ta. Nó báo cho kẻ đối địch biết rằng ta sẽ đi đâu và khi nào thì ta tới đó. Thói quen sẽ giết chết ông Michael J. Roscoe, và hôm nay là ngày thần chết đã chọn để gọi ông. Lẽ tất nhiên, ông Roscoe không hề có ý niệm gì về chuyện này khi ông bước ra khỏi thang máy mở thẳng vào văn phòng riêng của mình, một căn phòng rất to chiếm lĩnh một góc tòa nhà với những cửa sổ kéo dài từ sàn tới trần nhà, trông ra hai hướng: Đại lộ số Năm ở hướng đông và một phần của Công viên Trung tâm ở hướng Bắc. Hai bức tường còn lại có một cửa ra vào, một kệ sách thấp và một bức tranh sơn dầu đơn độc - một bức tranh vẽ bình hoa của họa sĩ Vincent van Gogh. Các vật dụng trên mặt kính đen ở bàn làm việc của ông được sắp xếp gọn ghẽ: một máy vi tính, một sổ tay bọc da, một máy điện thoại và một tấm ảnh của cậu bé mười bốn tuổi nằm trong khung hình. Khi cởip chiếc áo vét-tông ra và ngồi xuống, ông nhận ra mình đang nhìn vào bức ảnh của cậu bé. Tóc vàng, mắt xanh, và có tàn nhang. Paul Roscoe giống bố mình như đúc hồi ba mươi năm trước, ông Michael Roscoe năm nay đã bước vào tuổi năm mươi hai và bắt đầu nhận ra tuổi tác của mình, mặc dù nước da ông vẫn rám nắng quanh năm. Con trai ông cao gần bằng bố. Tấm hình này chụp vào mùa hè năm ngoái, trên đảo Long Insland. Họ đã trải qua những ngày lênh đênh trên biển. Sau đó là bữa ăn đồ nướng trên bãi biển. Đấy là một trong những ngày hạnh phúc mà họ đã có cùng nhau. Cửa mở, người thư ký bước vào. Helen Bosworth là người Anh. Cô rời nhà, dĩ nhiên, cả chồng nữa, để đến và làm việc ở New York; cô yêu mỗi phút giây ở đây. Cô đã làm việc trong văn phòng này được mười một năm rồi, và trong suốt quãng thời gian đó, cô chưa hề quên một chi tiết hay phạm một lỗi lầm nào. - Xin chào ông Roscoe - Cô lên tiếng. - Chào cô, Helen. Cô đặt xấp tài liệu lên bàn ông. - Số liệu mới nhất từ Singapore. Dự toán về tổ chức R-15. Ông có bữa trưa với Thượng nghị sĩ Andrews lúc mười hai giờ rưỡi. Tôi đã đặt chỗ ở Ivy. - Cô đã gọi đi London chưa ? - ông Roscoe hỏi. Helen Bosworth chớp chớp mắt. Cô chưa bao giờ quên điều gì, vậy tại sao ông ta lại hỏi thế ? Cô đáp: - Chiều hôm qua, tôi đã gọi tới văn phòng ông Alan Blunt rồi. Buổi chiều ở New York là buổi tối ở London. Cô Helen nói tiếp: - Ông Blunt không rảnh, nhưng tôi đã sắp xếp cho ông một cuộc điện thoại gọi qua tổng đài vào chiều nay. Chúng tôi có thể nối số vào xe hơi của ông. - Cảm ơn cô, Helen. - Tôi đem cà phê cho ông nhé ? - Không cần đâu, cảm ơn Helen. Hôm nay tôi không uống cà phê. Helen Bosworth rời khỏi phòng, cô thực sự hoảng hốt. Không uống cà phê ? Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo nữa đây ? Theo như những gì cô biết thì ông Roscoe luôn bắt đầu một ngày làm việc của mình với hai tách cà phê kia mà. Liệu có phải ông bị ốm không nhỉ ? Gần đây ông hoàn toàn không còn là ông nữa - không phải là từ lúc Paul trở về nhà từ ngôi trường ở miền Nam nước Pháp. Lại còn cuộc điện thoại cho ông Alan Blunt ở London nữa chứ ! Chưa có ai kể với cô về con người này cả, nhưng cô đã từng nhìn thấy cái tên này trên một tệp tài liệu, ông Roscoe có việc gì đó với Cục tình báo quân đội. MI6. Ông Roscoe đang làm gì vậy, nói chuyện với một điệp viên ư ? Cô Helen Bosworth quay trở lại văn phòng làm việc của mình, cố gắng làm dịu nỗi kích động, không uống cà phê - cô không thể chịu nổi điều này - mà uống một tách trà làm tỉnh người trong bữa trà điểm tâm của Anh. Một điều gì đó rất lạ đang diễn ra, và cô không hề thích thú điều đó.. Cô không thích điều đó chút nào. Trong lúc ấy, dưới đó sáu mươi tầng, một người đàn ông bước vào tiền sảnh, hắn mặc quần yếm xám với một huy hiệu nhận diện đính trên ngực. Huy hiệu cho biết hắn là Sam Green, một kỹ sư bảo dưỡng của Công ty liên hợp Thang máy X-Press, một tay hắn xách một chiếc cặp, tay kia xách một cái hộp dụng cụ lớn, màu bạc. Hắn đặt cả hai xuống phía trước quầy tiếp tân. Same Green không phải là tên thật của hắn. Tóc hắn - đen và hơi nhờn - là tóc giả; cũng là giả cả cặp kính mát, hàng ria mép và hàm răng không bằng phẳng. Trông hắn khoảng năm mươi tuổi, nhưng sự thật thì hắn chỉ mới gần ba mươi. Không ai biết tên thật của người đàn ông này, nhưng với công việc hắn đang làm, cuối cùng, hắn cũng đã để lại tiếng tăm. Hắn được biết đến với cái tên vỏn vẹn: "Quý ông'', là một trong những tên giết mướn thành đạt nhất và được trả lương cao nhất trên thế giới. Hắn được tặng biệt danh này bởi vì hắn luôn luôn gửi hoa đến gia đình nạn nhân của hắn. Người bảo vệ ở tiền sảnh nhìn hắn chằm chằm. - Tôi đến để xem thang máy - Hắn lên tiếng. Hắn nói gọng khu Bronx (nằm ở phía Đông Bắc thành phố New York) mặc dù cả đời hắn chưa bao giờ ở đó quá một tuần. - Để làm gì ? - Người bảo vệ hỏi - Người của ông đã đến đây tuần trước rồi mà. - Vâng. Đúng rồi. Chúng tôi đã phát hiện thấy một dây cáp bị hư ở thang máy số mười hai. Nó cần được thay thế, nhưng lúc ấy, chúng tôi lại không có thiết bị. Thế nên họ mới cử tôi quay trở lại. Quý ông lục tìm trong túi, lấy ra một tờ giấy nhàu nát. - Anh có cần gọi đến văn phòng chính không ? Thật sự là tôi được chỉ định đến đây mà. Nếu người bảo vệ mà gọi cho Công ty Liên hiệp Thang máy X-Press, thì anh ta sẽ khám phá ra được rằng quả thực Công ty có nhận một người tên là Sam Green vào làm - nhưng đã hai ngày qua, chẳng thấy mặt mũi ông ta đâu. Bỏi vì Sam Green thật hiện đang nằm ở dưới đáy sông Hudson với một con dao trên lưng và một khối bê-tông nặng chín kilôgram buộc ở chân. Nhưng người bảo vệ đã không gọi điện cho Công ty. Quý ông cũng đã đoán trước được rằng anh ta sẽ không gây cản trở cho mình. Xét cho cùng thì thang máy vẫn luôn bị hỏng như thế. Lúc nào mà chả thấy thợ sửa chữa đi ra đi vào. Có gì khác biệt nếu có thêm một người nữa vào làm ? Người bảo vệ đưa ngón tay cái ra hiệu. Anh ta nói: - Lên đi. Quý ông cất tờ giấy vào túi, xách đồ đạc lên, đi lại phía thang máy. Có mười hai tòa nhà chọc trời đang được bảo dưỡng, thêm tòa nhà của ông Michael J. Roscoe nữa là thứ mười ba. Thang máy số mười hai nằm ở phía cuối. Khi hắn bước vào, một chú bé giao hàng cầm trên tay một bưu kiện cũng cố gắng vào theo. - Xin lỗi nhé - Quý ông nói - Phải đóng cửa để sửa chữa. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại. Quý ông bắt đầu làm công việc của mình. Hắn nhấn nút lên tầng sáu mươi mốt. Quý ông chỉ mới được giao nhiệm vụ này vào tuần trước. Hắn đã phải tiến hành thật nhanh, giết một kỹ sư bảo dưỡng thật, bắt chước hình dáng của ông ta, tìm hiểu cách bố trí trong tòa nhà Roscoe, và cố gắng sử dụng thành thạo một số dụng cụ mà hắn biết trước là hắn sẽ phải cần đến. Những người thuê hắn muốn nhà triệu phú này phải bị loại trừ càng sớm càng tốt. Quan trọng hơn, trông nó phải giống với một vụ tai nạn. Vì vậy, người ta đã nhờ đến Quý ông - và hắn được trả một trăm ngàn đôla. Tiền được gửi vào một tài khoản ở ngân hàng Thụy Sĩ; họ trả trước một nửa và sẽ trả tiếp nửa kia sau khi xong việc. Cửa thang máy lại mở ra. Tầng sáu mươi mốt được sử dụng chủ yếu cho hoạt động bảo vệ. Đây là nơi người ta đặt bể nước, cũng như những máy vi tính điều khiển nhiệt độ, máy điều hòa không khí, camera theo dõi và những thang máy trong tòa nhà. Quý ông tắt thang máy bằng cách sử dụng chiếc chìa khóa đã từng thuộc về Sam Green, sau đó, hắn đi lại phía những chiếc máy vi tính. Hắn biết chính xác những chiếc máy vi tính này nằm ở đâu. Thực tế, hắn có thể nhận ra chúng đang được che lại. Hắn mở chiếc cặp của mình ra. Trong cặp có hai ngăn. Ngăn thấp chứa một chiếc máy vi tính xách tay. Ngăn cao hơn đặt những mũi khoan và các dụng cụ khác, mỗi món đồ đều được buộc ràng lại, nằm cố định một chỗ. Hắn mất mười lăm phút để xâm nhập vào máy vi tính trung ương và kết nối nó vào máy vi tính xách tay của hắn. Việc truyền dữ liệu qua hệ thống bảo vệ tòa nhàRoscoè lại mất thêm một khoảng thời gian nữa nhưng cuối cùng nó cũng trót lọt. Hắn gõ một lệnh vào bàn phím, ở tầng dưới, thang máy riêng của ông Michael J. Roscoe vừa làm một việc mà trước đây nó chưa hề làm bao giờ. Nó lên thêm một tầng nữa - tầng thứ sau mươi mốt. Tuy nhiên, cửa thang máy vẫn đóng. Quý ông cũng chẳng cần bước vào. Thay vào đó, hắn nhấc chiếc cặp cùng với cái hộp dụng cụ màu bạc lên, mang trở lại vào thang máy mà hắn đã lên đây từ tiền sảnh. Hắn mở khóa và nhấn nút xuống tầng năm mươi chín. Một lần nữa, hắn lại khóa thang máy. Rồi hắn với tay lên, đẩy. Nóc thang máy là một cửa lật. Hắn đặt chiếc cặp và chiếc hộp dụng cụ màu bạc lên trên đó rồi nhảy lên trên nóc thang máy. Lúc này, Quý ông đang đứng trong khoang thang máy chính của tòa nhà Roscoe. Bốn phía xung quanh hắn toàn những cột và các ống đen xì những dầu mỡ cùng bụi bẩn. Những sợi dây cáp làm bằng thép dày buông thõng xuống, một số kêu o o khi chúng đang tải vật nặng. Nhìn xuống phía dưới, hắn có thể trông thấy một đường hầm trông như kéo dài vô tận, với những khe sáng do cửa thang máy trượt ra rồi đóng lại khi những chiếc thang máy đi lên các tầng khác nhau. Chúng tạo ra một làn gió nhẹ thổi tung bụi vào mắt hắn. Bên cạnh hắn là cửa thang máy, mà nếu mở ra, chúng sẽ dẫn hắn vào thẳng văn phòng ông Roscoe. Bên trên những cánh cửa này, phía trên đầu của hắn, thêm vài mét nữa về bên phải là mặt dưới thang máy riêng của ông Roscoe. Cái hộp đựng dụng cụ đang ở bên cạnh hắn. Một cách thận trọng, hắn mở chiếc hộp ra. Xung quanh chiếc hộp được lót một miếng bọt biển dày. Trong lòng miếng lót ấy là một vật dụng trông như một máy chiếu phim phức tạp, màu bạc, hình lòng chảo, có một thấu kính thủy tinh dày. Hắn lấy chiếc máy ra, sau đó, nhìn vào đồng hồ. Tám giờ ba mươi lăm phút sáng. Quý ông còn những một tiếng đồng hồ nữa để lắp thiết bị này vào bên dưới thang máy của ông Roscoe, và thêm chút xíu thời gian nữa để kiểm tra lại cho chắc chắn rằng nó đang hoạt động. Hắn còn cả khối thối gian nữa. Mỉm cười với chính mình, Quý ông lấy ra một cái tuavít vạn năng và bắt đầu làm việc. Mười hai giờ trưa, cô Helen Bosworth nói vào điện thoại: - Thưa ông Roscoe, xe hơi của ông đến rồi. - Cảm ơn cô, Helen. Buổi sáng hôm ấy, ông Roscoe không làm việc nhiều, ông tự nhận ra rằng mình chỉ để có một nửa đầu óc vào công việc. Một lần nữa, ông lại nhìn vào bức ảnh trên bàn. Paul. Làm thế nào mà cha và con lại trở nên hục hặc với nhau như thế chứ ? Và điều gì đã xảy ra vào mấy tháng cuối cùng đó khiến cho tình cảm cha con của họ trở nên tồi tệ đến như vậy ? Ông đứng dậy, mặc áo vét-tông vào, rời khỏi phòng làm việc, lên đường đi ăn trưa với Thượng nghị sĩ Andrews. Ông hay ăn trưa với những chính khách. Những người này hoặc muốn tiền, muốn ý kiến của ông - hoặc chỉ là muốn quan hệ xã giao với ông. Bất cứ ai giàu sụ như Roscoe cũng đều muốn kết bạn với người có quyền lực, và các chính khách thì lại cần có những người bạn như thế. Ông nhấn nút thang máy, cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, ông bước một bước về phía trước. Điều cuối cùng ông Michael J. Roscoe còn nhìn thấy trong cuộc đời mình chính là mặt trong chiếc thang máy của ông, với những vách cẩn đá cẩm thạch trắng, tấm thảm xanh dương, và tay vịn màu bạc. Chân phải của ông, mang chiếc giày da màu đen do một cửa hàng nhỏ ở thủ đô Rôma làm bằng tay để dành riêng cho ông, đặt lên tấm thảm và đã xuyên qua nó, kéo theo cả thân hình của ông đổ nghiêng vào trong thang máy và rồi cũng xuyên qua tấm thảm, ông lọt xuống, rơi khỏi sáu mươi tầng lầu cho đến chết. Ông Roscbe hoàn toàn không thể hiểu được điều gì đã xảy ra, ông đã ngạc nhiên đến độ không thể kêu lên được một tiếng nào. Ông rơi vào bóng tối đen ngòm của khoang thang máy, rơi dọc theo những bức vách, và đâm sầm vào nền bê-tông rắn chắc ở bên dưới, cách đó bốn trăm năm mươi bảy mét. Chiếc thang máy vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trông nó vẫn vững chắc, nhưng thật ra, nó không còn ở đó nữa. Cái mà ông Rosoe bước vào chỉ là một hình ảnh ba chiều, một hình ảnh được chiếu vào khoảng không trống rỗng của khoang thang máy, nơi có để chiếc thang máy thật. Quý ông đã lập trình cho cửa mở ra khi ông Roscoe bấm nút, và ung dung nhìn thấy ông đi vào quên lãng. Nếu nhà triệu phú ngước nhìn lên một chút, ông sẽ nhận ra một máy chiếu không gian ba chiều màu bạc, đang chiếu ra một hình ảnh, cái máy ấy chỉ ở bên trên đầu ông có vài mét. Nhưng người đàn ông bước vào thang máy để xuống ăn trưa không hề ngước mắt lên. Quý ông đã biết trước điều đó. Và hắn chưa bao giờ tính toán sai. Mười hai giờ ba mươi lăm phút, người lái xe gọi lên, nói rằng ông Roscoe không vào xe hơi. Mười phút sau, cô Helen Bosworth báo động khẩn cấp, cô bắt đầu rảo quanh phòng lớn của tòa nhà. Lúc một giờ, người ta gọi tới nhà hàng. Ngài Thượng nghị sĩ vẫn đang chờ ở đó. Nhưng ông Roscoe thì không thấy tăm hơi. Thật ra, mãi đến ngày hôm sau, người ta vẫn chưa tìm ra được thi thể của ông Roscoe; nhưng vào tại thời điểm đó, sự mất tích của nhà triệu phú đã trở thành tin tức nổi cộm của các báo. Một tai nạn kỳ quặc - có vẻ như vậy. Không ai có thể lý giải được điều đã xảy ra. Bởi vì lúc đó, lẽ dĩ nhiên, Quý ông đã lập trình lại máy vi tính, gỡ máy chiếu ra và xóa bỏ mọi dấu vết, trước khi bình thản rời khỏi tòa nhà. Hai ngày sau, một người đàn ông trông giống một kỹ sư bảo dưỡng bước vào sân bay quốc tế John F. Kennedy. Ông ta đáp chuyến máy bay đến Thụy Sĩ. Nhưng trước tiên, ông ta đến một cửa hàng hoa, đặt mười hai bông hoa uất kim hương đen, yêu cầu gửi đến một địa chỉ nào đó. Người đàn ông ấy gửi tiền mặt, ông ta đã không để lại tên. Mời các bạn đón đọc Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider của tác giả Anthony Horowitz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phố Academy
Một bé con. Một tình nhân. Và một người mẹ.  Đời nàng mở ra mặc khải “ký ức tình yêu giúp làm vơi nhẹ.” Cuộc đời một con người được tái dựng trong chưa đầy 200 trang sách. Điều đó xem chừng là bất khả cho tới khi ta đọc một tác phẩm như Phố Academy: Màn thứ nhất - cô bé Tess mồ côi mẹ; màn thứ hai - nàng Tess yêu khờ dại; và màn cuối - bà Tess bất hạnh. Cuốn tiểu thuyết không mới mẻ trên bình diện khắc họa một đời người, nhưng chính sự “không mới mẻ” này lại khiến nó tạo nên những cảm xúc rất thực. Rồi chúng ta sẽ nhớ thắt lòng hình ảnh cô bé Tess thảng thốt, ngác ngơ trước chiếc quan tài mẹ: “Mẹ đã đi mất. Mẹ của Tess đi xa rồi. (...) Bé cảm thấy mặt đất dưới chân sụp xuống – thảm cỏ, cánh đồng và gò đất đang trượt ra xa, đến khi bé bị bỏ mặc bơ vơ nơi đỉnh gò trơ trụi. (...) Bé hầu như không thở nổi. Tess ngoảnh về phía vầng mặt trời đã xuống thấp, nhắm mặt và chờ đợi. Xin hãy rủ lòng thương. Bé chờ khuôn mặt mẹ hiện lên, chờ một cánh tay chìa ra. Toàn bộ cơ thể Tess nhướn lên, khao khát được mặt trời chạm vào, được gió nâng lên, bầu trời mở ra và cõi Thiên Đường kéo bé vào.” Niềm nhớ mẹ của Tess làm chúng ta cũng giật mình muốn gọi: “Mẹ, mẹ ơi!”  Chính mất mát vào tuổi ấu thơ ấy đã khiến nhân vật Tess cuống quýt kiếm tìm yên ấm, mãi mãi về sau. Tess thèm được có ai đó cho riêng nàng. Đâu phải chú Mike bởi lời chú hứa cưới nàng chỉ là trò bông đùa hồn hậu; cũng đâu phải chị Claire vì chị rời đi Mỹ - miền đất hứa rồi. Tâm trí Tess chịu ám ảnh về một mối quan hệ lấp đầy sự trống rỗng hoang hoải nơi nàng, và nàng gặp David. Anh càng dửng dưng thì Tess càng khao khát, anh càng xa cách thì cô gái càng muốn lại gần: để dựa đầu lên vai anh, hôn anh, để cùng anh “hòa nhập”. Cuộc hoan ái với chàng trai chỉ diễn ra một đêm song đã kéo dài miên viễn trong đời Tess - kéo dài nỗi thảng thốt lại bị bỏ rơi, kéo dài bất hạnh: “David bỏ đi thật rồi. Hết thảy thanh danh, hết thảy hạnh phúc, đã theo anh đi mất và nàng bị bỏ lại giữa tình cảnh ngặt nghèo.” Một lần nữa, những cảm xúc mãnh liệt của nhân vật cuốn chúng ta theo, khiến ta ngả nghiêng rất thực: “Tess bò vào giường. Trong bóng tối làn môi nàng tự nhiên chu lại như đang hôn, thêm một nụ hôn nữa, cặp môi máy động như hớp lấy không khí. Những thứ, trước đây tơ tưởng là thiếu đoan trang, giờ không còn vậy nữa: tay chân anh, làn da anh, bàn tay anh đặt trên bụng nàng. Hãy trở lại với em.”  Đời Tess không chan chứa gì ngoài mất mát, ngay cả đứa con trai những tưởng sẽ làm tròn đầy đời bà sau cuối cũng lìa xa mẹ - ngay trong cõi sống và sau đó, bằng cái chết. Lấy bối cảnh phố Academy, nước Mỹ và Mary Costello viết về số phận một phụ nữ gốc Ireland. Với người nhập cư, xứ sở cờ hoa trao gửi giấc mơ nao? Mộng lành - “cuộc đời nơi đây là đáng sống, là lý tưởng” hay mộng dữ - lũ chim ác đâm ngang tòa tháp?  Lời chị Evelyn than xiết: “Cô biết sao không? Trước giờ những gì nước Mỹ mang tới cho gia đình này chỉ toàn là bất hạnh” cơ hồ đẩy người đọc vào ngả chông chênh trước tín điều về giấc mơ Mỹ lấp lánh. Lựa chọn khắc họa cái bất hạnh song may thay Mary đã “làm điều này khúc chiết, chân thật không ủy mị”. Tuổi ấu thơ mơ mộng Thiên Đường, ngày xế bóng sực ngẫm ra “đã không có vườn Địa Đàng, sẽ không có vườn Địa Đàng” nhưng Tess không gây cho ta thứ cảm giác bi lụy lê thê. Dẫu gợi ngậm ngùi, dẫu khơi nuối tiếc, nhân vật vẫn chứng tỏ một đời sống can trường “những ngày như mọi ngày bà sẽ đặt bàn chân này lên trước bàn chân kia để bước đi”, một “mặc khải” rằng “ký ức tình yêu giúp làm vơi nhẹ”: Tess đã yêu mẹ, yêu một người đàn ông và yêu con trai tới tận cùng tế bào mình. Có thể nói rằng, trong không gian phố Academy nhỏ bé, Mary Costello đã khắc họa một số phận dễ chìm khuất giữa đám đông “nhu thuận và mờ nhạt” tuy không viện đến những thủ pháp văn chương đột phá nhưng vẫn đủ sức lay động tâm can tới tột cùng. *** Bắt đầu bằng một cái chết và kết thúc cũng bởi một cái chết, cuốn sách mỏng mảnh tinh tế này gói gọn cuộc đời của một con người với những bi kịch cố hữu của nó, không tô vẽ hay có chút gì màu mè giả tạo, “Phố Academy” khiến người đọc lay động với sự chân thực giản dị dù có lẽ cuốn sách sẽ khiến những ai mong chờ một câu chuyện giật gân hay đón đợi một cuộc đời với nhiều biến cố rợn ngợp phải thất vọng. Bảy tuổi, cô bé Tess mất đi người mẹ của mình và từ đó người cha của cô rơi vào sự cộc cằn, xa cách, đặc biệt là khi cô bé bị mất giọng nói khi chứng kiến một đứa trẻ vô gia cư qua đời, cô bé trở nên sợ hãi cha mình và ngày càng tạo khoảng cách với cha dù đôi lúc cô bé vẫn cảm nhận được tình yêu mà ông dành cho bé. Mất mẹ, không được cha quan tâm nên dần dần Tess rơi vào trạng thái cô độc dù còn rất nhỏ, những nỗi nhớ, khao khát về mẹ chỉ có thể được em giữ kín trong lòng: “Vậy là ký ức và vết tích về mẹ quyết còn vương khắp nhà – trong phòng, sảnh, cầu thang. Vết lõm chân mẹ in trên thảm, Trên cái ly nước có dấu tay mẹ. Em thầm hỏi liệu trong những đêm ấm áp, lúc toàn bộ ngôi nhà say ngủ, người mẹ dịu dàng của em, hay các hồi ức về bà có trở lại, mang an ủi cùng hứa hẹn đến cho mọi thứ, bù đắp những nhẫn nại đợi chờ. Cả ngoài kia nữa, khoảng sân, chuồng vịt, có nhớ mẹ chăng?” Nỗi đau mất mẹ dần dà cũng nguôi ngoai thế nhưng vết tích về nó vẫn hằn sau trong cuộc đời của Tess dù rằng em vẫn được yêu thương bởi những người anh chị em trong gia đình. Rời Ireland để di cư sang Mỹ và trở thành y tá trong một bệnh viện nhỏ, Tess bén rễ ở phố Academy và ngày càng lún sâu vào cuộc đời cô độc, buồn bã và không chắc chắn. Ta sẽ theo chân Tess từ khi là một cô gái với những nỗi nhớ khắc khoải về quê hương khi phải tự lập trên một mảnh đất xa lạ, những rung động khát khao của cô với chàng trai mình yêu thương, những nỗi đau đớn khi tình yêu không được đáp lại, niềm hạnh phúc khi được làm mẹ dù có những lúc cô bối rối vì nghĩ rằng một mình cô không thể nuôi được đứa con trai nên người, sự trưởng thành, sự tha thứ, những nỗi buồn và những giọt nước mắt. Mary Costelo khiến người đọc đồng cảm và sống cùng với cuộc đời của Tess, dõi theo từng bước chân của cô với sự rung động đôi lúc khiến trái tim đau nhói, ta cảm thấy một lúc nào đó trong cuộc đời, ta cũng sẽ hoang mang và cảm thấy cuộc sống thật vô định, khó khăn biết bao, đôi lúc ta không thể nào biết rõ ta đang sống hay đang tồn tại, những ngày trôi qua nặng nề như thể ta phải chịu đựng nó, thế nhưng rốt cuộc thì ta vẫn phải tiếp tục bước tiếp và nhìn quanh bên cạnh ta chẳng có ai, ta chỉ có thể một mình quyết định được điều gì sẽ xảy đến với chính bản thân mình. Cuốn sách nói về cuộc đời một con người bình thường nhưng sao mà buồn thăm thẳm, thật ra cái ý nghĩa đích thực của việc sống trên đời này là gì? Một câu chuyện rất chân thực, không hề có những bất ngờ hay biến cố, nỗi buồn trong cuốn sách không lớn lao hay xa lạ, nó khiến ta nhận ra có những giây phút hoài nghi về cuộc đời của chính mình. Đến một lúc nào đó, cũng như Tess, ta sẽ cảm thấy mệt mỏi với việc đấu tranh với cuộc đời, và những ước ao, dự định, hoài bão ta từng ôm ấp thời trẻ đều không thể trở thành hiện thực. Cuộc đời trước mặt không có gì đáng để ta mong đợi những cũng chẳng thể làm ta sợ hãi, ta sẽ chấp nhận nó như đúng bản chất thật sự của nó với những niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và nước mắt, hạnh phúc và đau khổ. Mary Costelo xoáy sâu vào sự bình thường trong cuộc đời của mỗi con người, không có phát minh vĩ đại hay bước nhảy vọt lớn lao, chỉ có nỗi buồn và sự cô đơn ngự trị. Tình yêu gia đình và sự gắn bó với mảnh đất quê hương cũng là một điểm sáng trong “Phố Academy”, dù không luôn bên cạnh nhưng gia đình và vùng quê Ireland luôn có một vai trò đặc biệt trong cuộc đời của Tess, trong những lúc cô đơn nhất cô nhận ra vẫn có một thành viên trong gia đình ở đâu đó trên cùng đất nước này, và điều đó khiến cô và cả người đọc được ai ủi. Nỗi nhớ khắc khoải về quê hương khiến cô luôn ghi nhớ từng bậc thanh, từng bụi cỏ, nơi đó còn lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ để khiến cô không quên đi gốc rễ của mình và kết nối cô với những thành viên khác trong gia đình. Mary Costelo quả thật rất tinh tế trong việc miêu tả những nối kết ấy một cách đẹp đẽ, vững chắc và khó quên. Và đó có phải là khả năng đặc biệt của văn chương, không chỉ kết nối các nhân vật của mình với nhau và còn có thể kết nối bạn đọc với những nhân vật xa lạ ở những vùng đất xa lạ và nền văn hóa xa lạ. Dù có thể, trong cuộc đời những phút giây hạnh phúc thật ít ỏi so với nỗi buồn nhưng đó là những điều mà ta luôn nhớ về, những ký ức sẽ sưởi ấm tim ta vào đêm giá lạnh như khi Tess đứng dưới đường nhìn lên căn hộ cũ của mình đang sáng đèn ở phố Academy và nhớ lại những kỷ niệm về đứa con trai, và đối với cô, cuộc đời chỉ cần như thế là đủ, và cô cảm thấy hạnh phúc. *** Review Meowth: Lại là một cuốn sách không hợp với mình. Có vẻ năm nay mình không có duyên đọc sách lắm, trong 5 cuốn đã đọc thì chỉ thích có 2 cuốn thôi. Phố Academy là câu chuyện về Tess từ khi còn là một bé gái đến khi trở thành cô gái, mẹ rồi bà. Cuộc đời của một người phụ nữ gói gọn trong 200 trang sách. Cuốn sách được viết dưới ngôi thứ ba, những bi kịch của Tess được thuật lại mà không có thêm bất kì cảm xúc nào của người kể, giống như lời thuyết trình của một bộ phim tài liệu vậy. Bởi thế dù qua những con chữ mình thấy được mọi thứ của Tess từ niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn lạc lõng đến nỗi đau song nó vẫn không gợi lên chút gì trong mình. Giọng văn của cuốn sách rất nhẹ nhàng, lúc nào cũng đều đều làm mình cảm thấy nó giống như một câu chuyện không có tình tiết. Nếu vẫn câu chuyện về cuộc đời Tess nhưng được viết bởi một cách khác chắc chắn mình sẽ thích hơn. Cuốn này khiến mình liên tưởng đến "một chỗ trong đời", mình thấy hai cuốn gần như có cùng cách kể truyện. Chắc mình không hợp với nó lắm. Cuốn sách đề cập đến tất cả những vấn đề xoay quanh mỗi gia đình như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em trong nhà với nhau; chạm đến nhiều vấn đề của cuộc sống với đại diện là một người phụ nữ. Bắt đầu bởi một đám tang, kết thúc cũng bởi một đám tang và xuyên suốt cuốn sách là những cái chết khác bên cạnh Tess. Một người phụ nữ mờ nhạt mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu ngoài kia, việc đưa cuộc đời đó lên giấy với mình là thành công lớn nhất của tác giả. Nhưng mình có lẽ sẽ không đọc thêm cuốn nào khác của bà. Đánh giá: 5.5/10 Mời các bạn đón đọc Phố Academy của tác giả Mary Costello.
Đất Dữ
Cuộc đấu tranh tàn khốc nhằm giành lấy khu rừng Sanqueiro Grande – nơi có loại đất đen tốt nhất để trồng ca cao – cuốn rất nhiều người vào vòng quay điên cuồng của nó. Một bên là đại tá Horácio, với sự trợ giúp của tay luật sư có học thức và tài năng Virgilío Cabral, không từ thủ đoạn nào để chiếm đoạt hết đất của những điền chủ nhỏ trong vùng. Bên kia là anh em nhà Badaró: Juca và Sinhô, thích giải quyết mọi chuyện một cách nhanh, gọn bằng những cuộc mưu sát. Và nhiều, nhiều nữa những con người tìm đến vùng đất ấy để làm giàu. Ở đó, cuộc đời của họ gắn liền, xoay quanh, phụ thuộc vào những gốc ca cao để rồi cuối cùng kết thúc bên chính những gốc cây ấy. Ra đời năm 1943, Đất dữ của Jorge Amado viết về nền “văn hóa ca cao” đặc trưng của đất nước Brazil bằng tình yêu của tác giả dành cho quê hương xứ sở. Tác phẩm đã trở thành một trong những tiểu thuyết thành công nhất trong sự nghiệp của ông, được dịch ra nhiều ngôn ngữ, rồi chuyển thể thành kịch, phim và được khán giả đón nhận nồng nhiệt. *** Review Binh Boog: 6 tháng 6, 2018 Ngày, tháng, năm Em thân yêu Ngày chia tay em, anh ra đi với bao ước vọng sẽ giàu có trở về. Hành trang mang theo là niềm khát khao gây dựng cho mình được một đồn điền ca cao. Mỗi quả ca cao chín là một tấc vàng. Ở mảnh đất hứa ấy, ca cao là vàng, là sự giàu có. Nhưng em thân yêu ơi. Anh đã thực sự bị choáng ngợp bởi mảnh đất ấy. Nó không phải là mảnh đất hứa như anh đã tưởng tượng. Ở mảnh đất ấy là sự dữ dội của thiên nhiên. Quay đi quay lại xung quanh chỉ là những khu rừng âm u tăm tối, là những đầm lầy, là bùn đất. Là tiếng kêu của các loài động vật, là tiếng thét gào vĩnh biệt của chú ếch khi bị rắn độc nuốt. Là rắn bò ngổn ngang nhiều vô kể, phải luôn cảnh giác đề phòng với nọc độc của chúng. Là đối mặt với dịch sốt vô phương cứu chữa, là sốt rét rừng. Nhưng trên hết là máu. Máu ở đây đổ xuống mỗi ngày. Cái chết ở đây diễn ra như cơm bữa. Luật lệ nằm trong tay những kẻ mạnh. Người ta thanh toán, trừ khử, chĩa súng vào nhau để tranh dành địa bàn là những đồn điền ca cao hay khu rừng sẽ khai phá để trở thành đồn điền ca cao sau này. Em có thể hình dung những thế lực ở đây không khác gì những băng đảng mafia khét tiếng. Những cuộc ám sát, trừ khử, tranh dành không bao giờ chấm dứt. Người ta sai đi giết người dễ như đi chặt một cái cây. Cùng với ca cao và bùn đất nơi đây đã biến anh thành một con người khác mà chính anh cũng thấy thật xa lạ không còn là chính mình. Từ một người hiền lành và hoà nhã đầy tham vọng rồi anh cũng trở thành một con người thô bạo, một con quỷ một con người hèn hạ vô ích và nhu nhược, một kẻ giết người. Ngoài những lúc bắn giết thì trò giải trí duy nhất ở đây là gái điếm và cờ bạc. Những cô gái ở đây là công cụ giải trí thoả mãn cơn hứng của những tay chém giết hay những anh phu cày lưng lao động trên những đồn điền ca cao. Ca cao ở đây là sự sống, là vàng. Mỗi gốc cây ca cao ở đây là một xác người vun xới. Và anh rồi cũng sẽ là một trong những người nằm dưới gốc cây ca cao để hoà máu mình vào đất cho những đồn điền ca cao ngày càng được mở rộng. Máu và bùn đất sẽ vẫn hoà trộn vào nhau để vun xới cho những cây ca cao ở đây và sẽ luôn luôn tiếp nối trên mảnh đất này. Yêu em! *** Review Huy Minh: Trong lịch sử thế giới, đã có rất nhiều cuộc chiến liên quan đến những loại cây công nghiệp, có thể kể đến cuộc chiến tranh nha phiến hay mặt trận cao su. Đến với “Đất dữ”, tôi được chứng kiến một cuộc chiến mới: cuộc chiến ca cao, một cuộc chiến đẫm máu và đầy rẫy bạo lực với sự dẫn dắt của nhà văn Brazil Jorge Amado. Được viết vào năm 1942, “Đất dữ” – tên của cuốn sách đã nói lên câu chuyện của nó – cuộc chiến giữa hai nhà điền chủ để chiếm đoạt những đồn điền ca cao. Một bên là Horacio, người sẵn sàng gạt phăng tất cả những thứ gì cản đường để đạt được mục đích của mình, với điểm yếu duy nhất là người vợ nhỏ nhắn, luôn khao khát tự do Ester. Một bên là anh em nhà Badaro, cũng thèm khát vùng đất mà Horacio muốn chiếm đoạt, bất chấp thủ đoạn để trở thành người thắng cuộc. Với hệ thống nhân vật khá nhiều và dày đặc nhưng nhân vật trung tâm của cuốn sách không phải là bất cứ người nào trong câu chuyện, Jorge Amado chọn chính vùng đất là nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết của mình. Chúng ta bắt gặp một vùng đất vô luật lệ mà sự quyến rũ của tiền nhanh chóng thu hút mọi người từ khắp nơi đổ về mà trong đó có rất ít người trở về nguyên vẹn – cả về thế xác lẫn tâm hồn: “Người ta nói vùng đất này thực là cái mỏ vàng; người ta bảo có một người nào đó vừa xuống khỏi tàu thủy đã giàu ngay rồi; người ta nói là phố xa đều lát vàng, kiếm vàng cũng dễ như kiếm bụi.” Trong câu chuyện, Jorge Amado liên tục mô tả sự chuyển động song song giữa một bên là bọn điền chủ và tay sai của chúng, một bên là hơi thở tự nhiên của những khu rừng xung quanh – nơi bọn chúng khao khát phá bỏ để lập nên những đồn điền. Nhịp điệu của cuốn sách biến đổi không ngừng, mở đầu với sự chậm rãi và mô tả tỉ mỉ cảnh vật, những phong tục địa phương và giới thiệu từng nhân vật, lúc sau khi bạo lực bắt đầu leo thang thì Jorge Amado liên tục kéo người đọc với những diễn biến nhanh dồn dập, những cuộc giao dịch, những vụ giết người chớp nhoáng. Thông qua cốt truyện chính (cuộc đấu tranh giữa Badaros và Đại Tá Horacio), Jorge Amado mở cho tôi một cánh cửa để nhìn vào thời kỳ khi đồng tiền chi phối mọi thứ và làm thế nào mà bạo lực trở thành một vòng xoáy liên tục định hình cuộc sống của tất cả mọi người. Bạo lực chảy xuyên suốt cuốn sách theo một vòng lặp lại, không biết bao giờ kết thúc, những cây ca cao được tưới bằng máu của những người ngã xuống sau các cuộc tranh giành đất đai. Những nhân vật của Jorge Amado đôi lúc cũng bối rối, không chắn chắc rằng bạo lực sẽ giải quyết tất cả hay tiền sẽ là câu trả lời cho mọi chuyện: “Có tiền đâu phải là xấu, nếu như người ta không mong ước gì khác nữa. Nhưng nếu một người nào đó ở đời chỉ biết có tiền thì hắn quả là một thằng tồi. Người ta trở nên mù và điếc khi nói đến tiền.” Nhưng những suy tư ấy nhanh chóng bị gạt bỏ khi người ta bị cuốn vào cái vòng xoáy mà không thoát ra được. Hai nhân vật là đại diện cho những khao khát hướng thiện trong cuốn sách là Ester và Virgilio, cặp tình nhân luôn tha thiết được bỏ trốn đến nơi nào mà ban đêm họ có thể nhắm mắt ngủ an lành bên nhau mà không bận tâm đến những bạo lực, những cuộc tranh chấp, những kẻ thù. Nhưng quả thật, chỉ ao ước là không đủ, cần phải có can đảm đứng lên nữa. Những đoạn độc thoại nội tâm của hai nhân vật này là những đoạn dường như Jorge Amado muốn gửi gắm thông điệp thật sự của mình. Đây không phải là cuốn sách đầu tiên của Jorge Amado mà tôi đọc, vì vậy tôi thật sự cảm giác lạ lẫm với phong cách này của ông khi đã quên với sự huyền ảo trong các cuốn sách khác của ông, cũng có thể là được viết trong thời kỳ đầu trong sự nghiệp sáng tác, nên “Đất dữ” cũng kém đi sự uyển chuyển, kỳ bí như những cuốn sách khác, cũng có thể bởi tiếp cận một chủ đề có phần thực tế – ông lớn lên ở một đồn điền ca cao – nên ông chọn cách kể chuyện thô ráp, trực diện nhưng vẫn là một cuốn sách hấp dẫn, kỳ lạ dẫn tôi đến một thế giới hoàn toàn mới, mà tôi luôn khao khát được khám phá them nữa. *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)  Mời các bạn đón đọc Đất Dữ của tác giả Jorge Amado.
Tôi Cần Một Cái Khuôn Khác - Méo Mó Cũng Được!
“Tôi cần một cái khuôn khác, méo mó cũng được!” là chuyến hành trình dài đi tìm bản ngã của tác giả trẻ Lê Bùi Thảo Nguyên. Với hai mạch truyện đan xen nhau, tác phẩm như một cuốn tự truyện chia sẻ những suy nghĩ, những trăn trở về ý nghĩa của bản thân đối với cuộc sống này. Cuốn sách là tác phẩm đầu tay của Lê Bùi Thảo Nguyên sau khi nghỉ việc ở một bệnh viện phụ sản lớn nhất nhì miền Nam để đi tìm cho mình một lối đi riêng. Ngay từ những dòng đầu tiên, độc giả sẽ lạc bước vào trong tâm tư của một cô gái nhìn từ bên ngoài tưởng chừng rất trưởng thành, mạnh mẽ, bình lặng nhưng ở phía sâu thẳm trong tâm hồn, trong suy nghĩ là hố sâu hun hút, gió cuộn sóng trào. Nguyên bị mắc kẹt, bị giằng xé giữa hai cái khuôn trong một con người. Một cái khuôn do người ngoài tạo nên với hình ảnh Nguyên học giỏi, Nguyên làm tốt, Nguyên có công việc ổn định cùng cơ hội thăng tiến cao. Nguyên ở bệnh viện phải học cách bỏ qua cảm xúc của bản thân, chấp nhận nỗi đau một cách bình thản, không kêu ca, không than vãn nhưng cũng không hạnh phúc. Và một cái khuôn khác, méo mó, không hoàn hảo, đang đi tìm hình dạng của chính mình, nhưng đó mới chính là con người thật của Nguyên. Một Nguyên chân thành, đầy hào hứng, đầy cảm xúc, mong mỏi được khám phá chân trời rộng lớn, tự mở lấy lối đi, dù là ốc đảo xanh tươi hay sa mạc cằn khô. “Cuộc sống có nhiều thứ không thể kiểm soát hết được, hãy cứ làm những gì mình cho là đúng, và đảm bảo rằng mình có thể ngủ ngon suốt quãng đời còn lại với những việc làm đó". Xuyên suốt cuốn sách, người đọc bước vào dòng cảm xúc được kể đan xen với nhau giữa khoảng thời gian của Nguyên trong ngành Y từ khi đi thực tập đến khi làm việc trong bệnh viện và những ngày tháng Nguyên rong ruổi khắp miền đất nước. Khi Nguyên bắt đầu những chuyến đi của mình, nhiều người nghĩ Nguyên “hư”, nổi loạn. Nhưng đó không phải sự nổi loạn trong bất chợt. Đó là chuyến hành trình dài để thành thật với bản thân. Đằng sau mỗi chuyến đi, không chỉ là sự trải nghiệm, ngắm nhìn cuộc sống mà còn sự trưởng thành hơn, chậm rãi hơn, kiên nhẫn hơn và thấu hiểu chính mình nhiều hơn cùng những kỷ niệm đầy ắp cảm xúc. Mỗi địa danh trong câu chuyện của Nguyên không hề hoa mỹ, rực rỡ, đơn giản là một cảm giác rất gần gũi, thân quen. Đó là một Hà Nội nhẹ nhàng, da diết, một Huế cổ kính, êm đềm, cơn lạnh buốt của Đà Lạt thơ mộng hay vùng núi bạt ngàn được phủ đầy sương mờ phía Bắc.  Đồng thời, qua những chia sẻ chân thành của Nguyên, độc giả một phần nào đó thấu hiểu được những khó khăn, vất vả trong ngành y. Những cuộc cấp cứu khẩn giữa đêm khuya, những bệnh nhân không qua khỏi, cảm giác lạnh lẽo và u ám giữa những hành lang hun hút ở bệnh viện cùng nỗi đau tích tụ dần, đè nén, âm ỉ cháy trong lòng. Cũng như cách Nguyên lựa chọn để đối mặt với áp lực công việc, vượt qua ám ảnh nghề nghiệp, tâm lý đè nặng trên đôi bàn tay. “Nghề của tôi là ngăn chặn những cơn đau và thức canh cho người khác ngủ, nhưng chính bản thân tôi lại thao thức hằng đêm". Cuối cùng, sau những ngày tháng trôi nổi vô định giữa thế gian, khi Nguyên quyết định sống thật chính mình cũng là lúc cô tìm thấy ý nghĩa của bản thân. “Cảm giác lúc này hơi giống chuyến đi miền Trung khi vừa mới tốt nghiệp, khác chăng, mọi thứ không còn mông lung, mờ mịt, khi mà tôi biết rõ mình cần làm gì tiếp theo". Tôi cần một cái khuôn khác, méo mó cũng được! không chỉ là câu chuyện của một cô gái trong ngành Y mà còn là câu chuyện của mỗi người trẻ vừa mới chập chững bước vào xã hội này. Sự bất công, nỗi đau, cảm giác lạc lõng, cô đơn, chán nản, mong muốn được trốn chạy nhưng cuối cùng cũng phải quay về với thực tế “trần trụi”. Mỗi người chúng ta ai cũng có một cái khuôn và gói mình theo hình dáng của nó. Và không phải ai cũng đủ can đảm để bước ra khỏi khuôn đó, bước ra khỏi những định kiến, suy nghĩ của người khác gắn cho mình, bước ra khỏi vỏ bọc của bản thân để cất lên tiếng nói từ sâu thẳm. Như Nguyên nói: “Bạn chỉ sống một lần duy nhất, hãy tử tế với bản thân mình, hạnh phúc, rồi những người thật sự yêu thương bạn cũng sẽ hạnh phúc”. Cách kể chuyện nhẹ nhàng, giản dị của Nguyên sẽ khiến cho tâm hồn người đọc cảm nhận như chính mình đang trải qua những đoạn đường, những cung bậc cảm xúc lẫn lộn. Để rồi, từ đó tạo ra sự đồng điệu, gắn kết, chạm đến trái tim của người đọc, khi mà ai cũng thấy thấp thoáng hình bóng mình trong đó. *** Lúc này, có lẽ là thời điểm thích hợp nhất để sống cho trọn vẹn chữ “hư”! Tôi có nhiều hình xăm, khắp người, và chắc sẽ còn nhiều nữa. Cái đầu tiên được “tậu” vào tháng 5/2015. Những bạn nam từng uống rượu và bia với tôi đều trố mắt “Cậu uống khỏe thật!” Nhiều người, thậm chí còn rất thích ngồi uống với tôi, vì cảm thấy thoải mái, không phải giữ kẽ, vừa có gái để tâm tình, vừa có bạn nhậu, uống được từ đầu cuộc đến tàn canh. Tôi hút thuốc lá! Không nghiện, chắc chắn thế, có thể cả tháng không hút, nhưng cũng có thể, rít hết một bao, trong vòng 2 tiếng! Tôi có thể ngủ với rất nhiều đàn ông! Vâng, trên cùng một giường, theo đúng nghĩa đen, là ngủ. Với con dao nắm chặt trong tay, sẵn sàng ăn thua đủ với bất cứ ai muốn chạm vào người mình. Tôi có thể thay quần áo trong căn phòng có một nam bạn khác, chỉ với yêu cầu bạn ấy quay mặt đi. Tôi có thể ở nhờ nhà một bạn nam, rồi chui vào phòng bạn ấy, leo lên giường của bạn ấy mà ngủ, với bạn ấy, kệ gia đình bạn ấy nghĩ gì. Hẳn tôi là đứa vô duyên, nếu nhận là thứ nhì, thì không ai dám nhận thứ nhất. Và… Tôi được nuôi dạy rằng, mượn của ai cái gì, thì nhất quyết là phải trả, cho dù đó là miếng giẻ nhàu nhĩ. Thứ gì không phải của mình, tuyệt đối không được lấy. Khi đã từ chối tình cảm của ai đó, tuyệt nhiên không nhờ họ chở đi đâu chơi, đi ăn, không nhận quà từ họ. Nói chung là không khiến cho họ hy vọng, không “vờn”, không lợi dụng, không biến họ thành osin, bạn, anh trai, em trai, hay bất cứ thứ gì. Họ có quyền được tôn trọng. Tôi từng lỡ tựa đầu vào vai một người thương mình, bảo họ đừng đi, và khóc trước mặt họ, chỉ thế thôi. 5 năm trôi qua, mỗi lần nghĩ đến, tôi vẫn cảm thấy rất có lỗi với người đó. Vì rõ ràng, tôi không có tình cảm với họ. Vì suýt nữa, tôi đã gật đầu, để khỏa lấp nỗi đau, bởi một người khác, cho dù cái “suýt” ấy chỉ mới lướt qua trong suy nghĩ. Tôi cảm thấy buồn nôn, khi phải cố tỏ ra là “ngoan”, theo tiêu chuẩn của mọi người: Con gái phải nhu mì, phải yểu điệu thục nữ, phải yếu đuối, để người khác chở che thậm chí phải “thủ đoạn”, phải “diễn”, để đổi lấy sự quan tâm vụn vặt, từ người khác, từ người mình thương. Tôi sợ làm người khác tổn thương, hay là buồn, hay là lo lắng, nhất là đối với người tôi thương. Nên, mỗi lời nói hay hành động mà tôi quyết định làm họ đau, cũng chính là, tự hủy hoại mình. Tôi không nói dối được, nhất là những lời nói dối để làm lợi cho mình. Có người từng nói, “thật” quá sẽ khổ lắm. Đã rất nhiều lần, tôi muốn mình tan biến đi cho xong, chứ đi ngược dòng, va phải hết người này đến người kia, đau lắm. Dĩ nhiên đó chỉ là suy nghĩ trong vài ba phút yếu đuối, lạc lòng mà thôi. Sống mà cứ mãi làm một con số nguyên tố chẳng dễ chút nào. Nhưng, rũ bỏ hết trách nhiệm của mình với những hợp số xung quanh để trốn, lại sợ họ sẽ buồn. Tôi vẫn luôn làm tốt những điều người khác giao cho mình, tôi tự tin nói như vậy. Cho nên, chưa ai từng hỏi tôi có vui không, tôi thực sự muốn gì. Họ chỉ bảo sao, tôi làm tốt vậy, nên thực sự thấy tiếc, khi tôi dừng lại. Nếu tiếp tục, Nguyên sẽ thành công đấy, sẽ tiến xa, sẽ leo cao đấy! Nếu tiếp tục, Nguyên sẽ vỡ tan ra đấy! * Với tôi, khi mình thương một người, cho dù người ta có ghét mình đi chăng nữa, thì dù một lời buông lơi với người đàn ông khác thôi, cũng đã là phản bội, chính trái tim mình. Tôi từng cố buông thả bản thân, cố im lặng để cho một người đàn ông chạm vào mình, trần trụi, để rồi đến cuối cùng, đẩy họ ra, “Em không làm được!” Sau đó, nhốt mình rất lâu trong nhà tắm, nôn mửa, kỳ cọ, tự ghê tởm mình. Trên những cung đường, tôi hay bắt gặp những ánh mắt thảng thốt nhìn mình. Người lịch sự thì bảo em là con gái mà “gan”, dám đi một mình. Vài người khác buông một chữ “liều”, rồi tặc lưỡi lắc đầu. Có lần, đứng trong bếp nhà cậu bạn ở xa Sài Gòn gần 2000 kilômét, bác cậu ý tứ nhỏ nhẹ: “Bố mẹ trong Nam cho con gái đi như vậy chứ ngoài này không có đâu.” Trong rất nhiều cuộc nói chuyện, sau khi tìm mọi cách thuyết phục rằng cách sống của tôi là sai nhưng thất bại, người đối diện thường chốt lại bằng câu “Em đi vậy ba mẹ em không nói gì hả?” Họ nghĩ, đó sẽ là đòn cuối cùng khiến tôi không còn trụ vững. Nhưng, điều may mắn nhất của tôi từ trước đến giờ không phải là có ba mẹ hiểu mình, mà đó là có ba mẹ chấp nhận được những suy nghĩ của mình, dù cho suy nghĩ đó có dị biệt. Hãy cứ làm những gì con muốn, miễn là cái “muốn” đó không làm hại đến ai, con vui vẻ hạnh phúc, và có thể tự nuôi sống được bản thân mình. Ba mẹ tôi là thế đấy, không ép uổng, chỉ đưa ra lời khuyên, sau đó, để con tự lựa chọn. Dĩ nhiên, tự làm tự chịu, điều đó giúp tôi chính chắn và có trách nhiệm với bản thân mình hơn. Nhờ họ, tôi chưa bao giờ thấy dằn vặt với những duy nghĩ không giống ai của mình. Và dù độc hành trên hầu hết mọi chặng đường, tôi vẫn thấy bản thân chưa bao giờ đơn độc.   Mời các bạn đón đọc Tôi Cần Một Cái Khuôn Khác - Méo Mó Cũng Được! của tác giả Lê Bùi Thảo Nguyên.
Tây Sơn Bi Hùng Truyện
Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn là sự kiện đưa đến nhiều dị biệt nhất về mặt quan điểm hay nhận thức. Nổi bật nhất là quan điểm đưa ra cách nay hơn nửa thế kỷ, coi phong trào Tây Sơn như cuộc nổi dậy của giới nông dân bị áp bức, bóc lột, chống lại nhà Nguyễn thối nát và mang lại công bằng xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân. Sự lý tưởng hóa hầu như mọi hoạt động của phong trào Tây Sơn đã dẫn đến một số nhận định chủ quan về thực chất của phong trào này và cũng từ đó, nhiều sự thật lịch sử liên quan đến phong trào chưa được làm sáng tỏ *** Phàm là một người ham mê lịch sử và văn chương, cầm cuốn sách này khó có thể dứt ra được. Rất giống cảm giác thuở học trò đọc Tam quốc diễn nghĩa hay Thủy hử, bạn sẽ bị cuốn sách lôi cuốn ngay cả khi đang ăn hay trước lúc đi ngủ. Sẽ rất nhiều người mải theo cách dẫn dắt của tác giả mà quên khuấy cả giấc ngủ trưa, thậm chí cho qua cả một đêm trắng. Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh mô phỏng cách viết chương hồi của La Quán Trung, Thi Nại Am và những tiểu thuyết gia Trung Quốc xưa, một cách kể chuyện như lùa người đọc vào hết mê hồn trận này đến những bí sử kia, mang đến cho người đọc cái không gian, thời gian, những sự kiện lịch sử, những chân dung tiêu biểu… làm nên gương mặt xã hội Việt Nam đầy biến động và bi thương, hiển hách và bi tráng suốt nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Lê Đình Danh viết về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Huệ với một bối cảnh rộng lớn hơn, đặt các nhân vật của Tây Sơn trong mối quan hệ trực diện, đối nghịch, một mất một còn với chúa Nguyễn Đàng Trong, chúa Trịnh Đàng Ngoài và Vương quốc Đại Thanh thời vua Càn Long hùng mạnh. Tây Sơn bi hùng truyện thu hút người đọc không chỉ ở tư liệu lịch sử phong phú, kiến văn dồi dào, mà còn ở bút pháp dựng truyện, xây dựng nhân vật khá thành công. Ngoài hai nhân vật Nguyễn Huệ, Nguyễn Phúc Ánh, hàng loạt các nhân vật thuộc các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn và cả các tướng Mãn Thanh đều được tác giả phác họa khi thì bằng một vài chi tiết đặc sắc, khi kỳ công dẫn dắt qua hàng loạt các sự kiện, mối quan hệ đan xen phức tạp, ví như các nhân vật Ngô Thì Nhậm, Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Tuyết, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm, Võ Tánh, Bùi Đắc Tuyên, Lê Văn Duyệt, Đặng Trần Thường, Vũ Tâm Can v.v… Đọc sách, mà như được xem một cuốn phim lịch sử đầy bi thương hùng tráng, được xúc động, yêu thương với người anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ. Nhà văn Hoàng Minh Tường *** Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống. Tại Đàng Ngoài, Tĩnh Đô Vương lộng hành giết chết Thái tử. Ở Đàng Trong, Trương Phúc Loan lập mưu đoạt quyền Đô Thống. Nước Nam, người Lạc Việt, từ khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, mười năm kháng chiến đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Lê Lợi lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ lập nên nhà Hậu Lê đặt tên nước là Đại Việt (năm Mậu Thân - 1428). Vua Thái Tổ truyền đến đời con cháu là Thái Tông, Thánh Tông đều là những bậc anh quân vì dân vì nước. Từ ấy bốn phương thiên hạ thái bình, muôn dân no ấm. Lúc bấy giờ người dân trong nước truyền tụng câu ca rằng: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa thóc đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn. Nhà Hậu Lê truyền ngôi được trăm năm, đến đời vua Chiêu Tông thì Mạc Đăng Dung soán ngôi vua lập nên nhà Mạc vào năm Đinh Hợi (1527). Lúc bấy giờ có quan Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thạch Hầu Nguyễn Kim cùng rể là Trịnh Kiểm tìm dòng dõi vua Lê Thái Tổ lập lên làm vua rồi đem quân chiếm đất Nghệ An đánh nhau với nhà Mạc. Sau Nguyễn Kim chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm. Kiểm sợ con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng tranh quyền với mình, bèn giết chết Nguyễn Uông. Trịnh Kiểm lại có ý xưng làm vua, nhưng thấy lòng người còn thương mến nhà Lê nên sai sứ vào Hải Dương hỏi ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình bảo: - Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt nên tìm giống cũ mà gieo mạ. Rồi Trạng sai đầy tớ quét dọn chùa rồi đốt hương khấn rằng: Giữ chùa thờ phật thì ăn oản. Kiểm hiểu ý vẫn giữ vua Lê làm hư vị, còn mình nắm giữ hết quyền hành. Nguyễn Hoàng thấy Trịnh Kiểm giết anh mình là Nguyễn Uông sợ vạ lây đến thân, bèn lén vào hỏi ý Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng chỉ tay vào Nam nói: - Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân (một dãy Hoành Sơn dung thân ngàn đời). Hoàng lấy tình thâm ruột thịt nói với chị mình là vợ Trịnh Kiểm tên là Ngọc Bảo, xin với Kiểm cho Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (Bình Trị Thiên ngày nay). Ấy là vào năm Mậu Ngọ (1558). Sau Trịnh Kiểm chết, con là Trịnh Tùng lên thay quyền. Tùng đem quân đánh dứt được nhà Mạc. Tùng vẫn giữ vua Lê làm hư vị, còn mình tự xưng là chúa Trịnh. Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa thấy Trịnh Tùng xưng chúa ở Thăng Long, bèn tự xưng là chúa Nguyễn. Về sau Hoàng chết, con là Nguyễn Phúc Nguyên sai Đào Duy Từ đắp lũy Trường Dục ở Châu Bố Chánh (Quảng Bình ngày nay) chống nhau với quân Trịnh. Hai bên bắt đầu đánh nhau vào năm Đinh Mão 1627. Từ ấy về sau đất nước chia hai, lấy sông Linh Giang làm ranh giới. Từ sông Linh Giang trở ra tục gọi là Đàng Ngoài. Từ sông Linh Giang trở vào tục gọi là Đàng Trong. Hai Đàng đánh nhau ngót một trăm năm, tạo ra cảnh binh đao khói lửa, huynh đệ tương tàn, nhân dân ta thán! Ở Đàng Ngoài, Trịnh Tùng mượn tiếng tôn phò vua Lê nắm hết quyền hành. Thủa ấy trong nhân gian thường truyền miệng nhau câu sấm rằng: Chẳng Đế chẳng Bá, quyền nghiêng thiên hạ, Đến đời thứ tám, trong nhà dấy vạ. Họ Trịnh cha truyền con nối làm chúa ở Đàng Ngoài đến đời thứ tám là Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Lúc ấy vua nhà Lê là Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng có một người con lớn là Thái tử Lê Duy Vỹ. Duy Vỹ tư chất thông minh diện mạo khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn. Thường ngày Duy Vỹ đi ngao du sơn thủy kết giao với hào kiệt khắp vùng, ai ai cũng thương tài mến đức. Một ngày kia, trong cung điện, vua Hiển Tông đánh cờ uống rượu cùng các quan thái giám, Duy Vỹ vào trông thấy quỳ tâu: - Thưa Phụ hoàng, từ ngày nhà Lê ta trung hưng đến nay trải mười đời vua. Họ Trịnh tiếng là tôn phò nhưng thực chất là áp chế nhà Lê ta. Họ Trịnh muốn cho ai làm vua thì cho, muốn giết ai thì giết. Như hai trăm năm trước Trịnh Tùng giết chết Anh Tông Hoàng Đế. Rồi ba mươi năm sau Trịnh Tùng lại giết chết Hoàng Đế. Mới bảy mươi năm trước đây Dụ Tông Hoàng Đế bị Trịnh Cương bắt phải thoái vị nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương. Thái tử Duy Phương làm vua được ba năm lại bị Trịnh Giang vu là thông dâm với vợ Trịnh Cương mà đem giết đi. Rồi đến lúc Phụ hoàng lên ngôi là do chính Trịnh Doanh đã buộc vua Ý Tông thoái vị nhường ngôi cho Phụ hoàng đó. Xét trong lịch sử từ trước đến nay chưa có quyền thần nào lại lộng hành tàn ác, khi quân phạm thượng như họ nhà chúa Trịnh. Vả lại xưa nay chỉ có nhà vua mới được quyền cha truyền con nối, chưa nghe nói đại thần mất thì con được lên thế chức bao giờ. Nay họ Trịnh xưng vương, cha mất thì con lên kế vị, ấy chẳng qua là vì không dám phế bỏ nhà Lê ta để làm vua mà thôi. Nay Phụ hoàng lên ngôi đã ba mươi hai năm mà mọi việc trong triều ngoài cõi Trịnh Doanh rồi đến Trịnh Sâm có cần bẩm báo gì với Phụ hoàng chăng? Sao Phụ hoàng cứ mải vui say với cầm kỳ thi hoạ mà không nghĩ đến việc lấy lại quyền hành của nhà Lê ta? Con vì giận họ Trịnh mà có đôi lời mạo phạm đến Phụ hoàng, xin Phụ hoàng thứ tội. Duy Vỹ trong lòng uất hận họ Trịnh nói luôn một hơi. Vua Hiển Tông nghe Vỹ nói xong liền quăng cờ, đuổi các thái giám ra ngoài rồi hốt hoảng nói: - Bọn nội thị này tiếng là hầu hạ cho ta, nhưng đều là tay chân của Trịnh Sâm cả. Sao con lại buông lời càn rỡ? Nếu đến tai Trịnh Sâm mạng ắt chẳng còn! Duy Vỹ nghe cha nói thế lại càng giận lắm, đứng dậy nói lớn: - Sao Phụ hoàng lại sợ thằng nghịch tặc ấy đến thế? Nếu Phụ hoàng giữ mình để mưu việc lớn thì con thật là khâm phục. Còn Phụ hoàng vì sợ như bề tôi sợ vua mà im hơi lặng tiếng thì con thật lấy làm đau lòng lắm! Mời các bạn đón đọc Tây Sơn Bi Hùng Truyện của tác giả Lê Đình Danh.