Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Làng Nhô

Chuyện làng Nhô, kịch bản phim truyền hình (1995), là tác phẩm đầu tay ở thể loại này của nhà văn Phạm Ngọc Tiến khi anh đầu quân về Trung tâm sản xuất phim truyền hình thuộc Đài truyền hình Việt Nam. Cốt lõi của nó là từ cuôn tiểu thuyết Kẻ ám sát cánh đồng (Nxb Công An Nhân Dân, 1994) của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Một cuốn tiểu thuyết được viết ra từ chính một sự kiện có thật đã diễn ra ở vùng đồng chiêm Kim Bảng (Hà Nam). Những người nông dân nơi đó do có những mâu thuẫn với một số cán bộ chính quyền địa phương trong việc quản lý đất đai, cách thức làm ăn, đời sống sinh hoạt, đã kiến nghị, đã phản đối, và cuối cùng đã thành ra chống đối khi có kẻ xấu ở làng bày mưu xúi giục, tìm cách lái họ chệch hướng đấu tranh. Vụ việc bùng ra gây chấn động dư luận và cuối cùng đã được giải quyết, lập lại trật tự ở làng quê, để cho người nông dân được sống thực trên mảnh đất của mình. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã về tận nơi tìm hiểu sự việc, lấy tài liệu, gặp gỡ trò chuyện với những người thực trong biến cố đó, và anh soi chiếu nó bằng cái nhìn văn học. Tên sách Kẻ ám sát cánh đồng mang tính biểu tượng, đó không chỉ là một nhân vật cụ thể mà còn có thể là một cách làm sai, một cách nhìn chưa đúng gây ra nhũng loạn, hà hiếp ở nông thôn mới. Ý nghĩa này ở cuốn tiểu thuyết của người bạn văn chắc hẳn đã hấp dẫn Phạm Ngọc Tiến khi anh tìm kiếm một cốt truyện viết kịch bản phim truyền hình đầu tay. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thiều đã có những nhân vật rõ nét, có những biến cố kịch tính, có những cảnh huống căng thẳng, đủ chất liệu cho phim. Lên phim, Phạm Ngọc Tiến xoáy bật vào cái làng sinh chuyện - Chuyện làng Nhô. Chuyện làng nhưng cũng là chuyện nước, tác phẩm nghệ thuật phải chưng cất, khái quát hiện thực, không chỉ mô tả mà còn phản ánh, sau phản ánh còn là thể hiện, và thể hiện là để nghiền ngẫm. Tác phẩm Kẻ ám sát cánh đồng của Nguyễn Quang Thiều đã không đơn thuần chỉ là kể về một vụ việc, nó không phải là một báo cáo hình sự, nó là tiểu thuyết. Tác phẩm Chuyện làng Nhô của Phạm Ngọc Tiến chuyển thể từ tiểu thuyết thành phim, biến con chữ nằm im thành hình ảnh chuyển động, là cụ thể hóa rõ hơn, sâu hơn những số' phận người, đập thẳng vào giác quan và tâm trí người xem. Cố nhiên từ sách lên phim thông qua kịch bản là bằng sự đạo diễn và diễn xuất (dựng thành phim năm 1997). Nhưng "có bột mới gột nên hồ", một cuốn sách hay thành một kịch bản hay và được một bộ phim hay. *** Ngôi nhà thờ họ Trịnh nằm ở đầu làng (đó là dòng họ lớn nhất nhì vùng). Ngoài gian chính có điện thờ, còn có một nhà ngang 3 gian nơi ở của cụ Tín, người trông coi việc hương đèn. Nhà thờ họ được quây bằng bức tường đá xám. Lúc này trời đã chạng vạng tối, cụ Tín khóa cổng rồi cập quạng lên gian chính. Điện thờ âm u nhờ nhịt. Cụ Tín đứng trầm mặc trước bàn thờ. Đoạn cụ móc túi lấy bao diêm. Đôi tay già lẩy bẩy quẹt đến bốn năm lần que diêm mới bắt lửa. Cụ lập cập tháo thông phong chiếc đèn dầu nhỏ. Tiếng gió rít nhẹ rờn rợn. Lửa tắt. Lại lẩy bẩy quẹt diêm. Lần này lửa được châm vào đèn. Bập bùng thứ ánh sáng vàng vọt ma quái liếm nhòe nhoẹt các bức ảnh chân dung tiền nhân họ Trịnh. Cụ Tín châm hương, run rẩy cắm vào bát hương, chắp tay. Bên ngoài nhà thờ, làng Nhô lùm lùm thành khối trong màn đêm sầm sẫm. Lác đác những ngọn đèn điện đỏ tòng tọc. Chó sủa thành vệt dài đến nhà thờ họ thì tắt. Một bóng đen đứng tần ngần ở cổng. Tiếng khóa, xích xoeng xoẻng. Bóng đen khẽ gọi: - Cụ Tín… cụ Tín… Gọi thêm vài lượt, không thấy động tĩnh gì, bóng đen chặc lưỡi, đu mình qua tường tiến vào gian thờ. Trong gian thờ cụ Tín vẫn chắp tay không quay lại. Giọng cụ rành rọt. - Chào anh Khả! Bóng đen giật nảy mình: - Hả? - Anh Khả mới về? - Dạ! Nhưng bỗng dưng sao cụ lại biết là con? - Biết chứ. Mắt tôi bây giờ cập bà nhèm nhưng trời thương còn để cho đôi tai. Không phân biệt nổi tiếng chân người họ Trịnh, sao dám chường mặt ở chốn này. - Dạ, con chịu cụ. - Anh Khả về hẳn? Trịnh Khả run bắn người: - Ơ… cụ Tín… sao… . Một tràng cười của cụ Tín cất lên. Tiếng cười nhẹ, mảnh, lạnh, sắc: - Nghe tiếng chân của anh ta biết. Nó nặng nề lắm. Trịnh Khả hơi chồm lên bối rối: - Cụ Tín. Cụ là người hay là… - Ta là con cháu họ Trịnh. Mà thôi, về là phải, con cá chết một giờ ngửa bụng với nước. Con cáo chết ba năm quay đầu về núi. Huống hồ con người… Anh Khả vào thắp hương đi. Cụ Tín quay trở lui ra sân. 2 - Nhà thờ họ Trịnh, tối. Khả châm hương vái. Lần lượt hiện về những khuôn hình thờ. Tiếng gió rít. Các bức ảnh đảo chung chiêng. Mắt Khả đậu lại ở một bức ảnh. Khả thẫn thờ: - Cha ơi. Từ bức ảnh hiện dần lên một người đàn ông mặc áo dài khăn xếp. giọng người ảnh trầm trầm, âm âm: - Anh đã về đấy ư? - Con là Trịnh Khả. Giọt máu buồn, giọt máu lưu lạc của họ Trịnh. Con đã trở về. Người ảnh nhếch mép cười: - Về hẳn à? Hưu à? Làm gì đến tuổi, đúng không nhỉ? Trịnh Khả cung kính: - Con mới 52 tuổi nhưng ở lại làm gì nữa, buồn lắm. Cả đời chẳng đâu vào đâu, vài năm nữa ở lại làm gì. Người ảnh: - Về cũng được. Rút cục anh là người sướng nhất họ Trịnh. Được đi tận Liên Xô học. Gõ đầu người khác, lại ở bậc đại học, lớn lắm đấy. Chả bằng mấy làm quan ư? Trịnh Khả hằn học: - Nước non gì cái chức thầy đồ. Hơn nữa ai để ý gì đến con. Họ thù bố ngày xưa làm sao con ngóc đầu lên được. Xin tổ tiên đừng bỏ rơi con. Người ảnh cất tiếng cười ha ha: - Thù à, ha ha… Trịnh Khả, tuổi kia rồi phải biết phân biệt phải trái chứ, ha ha… Trịnh Khả lùi dần, lùi dần ra cổng, miệng lắp bắp: - Xin đừng bỏ rơi con. Khả lùi sát cổng, hoảng hốt. Tiếng cười vây bủa ghê rợn. Người ảnh lừ lừ trôi phía trước mặt. Thoắt cái, người ảnh biến thành ông cụ Tín, tay cầm đèn cao ngang mặt: - Kìa anh Khả, về nhà đấy à? Còn túi hành lý kia nữa. Khả trân mắt nhìn cụ Tín. Đoạn Khả cầm túi hành lý rút vào bóng đêm. Chó lại sủa rộ thành vệt. 3 - Nhà Trịnh Khả, tối. Khả lùi lũi đi vào ngõ nhà mình. Con chó vàng nhảy chồm chồm ném từng tiếng sủa vào mặt Khả. Khả lậm lừ tiến. Con chó vừa sủa, vừa lùi. Khả lẩm bẩm chửi: - Tiên sư, toàn chó là chó. Trong căn nhà tối om, vẳng ra tiếng đàn bà tru tréo: - Tiên nhân đứa nào trêu chó nhà bà đấy. Khả dằn giọng: - Khả đây! Đèn nhà bật tách sáng. Vợ Khả mừng rỡ: - Ôi thầy nó. Tôi cứ tưởng đứa nào trêu chọc. - Con đâu? - Con Lụa, thằng Khảm lớn rồi, tởn lắm. Chưa cơm nước xong đã tấp tểnh. Kệ xác chúng nó. À chết, bố nó ăn uống gì chưa? - Ăn rồi! - Vậy để tôi pha ấm nước. Vợ Khả đi xuống bếp. Khả ngồi xuống chiếc ghế cũ chợt nhổm người nhăn nhó: - Mẹ kiếp, nhà cửa bẩn thỉu, hôi hám quá. Vợ Khả xách phích nước lên, vừa lúi húi pha trà, vừa lẩm bẩm khẽ: - Nhà không chủ nó thế đấy. Có đàn ông, đàn ang đâu… . Khả vằn mắt: - Cô nói cái gì? Vợ Khả không đáp đi vào buồng. Một lát sau bước ra, tóc tai đã chải gọn gàng, chiếc áo gụ nhàu nát đã được thay bằng chiếc áo cộc tay màu mỡ gà còn mới. Bây giờ vợ Khả mới đáp: - Anh cứ đi biền biệt, có bao giờ ngó ngàng gì đến nhà với cửa. Vợ Khả nấc lên tức tưởi: - Mấy tháng trước con Lụa bị bệnh mắt, suýt mù phải đi Hà Nội chữa. Tìm đến bố, nào có thấy… Khả, giọng đã dịu: - Tôi phải đi công tác liên miên. Thôi, Liên này, tôi sẽ ở nhà. Ở hẳn! - Già rồi còn gì. Ở nhà với vợ, với con lại chả chán vạn lần hơn. Khả nhìn kỹ vợ: - Cô dạo này thay đổi nhiều nhỉ. Nói năng cũng khác. Ai dám bảo tôi già. Sự nghiệp của tôi còn dài. Liên lau nước mắt, chợt bật cười: - Đi cả đời chẳng thấy sự nghiệp đâu. Giờ về dưỡng già lại sự với nghiệp. Đâu, đồ đạc anh để đâu hết. Khả nhăn mặt: - Chỉ có cái túi ấy chứ còn gì nữa. Liên lôi ra bộ quần áo, vài thứ đồ lặt vặt: - Khốn nạn, cả đời công tác, giờ chỉ có ngần này thứ. Sự nghiệp ở đây chắc. Khả rít liên: - Im mồm. Đàn bà biết gì mà nói. Liên khóc: - Tôi thật khổ cả đời! Khả như nhận thấy mình vô lý, đặt tay lên vai vợ: - Thôi, đừng trẻ con, tôi đã về, không phải lo nữa. Rồi cô xem, còn lâu Khả mới già. Khả đẩy Liên vào buồng. Đèn tắt. Tiếng dế rúc. 4 - Làng Nhô buổi sáng. Nhà gạch, mái ngói san sát. Một vài ngôi nhà mái bằng. Đường làng lát gạch nghiêng. Khả, quần áo chỉnh tề, gặp ai cũng sởi lởi chào. Đến cuối làng, hết con đường độc đạo, Khả nhìn ra cánh đồng. Lúa đang trổ. Mắt Khả mông lung. Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Nhô của tác giả Phan Ngọc Tiến & Nguyễn Quang Thiều.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Lãng Du - Alain Fournier
"Kẻ lãng du" là tiểu thuyết xuất sắc về thời hoa niên. Viết về cuộc phiêu lưu không hồi kết cùng mối tình dang dở, cuốn sách của Alain Fournier khiến tuổi trẻ trở nên bất tử. Kẻ lãng du (Le Grand Meaulnes) xuất bản một năm trước Thế chiến I (1913), là tác phẩm của kẻ khổng lồ (grand) cuối cùng của chủ nghĩa lãng mạn. Đây cũng là tiểu thuyết duy nhất của Alain Fournier. Nhà văn đã tử trận từ những ngày đầu của cuộc chiến khi mới 27 tuổi. Kẻ lãng du là câu chuyện kể mang đầy tính chất ngậm ngùi hoài niệm, qua đó khắc họa chân dung Augustin Meaulnes - kẻ vừa mang hình dáng của một chàng Peter Pan tỉnh lẻ nước Pháp chối từ sự trở thành người lớn và của một Parsifal chạy đuổi theo tình yêu đến cùng cuộc đời. Thoạt đầu khi mới đến Sainte-Agathe, Meaulnes đã làm mê mẩn tất cả các bạn đồng học của mình bởi cái vẻ bề ngoài mạnh mẽ, can cường và hào hiệp. Nhưng kể từ khi tham dự vào một lễ hội lạ lùng tại lãnh địa bí mật có cô gái xinh đẹp hiện diện thì chàng thay đổi hoàn toàn từ đây.  Đứng ở vị thế cân bằng giữa lòng hâm mộ thuở thiếu thời với tâm trạng khước từ của lúc đã chín muồi cuộc đời, François Seurel, người kể chuyện đã đưa dắt độc giả vào một mê lộ cuốn hút suốt qua bức chân dung không phai nhòa của một tình bạn đã bị chia lìa và một tuổi thanh xuân đã vĩnh viễn trôi qua. *** Alain Fournier tên thật là Henri-Alban Fournier, sinh ngày 3 tháng 10 năm 1886 tại miền Trung nước Pháp.  Ngay từ khi xuất hiện vào năm 1913, tác phẩm Le Grand Meaulnes đã làm dân Pháp mê mẩn bởi mối tình si lãng mạn. Theo thời gian, cuốn truyện trở thành sách phải đọc trong các trường học ở Pháp. Năm 1999 báo Pháp Le Monde đã đưa Le Grand Meaulnes vào danh sách 100 cuốn sách giá trị nhất của thế kỷ. Le Grand Meaulnes đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Chỉ riêng tiếng Anh đã có hàng chục bản dịch. Tên của các bản dịch được các dịch giả đặt lại rất khác nhau. Không những thế, người ta còn viết truyện, soạn nhạc và làm phim từ tác phẩm này. Nhiều tác giả nổi tiếng của Hoa Kỳ cũng hâm mộ Alain-Fournier và mối tình của Le Grand Meaulnes. Jack Kerouac cho nhân vật Sal Paradise của ông cầm cuốn truyện Pháp rong chơi khắp xứ. Nhà văn F.Scott Fitzgerald thì mượn ngay tên truyện thành “The Great Gatsby” và cũng dùng kỹ thuật kể chuyện của một vai phụ trong tác phẩm. Mời các bạn đón đọc Kẻ Lãng Du của tác giả Alain Fournier.
Để Em Khỏi Lạc Trong Khu Phố - Patrick Modiano
Luôn né tránh quá khứ bởi sợ “nỗi u sầu sẽ lan truyền qua tháng năm tựa như lần theo một dây cháy chậm”, Jean Daragane bỗng bị thời xa xăm đớp ngoạm lấy vì một cái tên. Cái tên ấy hút lấy ông, đưa ông trở về với Paris những năm 1950, 1960, để lần theo dấu vết gần như đã bị xóa sạch của một người phụ nữ mang tên Annie Astrand. Cùng Daragane bước vào cuộc lần tìm ấy, độc giả bị cuốn đi tới các cánh cửa của thời gian mà không sao dứt ra được, để rồi khi kết thúc, chỉ kịp nhận ra trên tay mình là một cuốn tiểu thuyết trọn vẹn đến hoàn hảo, đôi khi khiến ta đau xé ruột, một cuốn tiểu thuyết suy cho cùng rất có thể chỉ là một cuốn truyện tình. *** Patrick Modiano (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1945 ở ngoại ô thủ đô Paris, nước Pháp) là một nhà văn Pháp. Ông có gần 30 tác phẩm, trong đó có tác phẩm mới nhất là tiểu thuyết “Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier”. Hai tác phẩm của ông đã được chuyển thành phim, theo Reuters. Năm 2014, ông được trao Giải Nobel Văn chương. Trước đó ông từng đoạt giải Nhà nước Áo về Văn học châu Âu vào năm 2012 và Prix Mondial Cino Del Duca từ Institut de France cho thành tựu trọn đời của ông trong năm 2010. Những sách của ông lập đi lập lại tập trung vào những đề tài như: ký ức, sự quên lãng, sự nhận dạng và tội lỗi, liên hệ tới thời kỳ Nazi chiếm đóng Pháp trong chiến tranh thế giới thứ II. Peter Englund, bí thư thường trực của học viện Nobel, nói "lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ --- nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó. Một số tác phẩm của tác giả Patrick Modiano được dịch và xuất bản tại Việt nam: Phố Những Cửa Hiệu U Tối Quảng Trường Ngôi Sao Ở Quán Cà Phê Tuổi Trẻ Lạc Lối Từ Thăm Thẳm Lãng Quên Catherine Cô Bé Đeo Mắt Kính Một Gánh Xiếc Qua ... Mời các bạn đón đọc Để Em Khỏi Lạc Trong Khu Phố của tác giả Patrick Modiano.
Hania - Tình Yêu Của Tôi, Nỗi Buồn Của Tôi - Henryk Sienkiewicz
Một câu chuyện tình yêu, những rung cảm đầu đời và nỗi buồn được kể một cách giản dị và tinh tế với ngôn ngữ biểu cảm, đầy nhịp điệu. Hania, cô gái nhỏ mồ côi hiện diện như một trái tim trong trắng, cao thượng và trở thành hồi ức có sức sống lạ lùng về một tình yêu mang vẻ đẹp lí tưởng, một tình yêu nâng con người lên cao hơn những ích kỉ trần thế. Câu chuyện của thời đại cách đây hai thế kỉ vẫn minh chứng cho khát vọng tình yêu vượt qua mọi biên giới, phân chia giai cấp, giàu nghèo… Và ở nơi tình yêu thực sự, con người luôn hướng tới cái đẹp và tình yêu cao cả. *** Henryk Sienkiewicz là người Ba Lan đầu tiên được trao giải Nobel Văn học (năm 1905). Ông sinh ngày 05-05-1846 trong gia đình một chủ đất đang trên đà sa sút tại làng Wola Okrzeska, Lukowiec, Podlasie. Những năm thơ ấu nhà văn từng sống ở làng quê, do đó ông đã có dịp quan sát đời sống nông thôn Ba Lan để sau này đưa vào trang viết của mình một cách hết sức ấn tượng. Bắt đầu từ năm lên chín tuổi, Henryk Sienkiewicz chuyển tới thủ đô Warszawa học tập và sinh sống. Ông từng là sinh viên Luật, sau chuyển sang khoa Ngôn ngữ - Lịch sử (1866 - 1871), từ 1882 đến 1887 là phóng viên báo, đã từng được cử sang Mĩ và một số nước Tây Âu làm việc. Nhà văn bắt đầu sự nghiệp văn chương từ những năm còn là sinh viên đại học và sớm nổi tiếng với các bài phê bình văn học, các tiểu phẩm về những vấn đề đương đại và cuối cùng là các bộ tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn với nhiều đề tài khác nhau. Henryk Sienkiewicz là nhà văn đi đầu với các sáng tác văn học yêu nước, là bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ, có đóng góp to lớn trong việc quảng bá văn học, đặc biệt là tiểu thuyết Ba Lan ra thế giới. Từ 1883 đến 1888, ông đã cho ra đời ba tiểu thuyết lịch sử lớn là Bằng lửa và bằng gươm, Trận hồng thủy và Ngài Wolodyjowski, kết hợp chủ nghĩa lãng mạn, sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật, đưa tiểu thuyết Ba Lan lên tầm cỡ thẩm mĩ chưa từng có trong giai đoạn đó. Về sau ông lần lượt cho ra đời hai tiểu thuyết lịch sử đồ sộ khác là Quo vadis và Hiệp sĩ Thập Tự. Toàn bộ các tiểu thuyết lịch sử của Henryk Sienkiewicz không những hết sức nổi tiếng ở Ba Lan mà còn là của báu trong kho tàng văn học thế giới, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và truyền bá rộng rãi khắp các châu lục. Một số tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt như tiểu thuyết lịch sử Quo vadis, Bằng lửa và bằng gươm. Tác phẩm Ngài Wolodyjowski được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi ở nhiều nước. Nhà văn mất ngày 15-11-1916 tại Vevey, Thụy Sĩ và ngày 27-10-1924 hộp tro thi hài được làm lễ an táng tại Nhà thờ Thánh Jan ở Warszawa. Tác phẩm mà chúng tôi chọn dịch lần này dựa theo nguyên bản tiếng Ba Lan mà NXB GLOB Szczecin tái bản năm 1986 dưới nhan đề: STARY SLUGA, HANIA. Đây không phải tiểu thuyết lịch sử mà là tiểu thuyết về đề tài tình bạn, tình yêu và cuộc sống của giới quý tộc Ba Lan ở thế kỉ XIX. Tôi bị những trang sách cuốn hút ngay khi mới đọc, và đặc biệt xúc động khi thấy các nhân vật trong truyện cũng có những rung động giống với lớp thanh niên Việt Nam chúng tôi ở thế kỉ XX làm sao! Mặc dù biết tác phẩm này đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam, nhưng vì mối đồng cảm đó, tôi quyết định cứ dịch và công bố nó, bởi nghĩ như vậy độc giả càng có dịp được thưởng thức, thậm chí có thể so sánh, đánh giá và góp ý cho các dịch giả. Warszawa, mùa đông năm 2009 • Người dịch Mời các bạn đón đọc Hania - Tình Yêu Của Tôi, Nỗi Buồn Của Tôi của tác giả Henryk Sienkiewicz.
Ai Rồi Cũng Chết! - Atul Gawande
Thông qua tác phẩm, bác sĩ Atul Gawande giúp người đọc nhìn nhận thực tế về sự hữu hạn của bản thân và trách nhiệm sống tốt để không hối tiếc vì hoài phí tuổi xuân. Tác phẩm best-seller Ai rồi cũng chết! được viết bởi Atul Gawande, một bác sĩ phẫu thuật đã dành nhiều năm cuộc đời mình để nghiên cứu và làm sáng tỏ những giới hạn của y học. Kể từ cuốn sách đầu tiên đạt giải thưởng sách quốc gia Phức thể, bác sĩ Gawande nỗ lực dùng ngòi bút của mình để truyền đạt đến với độc giả thông điệp "Dù cho các công nghệ y khoa và chữa bệnh có tân tiến đến đâu, bác sĩ vẫn chỉ là con người và là con người, tất cả đều hữu hạn". Đến tác phẩm Ai rồi cũng chết!, ông đã mạnh dạn động chạm đến chủ đề có sức nặng này. Giữa một thế giới hiện đại tôn thờ tuổi trẻ và vật chất công nghệ, nơi quá nhiều người tin rằng mình còn có thể sống rất lâu, các công nghệ y học sẽ giúp chúng ta trường thọ, không mấy ai sẵn sàng đối diện với sự thật: tuổi xuân sẽ nhanh chóng qua đi, cơ thể rồi sẽ sa sút bệnh tật, sẽ mất đi khả năng làm được những điều mình thích và cuối cùng cái chết sẽ đến.  *** Ai rồi cũng chết! là một tuyệt phẩm đánh động lòng người được viết nên bởi bác sĩ kiêm tác giả best-seller Atul Gawande. Cuốn sách không chỉ có khả năng lay chuyển ngành y học hiện đại, mà nó còn sẽ giúp làm biến đổi hoàn toàn cuộc sống của muôn người - bao gồm chính bạn! Ngành y học thế giới đã có nhiều bước phát triển vượt bậc trong những năm qua: giảm thiểu tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, nâng cao tỉ lệ sống sót sau chấn thương, chữa trị và kiểm soát được nhiều loại bệnh tật - kể cả nhiều căn bệnh từng được xem là không có thuốc chữa trong quá khứ. Nhưng dù có bành trướng hùng mạnh đến đâu, y học vẫn muôn đời bất lực trước quy luật sinh-lão-bệnh-tử bất biến của con người: Mỗi khi con người phải đối diện với Tuổi Già và Cái Chết, những công cụ y học vốn dĩ quyền năng bỗng chốc phản bội lại chính lý tưởng cứu nhân độ thế mà chúng đang phục vụ. Bằng những công trình nghiên cứu khoa học giá trị và những câu chuyện sống động từ các bệnh nhân và người thân của chính mình, bác sĩ Gawande bóc trần cho chúng ta thấy những hệ lụy và nỗi đau mà con người phải gánh chịu bởi nghịch lý trên. Viện dưỡng lão vốn dĩ được lập ra với mục đích ban đầu tốt đẹp là giúp cho người cao tuổi có một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn bất chấp tuổi già, nhưng nhiều nhà dưỡng lão ngày nay bị biến tướng thành những tòa nhà khép kín không khác gì nhà tù, nơi mà người già không được phép ăn những món ăn họ thích và không được phép làm những gì mình muốn. Nhiều bác sĩ được đào tạo xuất sắc về mặt chuyên môn, nhưng lại không biết cách làm thế nào để nói cho bệnh nhân biết sự thật về bệnh tình của họ; thay vào đó, bác sĩ lại vin vào những hy vọng hão huyền về khả năng cứu sống người bệnh của y học và đề xuất cho bệnh nhân hàng loạt biện pháp chữa trị để nuôi những hy vọng hão đó. Rốt cuộc, hành động này chỉ khiến cho người bệnh và cả thân nhân của họ thêm hao mòn khổ sở chứ không hề mang lại ích lợi gì cho họ cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. *** Atul Gawande là tác giả của các cuốn sách: Ai rồi cũng chết,  Better (Tốt hơn nữa) và Complications (Các biến chứng). Năm 2006 ông đã từng đoạt giải thưởng MacArthur Fellowship, một trong những giải thưởng cao quý nhất trong các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. Ông là bác sĩ phẫu thuật nội tiết và tổng quát ở Boston. Atul Gawande còn là cộng tác viên của tờ báo The New Yorker và là giảng viên Trường Y thuộc Đại học Harvard. Ngoài ra, ông còn điều hành chương trình Phẫu thuật An toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hiện nay, ông cùng vợ và ba con sống tại Newton, Massachusetts, Mỹ. Mời các bạn đón đọc Ai Rồi Cũng Chết! của tác giả Atul Gawande.