Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Ở Trước Mặt

Bà Rosa, một bà già Do Thái từng bị bắt đến Auschwitz và từng tự vệ (thuật ngữ chú bé Momo mười tuổi – nhân vật tôi – sử dụng chỉ gái điếm) ở phố Blondel, Paris, đã mở một “quán trọ không gia đình dành cho những đứa trẻ sinh ngoài giá thú”, hay nói cách khác là một quán trọ bất hợp pháp nơi các bà các cô làm nghề tự vệ bỏ rơi con cái mình. Cậu bé người Ả rập Momo kể lại cuộc sống của mình ở nhà bà Rosa và tình yêu của cậu dành cho người mẹ duy nhất còn ở lại với mình ấy, một bà già cổ lỗ, to béo, xấu xí và đáng kính mà cậu yêu bằng cả trái tim. Và cậu sẽ ở bên bà cho đến những ngày cuối đời bà. Mọi thứ đã định sẵn để tạo nên một tình yêu không-thể-có: giữa chú bé Momo và Madame Rosa có hơn nửa thế kỷ tuổi tác và gần một tạ cân nặng, Momo thì nhìn về phía trước cuộc đời còn Madame Rosa chỉ ngoái về quá khứ; thêm vào đó, Momo là người Ả-rập còn Madame Rosa là người Do Thái. Thế nhưng bạn sẽ nhận ra đây là một câu chuyện tình đẹp như mọi điều không thể khác, một trong những gì kỳ diệu mà chỉ văn chương mới biết cách tạo ra. Nói đúng hơn, chỉ văn chương của một số rất ít nhà văn mới có thể tạo ra. Émile Ajar, tức Romain Gary, ở giai đoạn sáng tạo thứ hai của cuộc đời mình, đã viết nên một kiệt tác nữa không hề thua kém Lời hứa lúc bình minh (1960). Mười năm sau câu chuyện tình yêu giữa hai mẹ con nhà Romain, là câu chuyện về cậu bé Momo với một lời hứa khác khi đứng trước mặt cuộc đời.  Cuộc sống ở trước mặt nhận giải Goncourt năm 1975, đồng thời làm dấy lên một vụ bê bối chưa từng có trong lịch sử giải thưởng danh giá nhất nước Pháp. Bộ phim cùng tên (1977) của đạo diễn Moshé Mizrahi đã đoạt giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1978, và nữ diễn viên nổi tiếng Simone Signoret trong vai Madame Rosa đã nhận giải César cho diễn xuất năm 1978. *** Cuộc sống, nó không phải là thứ dành cho tất cả mọi người. Momo đã rút ra kết luận như thế. Nhưng cuộc sống vẫn dành cho cậu, vẫn dí trước mặt cậu cái bản mặt thê thảm của nó, mà dù muốn, dù không cậu cũng phải đối diện, phải nếm trải bằng tất cả các giác quan. Vì Momo vẫn phải sống. Những khi tôi cảm thấy đời mình ngập tràn bế tắc, tôi hay nghĩ về Momo, cậu bé Ả Rập lớn lên trong vòng tay một người đàn bà Do Thái đã giải nghệ làm gái đứng đường, về những gì mà cuộc sống dành cho cậu, để thấy rằng, mình thật là may mắn vì không có những gì mà Momo và Madame Rosa của cậu có, những thứ đủ sức biến cuộc đời họ thành vũng lầy nhớp nháp mắc míu và đớn đau, như nỗi ám ảnh không bao giờ rũ bỏ nổi. Trong vũng lầy của cuộc sống, một tình yêu bám rễ như một lý do níu kéo sự tha thiết với cuộc đời. Tình yêu kỳ lạ không thể gọi tên, không giống như tình ruột rà máu mủ, không thuần túy là mối tình giữa đàn ông và đàn bà, dù ở đây ta cũng có một người đàn ông – Momo, mười tuổi (thật ra là đã mười bốn) và một người đàn bà – Madame Rosa, gần bảy mươi. Thứ tình yêu rung động như cổ tích, có thể biến một bà già bủng beo nặng gần một tạ trở thành người phụ nữ đẹp dịu dàng trong trái tim Momo. Người đàn bà Do Thái mang nhiều vết thương và sự ám ảnh, nhiều phong ba vùi dập của cuộc đời. Madame Rosa đã cưu mang một đứa bé mồ côi như Momo, vì miếng cơm manh áo, nhưng rồi đã giữ cậu lại bên mình như một đốm lửa nhỏ sưởi ấm trái tim đơn độc giữa biển đời thê lương của mình. Người đàn bà đã ôm ấp cậu, vỗ về an ủi và chùi đít cho Momo trong những ngày tháng bơ vơ từ thuở còn thơ cho đến ngày cậu lớn. Tình yêu giữa họ lớn hơn cả tình mẫu tử thông thường, nó đến từ hai trái tim thèm khát tình yêu tới thắt lòng thắt ruột và đơn côi tới rạn nứt cả trái tim. Cuộc sống không cho Momo tình thương và lòng tin, chỉ cho cậu duy nhất một người đàn bà nặng gần một tạ để neo cậu lại với cuộc sống, người đàn bà mà nguy cơ rời bỏ cậu ra đi càng ngày càng gần kề. – – “Ông Hamil ơi, người ta có thể sống mà không có tình yêu được không?” – – “Có.” Momo bật khóc. Cậu biết rằng mình sẽ vẫn phải sống ngay cả khi tình yêu duy nhất của đời mình ra đi. Dù Momo có đổ hàng tấn nước hoa lên người Madame Rosa, nhưng cuối cùng bà vẫn bỏ cậu mà đi bằng cái mùi của tử thi đã hoại. Và bởi thế, cuộc sống này có vị gì đâu. Nó vẫn thản nhiên đi qua bằng gương mặt đanh đanh vô cảm của nó, cùng những đớn đau đã chai sạn trong tâm hồn già cỗi của một đứa bé lên mười – à không, mười bốn chứ. Cuộc sống, dù nó có cứa biết bao nhiêu vết lên Momo, nó vẫn luôn ở trước mặt cậu, nó chẳng thể ở đâu đó khác, nó còn biết ở đâu nữa bây giờ? Romain Gary luôn khiến tôi cười, mặc dù biết là bi kịch lắm rồi đấy. Ông khiến tôi lạc quan với chút dí dỏm của mình, dù cười đấy mà ruột thắt biết bao nhiêu bận. Nhưng cái cách ông kiên trì cười vào nỗi thống khổ nó khẳng định rằng rồi ông sẽ thắng, kiểu gì rồi ông cũng sẽ thắng. Không biết đây có phải là một liệu pháp tinh thần không, nhưng biết đâu khi ta cười, thì thế gian sẽ cười đáp lại. Biết đâu cuộc sống đen thủi đen thui của Momo sẽ sang sủa lên, dẫu là tôi cũng chẳng biết đào bới niềm hy vọng ấy ở đâu cho đến dòng chữ cuối. Nhưng ôi dào, rồi thì đời sẽ qua. Thật ra thì những gì mà Momo và Madame Rosa của cậu có, nó chẳng thể nào tệ hơn được nữa. Bạn có khóc khi đọc cuốn này không? Tôi không khóc. Nhưng đau đớn. Không phải ai cũng khiến người ta đau đớn thế khi mặt mũi tỉnh queo. Bởi thế tôi tin là Gary là một trong những cây bút thiên tài. Tiếc là ông chẳng còn trên đời nữa.   Kafka Bookstore *** Kết thúc cuốn tiểu thuyết Cuộc sống ở trước mặt, mặc dù cậu bé Momo đã đổ bao nhiêu nước hoa lên xác Madame Rosa, thì người chết vẫn không thể tỏa hương được mà buộc lòng phải tỏa ra mùi xác chết. Nếu không thế thì người ta chắc vẫn chưa phát hiện ra Madame và Momo vẫn có thể còn được ở bên cạnh bà. Nằm bên cạnh Madame nồng nặc mùi tử khí trộn lẫn với mùi bao nhiêu chai nước hoa mà Momo đã dốc lên đấy, Momo hãy còn nhận xét rằng cuộc sống có mùi vị gì đâu. Cái nhận xét ấy ngậm ngùi như chính tên tác phẩm: Cuộc sống ở trước mặt. Cuộc sống có ở trước mặt không khi ở những trang cuối cùng của tiểu thuyết, hai nhân vật chính, người thì chết rã, người thì, cái cậu bé mười tuổi à không mười bốn tuổi đấy, biết sẽ lang thang ở cái xó xỉnh nào của Paris, rồi có đến lúc cậu phải “tự thân vận động” như mẹ cậu đã từng không? (“Tự thân vận động” là một trong những “thuật ngữ” của Momo, trong truyện này có nghĩa là… Nếu biết mẹ cậu là gái đĩ, có lẽ không cần giải thích gì hơn.) Với cái kết đó, cuộc sống chắc chắn không ở trước mặt, còn ở đâu thì tôi không biết. Có khi nó chẳng ở đâu cả. Lại dẫn lời Momo: “Cuộc sống, nó không phải là thứ dành cho tất cả mọi người”. Và nữa, làm gì có sự công bằng trên thế giới này, khi mà “có những người có tất cả mọi thứ, từ xấu xí, già nua, đến nghèo khó, bệnh tật [như Madame Rosa] trong khi có những người chẳng có gì.” Những ngày tôi đọc Cuộc sống ở trước mặt là những ngày bận rộn. Thời gian trước đây, một tuần tôi đọc trung bình ba bốn cuốn sách các loại, còn thời gian này tôi thường đọc nhiều quyển cùng một lúc và hầu như cuốn nào cũng chừng vài chục trang là bỏ dở. Thế mà, mỗi ngày vài chục trang, tôi không bỏ Cuộc sống ở trước mặt để nhảy sang những cuốn khác. Cuốn tiểu thuyết này không có một cốt chuyện hấp dẫn hay những tình tiết giật gân, nó chỉ có một thứ mà rất nhiều cuốn khác, đặc biệt là những cuốn best-seller không có: văn chương đích thực. Đọc Cuộc sống ở trước mặt, bên cạnh tận hưởng hạnh phúc của việc thưởng thức một thứ văn chương hảo hạng, ta còn có thể hạnh phúc khi nhận ra rằng mình không phải có những thứ mà Madame Rosa của Momo có. *** CUỘC SỐNG Ở TRƯỚC MẶT Có lẽ trên đời này không có mối tình nào đẹp hơn mối tình của Momo 14 tuổi và Madame Rosa nặng một tạ đang gần đất xa trời. Ta có thể gọi nó là một mối tình bất chấp hiểu lầm bởi thật ra, đó là một tình yêu đã vượt qua khỏi mọi định nghĩa về giới tính nay tuổi tác. Nó là tình yêu của một người dành cho một người, hai con người đã tìm thấy niềm an ủi nơi nhau, để bên nhau chống lại mọi sự tàn nhẫn của cuộc đời. Cuộc sống ở trước mặt như một lời khẳng định với Momo rằng, cậu không còn một lựa chọn nào khác là bước tới. Mặc cho sau lưng là tuổi thơ đầy tủi hổ của một đứa con gái điếm bị bỏ rơi, mặc cho cuối cùng, cả người phụ nữ cậu yêu thương nhất trên đời cũng không thể đi cùng cậu nữa. Ta vẫn phải đối diện với cuộc đời tả tơi của mình một cách bình tĩnh kệ cha cõi lòng nát như tương. Romain Gary đã vậy còn biết cách chặn tất cả nước mắt nước mũi người đọc bằng cách kể chuyện dí dỏm tưng tửng của mình, chặn nó để nó tích tụ lại thành một khối nước mắt khổng lồ sẽ rơi một lần vào cái ngày Momo đổ tất cả nước hoa lên thi thể Madame Rosa nhưng bà vẫn mãi mãi bỏ cậu đi. Chỉ còn Momo cùng cuộc sống ở trước mặt đanh thép bảo rằng cậu phải sống. Momo liệu có sống? Tôi không biết nữa. Nhưng Romain Gary đã không chọn sự sống vào những ngày không còn mẹ trên đời, như ta đọc trong Lời hứa lúc bình minh và cả tiểu sử của ông nữa. Mỗi người đều cần một lẽ sống để có thể sống. Cuộc sống ở trước mặt thật đấy, nhưng ta vẫn còn một lựa chọn nữa ngoài bước tiếp, là dừng lại mãi mãi. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Ở Trước Mặt của tác giả Romain Gary.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xơ Carrie - Theodore Dreiser
Xơ Carrie là câu chuyện về số phận của một cô gái quê chuyển đến thành phố lớn, nơi cô bắt đầu nhận thức được giấc mơ Mỹ của mình. Ban đầu, cô trở thành tình nhân của những người đàn ông mà cô ngỡ là thượng đẳng, rồi sau đó cô trở thành một nữ diễn viên nổi tiếng. Tồn tại hơn một thế kỷ, cho đến nay Xơ Carrie được coi là một trong những tiểu thuyết hay nhất về thị thành nước Mỹ, khai thác được những chi tiết táo bạo trong bản chất con người, cũng như ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa đến toàn bộ dân Mỹ vào cuối thế kỷ 19. *** Xơ Carrie được xếp hạng cao trong 100 tiểu thuyết hay nhất viết bắng tiếng Anh của thế kỷ 20. - MODERN LIBRARY Xơ Carrie là câu chuyện hiện thực, tàn nhẫn, sắc sảo, để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ bạn đọc trong nhiều ngày liền. - LONDON EXPRESS Theodore Dreiser là nhà văn rất độc đáo, có cảm xúc sâu sắc và lòng can đảm không thể lay chuyển. Bức chân dung chân thật, sống động về cuộc đời Carrie được coi là sự cố gắng dũng cảm, giúp bạn đọc có cái nhìn hiện thực về cuộc sống của phụ nữ Mỹ cuối thế kỷ 19. - H.L.MENCKEN Xơ Carrie đã được đạo diễn William Wyler đưa lên màn ảnh do các nghệ sĩ danh tiếng Laurence Olivier và Jennifer Jones đóng vai chính. Trong Xơ Carrie, Theodore Dreiser miêu tả sinh động sức mạnh tàn bạo của những quyết định sai lầm - hoặc thiếu kiên quyết - hủy hoại cuộc đời con người. - REBECCA GLEASON   *** Theodore Dreiser (1871 - 1945). Là ngôi sao sáng giá trong nền văn chương nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Hơn bốn mươi năm sáng tác, Dreiser đã cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự, tiểu luận, kịch... Ba cuốn tiểu thuyết: Một bi kịch nước Mỹ, Xơ Carrie và Jenny Ghechac đã đưa ông lên địa vị hàng đầu trong văn đàn và được coi là người cha của nền văn học hiện thực nước Mỹ. *** Khi Caroline Meeber đáp chuyến tàu chiều đến Chicago, “toàn bộ hành trang của cô chỉ gồm một vali nhỏ, một cái cặp rẻ tiền giả da cá sấu, một bữa trưa đạm bạc đựng trong hộp giấy và cái ví bấm bằng da màu vàng đựng vé, mảnh giấy ghi địa chỉ của chị cô ở phố Van Buren và vẻn vẹn bốn đôla. Đang là tháng Tám năm 1889. Cô mười tám tuổi, rạng rỡ, bẽn lẽn và đầy ảo tưởng vì dốt nát và tuổi trẻ. Mọi nỗi ân hận lúc chia tay chắc chắn lúc này chẳng có lợi gì cho một người đã từ bỏ. Những giọt nước mắt tuôn trào trong cái hôn từ biệt của mẹ, cổ họng cô nghẹn ngào khi xe chạy lóc cóc qua xưởng xay bột, nơi bố cô làm việc ban ngày, một tiếng thở dài cảm động lúc phong cảnh xanh tươi quen thuộc của miền quê lướt qua trong hồi tưởng, những sợi dây ràng buộc nhẹ nhàng thời thiếu nữ và gia đình cô đã đứt tan, không sao cứu vãn nổi. Chắc chắn rằng lúc nào cũng có một ga sau, người ta có thể xuống tàu và trở lại. Có một thành phố lớn, kết nối chặt chẽ hơn bằng chính những đoàn tàu đi, đến hàng ngày. Thành phố Columbia cách không xa lắm, ngay cả khi cô đã ở Chicago. Lạy Trời, còn vài giờ hay vài trăm dặm nữa? Cô nhìn vào mảnh giấy nhỏ ghi địa chỉ của người chị và lo lắng. Cô chăm chú nhìn quang cảnh xanh tươi lúc này đang lướt nhanh, cho đến khi những ý nghĩ mau lẹ hơn thay thế ấn tượng bằng những phỏng đoán mơ hồ, liệu Chicago sẽ như thế nào. Khi một cô gái mới mười tám tuổi xa nhà, cô ta sẽ làm một trong hai việc. Hoặc rơi vào những bàn tay cứu giúp và trở nên tốt hơn, hoặc nhanh chóng công nhận tiêu chuẩn đạo đức của kẻ giang hồ và trở thành xấu hơn. Dù ở hoàn cảnh nào cũng không thể ở lưng chừng. Thành phố có những mưu chước xảo trá của nó, không kém phần ti tiện và đầy mưu chước cám dỗ con người. Những người có học nhất đã thể hiện sức lôi cuốn to lớn với đủ thứ tầm thường. Ánh lấp lánh của hàng ngàn ngọn đèn gây ấn tượng sâu sắc chẳng kém gì ánh mắt thuyết phục trong cái nhìn ve vãn và quyến rũ. Một nửa sự đồi trụy của trí tuệ mộc mạc và tự nhiên là do những sức mạnh hoàn toàn siêu phàm gây nên. Một âm thanh ầm ĩ, một tiếng thét của con người, một đám nhân quân đông đúc khiến các giác quan ngạc nhiên bằng nhiều cách nói lập lờ. Không có một cố vấn gần ngay đó thì thầm những lời giải thích thận trọng, rằng sự lừa dối có thể là những lời thì thào vào một cái tai thiếu cảnh giác! Không nhận ra chúng, vẻ đẹp của chúng giống như âm nhạc, thường làm ta thanh thản, trở nên yếu đuối, rồi làm nhận thức của những người hồn nhiên hơn dễ lầm đường lạc lối. Caroline, hay xơ Carrie như cả nhà gọi cô khá trìu mến, có khả năng quan sát và phân tích của một trí tuệ còn thô sơ. Tính vị kỷ của cô cao nhưng không mạnh. Dẫu sao, nó cũng là đặc điểm chủ yếu của cô. Sôi nổi với những tưởng tượng của tuổi trẻ, đẹp theo kiểu xinh xắn trong giai đoạn đang trưởng thành, sở hữu một thân hình có những đường cong đầy hứa hẹn và cặp mắt ngời sáng với vẻ thông minh bẩm sinh, cô là mẫu người đẹp của tầng lớp trung lưu nước Mỹ, khác biệt với người di cư hai thế hệ. Sách vở ở ngoài tầm chú ý của cô, kiến thức là một cuốn sách niêm kín. Trong vẻ duyên dáng bẩm sinh của cô vẫn còn chút gì đó thô thiển. Chắc chắn là cô không biết cách hất đầu cho duyên dáng. Đôi bàn tay cô gần như vô dụng. Bàn chân cô tuy nhỏ nhắn nhưng bẹt. Tuy nhiên, cô được chú ý vì vẻ quyến rũ, nhanh hiểu những khoái lạc mãnh liệt của cuộc đời, thèm muốn giành được những thứ vật chất, cô là một hiệp sĩ trang bị nửa vời, liều thăm dò thành phố bí ẩn và mơ những giấc mộng ngông cuồng của một uy quyền tối cao xa vời, mơ hồ, biến nó thành con mồi và thần dân - người ăn năn hợp thức, bò sát bên giày đàn bà. ... Mời các bạn đón đọc Xơ Carrie của tác giả Theodore Dreiser.
Pierre Và Jean - Guy de Maupassant
Trong thời gian sáng tạo ngắn ngủi – quãng mười năm của cuộc đời không dài (1850-1893), Guy de Maupassant dành nhiều quan tâm cho truyện ngắn, và cũng nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Có lẽ vì thế, sáu cuốn tiểu thuyết của ông ít được người đọc cũng như giới phê bình chú ý (tất nhiên vẫn có ngoại lệ, Lev Tolstoi, đại văn hào Nga cùng thời, coi cuốn "Một cuộc đời", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Maupassant là "cuốn tiểu thuyết Pháp hay nhất, từ sau Những người khốn khổ của Hugo"). Khoảng vài chục năm cuối thế kỷ XX tình hình có khác và trong sự tiếp cận "đổi mới" tiểu thuyết Maupassant, các nhà nghiên cứu dành một vị trí khá đặc biệt cho Pierre và Jean, cuốn tiểu thuyết thứ tư, xuất bản năm 1888. Với dung lượng không lớn, chỉ như một truyện ngắn, Pierre và Jean có cấu trúc giản dị, văn chương trong sáng. Song, khảo sát sâu hơn, sẽ thấy bên dưới vẻ tự nhiên, đơn sơ, là công phu, là sự lão luyện về phương diện ngôn ngữ và thủ pháp thuật truyện. Về mặt sự kiện, chất liệu của cuốn tiểu thuyết khá ít ỏi: trong một gia đình có hai con trai, người em bất ngờ được thừa kế một tài sản lớn. Biến cố không ở bản thân sự kiện, không do sự kiện tạo nên, mà ở những gì chúng tiết lộ. Và câu chuyện là diễn tiến của một phát hiện – người con lớn phát hiện quá khứ của mẹ mình, phát hiện quan hệ thực sự giữa các thành viên trong gia đình mình. Dần dắt truyện vẫn là một người kể biết hết mọi điều, nhưng ở đây sự "biết hết" rằng có chừng mực, bởi người này hay lẩn mình đi tại những khoảnh khắc chủ chốt, hoặc cứ để lửng lơ một số điều không được nói ra (như ý nghĩ của bà mẹ, của nàng thiếu phụ Rosémilly), hoặc cho sự vật được soi rọi từ điểm nhìn của Pierre, người con cả. Phương thức kể chuyện như thế khiến Pierre và Jean chuỷên thành cuốn tiểu thuyết viết về quá trình của một tư duy, thế giới chính của truyện là thế giới tinh thần, tâm trạng. Đó cũng là chất liệu ưa thích của tiểu thuyết thế kỷ XX, khi các tác giả ngày càng có xu hướng đưa người đọc vào thế giới riêng của một tâm tư, một trí óc, với những dằn vặt, ám ảnh, độc thoại nội tâm. Điều này lý giải vì sao hiện nay nhiều nhà nghiên cứu lại đánh giá Pierre và Jean là một bước chuyển từ truyền thống tiểu thuyết thế kỷ XiX sang tính hiện đại đang manh nha. Một yếu tố khác cũng khiến Pierre và Jean được coi như có tinh bán lề giữa tiểu thuyết hai thế kỷ, giữa truyền thống và cái mới, đó là bài Tựa quan trọng, một tiểu luận được Maupassant đặt cho tiêu đề "Tiểu thuyết". Như một tuyên ngôn, bài Tựa phát biểu những suy nghĩ của Maupassant về phê bình, về thể loại tiểu thuyết, về công việc sáng tác, và về chủ nghĩa hiện thực. Maupassant chống lại thiên kiến hẹp hòi trong phê bình và nhận xét rất chính xác về tính chất mở của tiểu thuyết, một thể loại động, tự do, cho đến bấy giờ vẫn theo quy phạm hoá chặt chẽ. Ông cũng nêu lên ý kiến của mình về chủ nghĩa hiện thực, những ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay tán thưởng, bởi theo họ, chúng lý giải nghịch lý cũng như tính biện chứng nội tại của khái niệm: sự thật và tính văn chương, phản ánh và hư cấu. Theo Maupassant, bằng việc lựa chọn sự kiện, bằng cách kết hợp, cấu tạo lại các sự kiện, nhà tiểu thuyết truyền đạt cho người đọc cái nhìn riêng của cá nhân anh ta đối với thế giới "tả thực là tạo ra ảo tưởng trọn vẹn về cái thực" do đó "các nhà hiện thực tài ba lẽ ra phải gọi là các nhà gây ảo tưởng thì đúng hơn". Suy nghĩ về công việc của nghệ sĩ, về những gì nghệ sĩ cần và có thể làm, Maupassant đã đặt chân vào con đường trên đó văn học thế kỷ XX sẽ quyết liệt dấn bước, đặt câu hỏi về bản thân, đặt câu hỏi về hành vi viết, hành vi đọc. Có thể đọc Pierre và Jean một cách thoải mái, như một câu chuyện nhẹ nhàng, pha chút ý vị trinh thám. Cũng có thể thưởng thức tác phẩm như một cuốn tiểu thuyết đậm sắc thái hội hoạ ấn tượng chủ nghĩa với hình ảnh trở đi trở lại và vai trò của nước, mô típ ưa thích trong hội hoạ ấn tượng, với tầm quan trọng dành cho sự cải tạo của cái nhìn, với thủ pháp cho nhân vật tự hình thành dần trong mắt độc giả, tương tự cách sử dụng những quệt màu liên tiếp để gợi bức tranh toàn cảnh. Lại cũng có thể, như một vài nhà phê bình phân tâm học Pháp, tìm thấy ở tác phẩm mặc cảm Oedips ngầm ẩn bên dưới cấu trúc gia đình, và sự thấp thoáng của cái vô thức. Đó là cách tiếp cận riêng, là sở thích, là hứng thú cá nhân, tùy thuộc, nói như Maupassant, vào cái tạng của mỗi người NGƯỜI DỊCH *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Pierre Và Jean của tác giả Guy de Maupassant.
Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.
Người Thầy Thuốc - Noah Gordon
“Người thầy thuốc” (Noah Gordon) là câu chuyện về một cậu bé người Anh vượt qua địa giới châu Âu để đến Ba Tư với ước mơ trở thành thầy thuốc. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh London (Anh) thế kỷ 11. Lên chín tuổi, Rob Cole và đàn em thơ mất mẹ. Không lâu sau người cha qua đời. Phường hội thợ mộc chia lũ trẻ bơ vơ về các gia đình nuôi nấng. Rob được một phó cạo kiêm thầy lang hay say xỉn bảo hộ. Từ đó, với hành trang đặc biệt là năng khiếu dự cảm cái chết (với những nỗi kinh hãi, bi thương), Rob rong ruổi khắp nước Anh trên một chiếc xe ngựa… Định mệnh đã sắp đặt cho cậu gặp gỡ với một thầy thuốc, người khiến Rob muốn đến được Ba Tư, chạm vào gấu áo vị thầy thuốc nổi danh trong lịch sử y học - Abu Ali at-Husain ibn Abdullah ibn Sina. Trên con đường chông gai đó, dù có lúc phải từ bỏ tình yêu, đối mặt với cái chết, hay đội lốt một người khác, Rob Cole vẫn dần bước. Anh muốn trở thành thầy thuốc. Với “Người thầy thuốc,” Noah Gordon đã kể một câu chuyện ấn tượng về thời kỳ Trung cổ với những chất liệu sinh động liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, tôn giáo, y học… Những trang sách cũng là những câu chuyện đẹp về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và nghị lực vượt qua nghịch cảnh, theo đuổi ước mơ. “Người thầy thuốc” được bình chọn là một trong mười cuốn sách được yêu thích nhất mọi thời đại tại Madrid Book Fair năm 1999. Nhà văn Noah Gordon sinh năm 1926 tại Mỹ. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của ông là lịch sử y học và vấn đề y đức. Bên cạnh đó, lịch sử, văn hóa Do Thái cũng là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của ông. Noah Gordon từng được trao nhiều giải thưởng văn học của Tây Ban Nha, Italy và Mỹ... *** "Cuốn tiểu thuyết lôi cuốn của Gordon tái tạo thế kỷ 11 mạnh mẽ đến mức độc giả bị cuốn theo hàng trăm trang sách bởi đợt thủy triều của trí tưởng tượng và những chi tiết lịch sử xác thực." - Publishers Weekly. "Người thầy thuốc mang màu sắc The Pillars of the Earth của Ken Follett, nhưng với sự phát triển sâu hơn ở cả cốt truyện lẫn nhân vật... Quả là một cuốn sách mở mang đầu óc và khó quên." - Zoltaire's Blog. "Câu chuyện phiêu lưu tràn ngập cảm hứng về cuộc tìm kiếm tri thức y học diễn ra trong một thế giới đầy bạo lực, mê tín và thành kiến." - Library Journal. *** Noah Gordon sinh năm 1926 ở Worcester, Massachusetts, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và Anh ngữ ông theo nghề làm báo. Trong thời gian làm biên tập viên khoa học cho một tờ báo ở Boston ông đã có một số truyện ngắn ra mắt bạn đọc đăng trên các báo hàng đầu ở Mỹ. Ông đã nổi tiếng ngay với tiểu thuyết đầu tay The Rabbi (Giáo sĩ Do Thái). Các tác phẩm tiếp theo The Death Commitee, The Jerusalem Diamond, Shaman... cũng đều trở thành sách bán chạy. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của Gordon là lịch sử y học và y đức. Phần sau sự nghiệp, ông tập trung nhiều hơn vào chủ đề Tòa án dị giáo và lịch sử văn hóa Do Thái. Ông từng nhận các giải thưởng Que Leer Prize (Tây Ban Nha) và Boccaccio Literary Prize (Ý), James Fenimore Cooper Prize for Best Historical Fiction (Mỹ)...   Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Noah Gordon.