Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Chiến Disney - James B. Stewart

Đây là câu chuyện mê hoặc về một trong những công ty giải trí và truyền thông quyền lực nhất nước Mỹ, về những người lãnh đạo nó cũng như những người muốn lật đổ chế độ cai trị đó. Một câu chuyện đầy những nút thắt, những nhân vật để đời và đạt tới đỉnh cao ly kỳ, hồi hộp đến mức hoàn toàn có thể là chủ đề cho một bộ phim thần thoại về Disney, chỉ có điều chúng hoàn toàn là sự thật. Các bạn sẽ được chứng kiến quá trình ra đời của những bộ phim huyền thoại như Nàng tiên cá, Người đẹp và Quái thú, Vua Sư tử, Aladdin và cây đèn thần, Câu chuyện đồ chơi, Cướp biển vùng Ca-ri-bê. Các bạn sẽ được gặp lại những cái tên đình đám như Tom Hanks, Steve Jobs, Pixar, Johnny Depp. Cùng với đó là lịch sử hoạt động suốt 20 năm của Disney, từ năm 1984 đến năm 2003, dưới sự dẫn dắt của Michael Eisner, tràn đầy những thăng trầm, những cuộc chiến phe cánh, tranh giành quyền lợi, chức vụ, những chiến lược kinh doanh, v.v. Có thể nói, toàn bộ cuốn sách là một vở kịch bi tráng và sống động về quá trình phát triển của Disney, một trong những đế chế có ảnh hưởng nhất thế giới.         *** Roy E. Disney lái chiếc Ferrari đỏ đời 1999 vào bãi đỗ xe của quán rượu Bodega ở Pasadena. Đó là buổi chiều muộn ngày thứ Năm, 20 tháng Mười một năm 2003, một tuần trước lễ Tạ ơn. Roy thích chiếc Ferrari này. Nó là một trong số bằng chứng ít ỏi cho thấy cháu của Walt Disney huyền thoại, người đàn ông 73 tuổi giản dị và khiêm tốn này là một trong những người giàu có nhất nước Mỹ. Nó luôn là chiếc xe nổi bật nhất trên bãi đỗ của Disney, nơi Roy được dành riêng một chỗ cạnh Michael Eisner, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty. Chính nhờ nó mà mọi người luôn biết khi nào Roy đang có mặt ở trụ sở. Roy căm ghét tòa nhà “Team Disney.” Nó được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi danh Michael Graves theo chỉ thị của Eisner để làm trụ sở của công ty Walt Disney. Dù mặt trước đồ sộ đã được làm nhẹ bớt bằng các bức phù điêu đắp nổi hình bảy chú lùn, nhưng đối với Roy, nó vẫn đại diện cho tất cả sự phô trương và kệch cỡm mà Eisner đã tạo ra ở đây. Cũng như với rất nhiều thứ khác, Roy luôn băn khoăn không biết liệu chú Walt của mình sẽ nghĩ sao. Văn phòng của Walt vẫn ở đó, trong tòa nhà cũ, giản dị của xưởng phim hoạt hình. Eisner cũng từng dùng nó làm văn phòng của ông ta trước khi chuyển tới trụ sở mới này. Giờ đây Roy lại chuyển về đó. Nó khiến ông cảm thấy thoải mái hơn tòa nhà đồ sộ và khô khan mà ông vẫn đùa là mỗi khi bước vào ông phải rải vụn bánh mì làm dấu đường thì mới tìm được lối ra. Vài tháng gần đây, Roy đã thực sự tách mình ra khỏi Eisner và các lãnh đạo cấp cao khác của công ty. Mặc dù gần 20 năm trước, chính ông là người đã đưa Eisner tới Disney, nhưng giờ đây ông cảm thấy mình đang bị người đàn ông này lừa dối và phản bội. Eisner đến với Disney sau thành công chói lọi trong ngành sản xuất chương trình truyền hình ở kênh truyền hình ABC và sau đó là sản xuất phim tại hãng phim Paramount Pictures. Nhưng giờ thì Roy cho rằng những thành công rực rỡ mà Eisner có được trước đó chẳng qua là nhờ may mắn gặp được những đối tác ăn ý: Barry Diller ở ABC và Paramount; sau đó là Frank Wells và Jeffrey Katzenberg trong những năm đầu thành công đáng kinh ngạc ở Disney. Kể từ khi Wells qua đời trong một tai nạn máy bay thương tâm vào năm 1994, còn Katzenberg phải ra đi trong cay đắng liền sau đó, trách nhiệm đối với Disney đổ dồn lên một mình Eisner. Theo cách nhìn nhận của Roy thì tình cảnh đó đã dẫn đến những hậu quả vô cùng tồi tệ. Khi cả sức mạnh tài chính lẫn năng lực sáng tạo của công ty đều đi xuống, Eisner lại khư khư giữ lấy quyền lực như một kẻ quẫn trí, cho rằng ông ta và chỉ mình ông ta là sở hữu khả năng sáng tạo thiên bẩm cùng những kỹ năng quản lý cần thiết để dẫn dắt Disney trở thành tập đoàn giải trí và truyền thông của thế kỷ XXI. Eisner còn tự cho mình là người thừa kế ngôi vị của Walt, xuất hiện hàng tuần trên màn hình ti vi trong phòng khách của các gia đình Mỹ với tư cách người dẫn chương trình “The Wonderful World of Disney” (Thế giới kỳ diệu của Disney), hệt như những gì Walt đã từng làm. Về phương diện này, Roy cảm thấy Eisner chỉ là mắt xích tiếp theo trong chuỗi dài những kẻ dám tự vỗ ngực cho rằng mình có thể ngồi vào ngôi vị của Walt. Đôi khi ông băn khoăn tự hỏi, tại sao lại có quá nhiều người muốn là hiện thân của Walt đến vậy? Chẳng ai lượn quanh Hollywood để rao giảng rằng mình là Louis B. Mayer(1) hay Cecil B. DeMille(2) cả. Điều gì khiến bọn họ ảo tưởng rằng mình là người phù hợp để thay thế Walt? Đầu tiên là E. Cardon Walker, rồi đến con rể của Walt, Ron Miller – chủ tịch và giám đốc điều hành của Disney, những kẻ lúc nào cũng lôi những kỷ niệm về Walt ra để làm bệ phóng. Sau đó lại đến Jeffry Katzenberg, kẻ tự cho mình là người thừa kế của Walt trong vai trò người đứng đầu xưởng phim Disney. Tất cả bọn họ đều đã đi quá giới hạn; mỗi lần như vậy Roy lại buộc phải ra tay can thiệp, và họ đã bị thay thế. Giờ thì tới lượt Eisner, ông ta lại đang lần lượt bỏ qua tất cả các giới hạn. Roy không tự cho mình là Walt, nhưng nếu có ai đó được quyền thừa kế di sản mà Walt để lại thì người đó phải là ông. Trước toàn thế giới ông vẫn là hiện thân của công ty Disney và những gì mà nó đại diện, là người lãnh đạo cuối cùng của công ty còn mang họ Disney. Chỉ một tháng trước đây, trong lễ khai trương trò chơi mới tại Walt Disney World mang tên “Misson: SPACE,” Eisner còn công khai thay mặt công ty ca ngợi những đóng góp của Roy và được tán thưởng bằng những tràng pháo tay vang rền. Dường như đám đông luôn hưởng ứng Roy, có lẽ là bởi, ở tuổi 73, ông có vẻ bề ngoài rất giống Walt. Thế nhưng ẩn sau những lời ca tụng công khai của Eisner lại là sự thù nghịch cá nhân ngày một dâng cao. Khi Jane, vợ của Eisner đi ngang qua Roy và vợ ông, Patty, ngay trước khi bài phát biểu của Eisner bắt đầu, họ đã cố tình lờ nhau đi. Từ lâu Roy đã thôi không tham dự các buổi họp giao ban hàng tuần của Eisner với các lãnh đạo cao cấp khác của Disney, hay những bữa trưa mà Eisner dành để thông báo với Roy về các kế hoạch và chiến lược của công ty nữa. Roy đã không còn tin tưởng Eisner sau khi biết rằng ông ta đã cài cắm một gián điệp để theo dõi mọi lời nói và hành động của ông ở xưởng phim hoạt hình. Gần đây họ còn tránh không nói chuyện với nhau tại buổi công chiếu bộ phim Brother Bear (Anh em nhà Gấu) – tác phẩm hoạt hình mới nhất của Disney, mà theo Roy là rất tầm thường. Tệ hơn cả, năm đó Eisner đã không xuất hiện trong buổi lễ trao giải Disney Legends mà Edna, mẹ của Roy, cùng Lillian, góa phụ của Walt được trao giải còn Roy là người thay mặt gia đình lên nhận giải. Đó là lần đầu tiên Eisner không tham dự sự kiện thường niên này. Liền sau đó, những lời đồn thổi lan đi khắp công ty rằng chủ tịch và phó chủ tịch của Disney đã không còn nói chuyện với nhau nữa. Roy chẳng hề trông đợi cuộc gặp gỡ sắp diễn ra tại quán rượu với John Bryson, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Edison International, công ty mẹ của Southern California Edison. Bryson tham gia hội đồng quản trị của Disney vào năm 2000 và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban đề cử và kiểm soát đầy quyền lực của công ty. Tại các cuộc họp của hội đồng quản trị, Roy hiếm khi lên tiếng. Nhưng đồng minh, đối tác, luật sư của Roy, đồng thời cũng là thành viên của hội đồng quản trị, Stanley Gold, đã bù đắp lại sự kiệm lời đó của ông. Suốt nhiều năm, Gold luôn kịch liệt phê phán phong cách điều hành cùng kết quả tài chính của công ty. Nhưng những lời chỉ trích của ông tại hội đồng giống như nước đổ lá khoai. Các thành viên hội đồng dường như luôn mù quáng ủng hộ Eisner. Những người không ủng hộ ông ta, như Andrea Van de Kamp và Reveta Bowers, đều đã bị thanh lọc. Những gì đã xảy ra với họ cũng là sự cảnh báo cho những người còn ở lại về những điều có thể xảy ra với những kẻ bất phục tùng. Roy đặc biệt nghi ngờ Bryson, bề tôi trung thành của Eisner, kẻ đã thay thế Gold làm chủ tịch ủy ban kiểm soát và sau đó đẩy ông ra khỏi ủy ban luôn. Bắt đầu từ tháng Chín năm ngoái, Gold đã gửi hàng loạt thư chỉ trích kết quả làm việc và chế độ lương thưởng của Eisner tới các thành viên hội đồng. Ông và Roy cho rằng những chỉ trích bằng văn bản sẽ khó mà bị tảng lờ, đồng thời cũng muốn làm rõ quan điểm của mình. Gần đây nhất, Gold và Roy đã phản đối khoản tiền thưởng 5 triệu đô la dành cho Eisner trong một năm mà thu nhập từ hoạt động kinh doanh của công ty giảm tới 25% còn giá cổ phiếu thì chạm mức đáy trong vòng 52 tuần. Vài ngày trước đó Bryson đã gọi cho Roy. “Tôi cần nói chuyện riêng với ông,” Bryson nói và khăng khăng đòi hẹn gặp tại một địa điểm kín đáo để không bị ai nhìn thấy. Roy đã đồng ý, dù cho rằng trong giọng nói của Bryson có âm vực của sự “chết chóc.” Ông lo sợ rằng những kẻ trung thành với Eisner đang cố loại trừ Gold. Không khí của các cuộc họp hội đồng gần đây đã trở nên ngày một căng thẳng. “Mình phải làm sao để bảo vệ ông ấy đây?” Roy băn khoăn về Gold khi bước vào quán rượu. Ông không thể hiểu nổi tại sao hội đồng lại muốn loại bỏ tiếng nói đối lập cuối cùng còn sót lại. Vừa gọi đồ uống xong, Bryson mở đầu ngắn gọn rồi đi thẳng vào vấn đề. “Ông biết đấy, Roy, ông đã quá tuổi nghỉ hưu rồi đó,” Bryson nói. Roy sửng sốt trước sự thẳng thắn của Bryson, ông lẩm bẩm điều gì đó không rõ nghĩa. Phải, về mặt nguyên tắc là như vậy, bởi tuổi về hưu quy định là 72, mà Roy thì đã 73. Nhưng nó không áp dụng với các thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm các chức vụ điều hành trong công ty, mà ông lại là trưởng bộ phận phim hoạt hình. Disney nổi tiếng một phần cũng vì rất nhiều nhân viên có tuổi đời cao. “Ủy ban đã họp,” Bryson tiếp lời, “Tom Murphy và Ray Watson sẽ rút lui.” Murphy, cựu chủ tịch Capital Cities/ABC, đã tham gia hội đồng quản trị sau khi Disney mua lại ABC vào năm 1995; còn Watson, chủ tịch của Disney trước khi Eisner nhận chức vào năm 1984, là thành viên thâm niên nhất tại hội đồng, chỉ sau Roy. Cả hai đều đã quá tuổi 72. Roy không ngạc nhiên về chuyện đó bởi họ đều đã cho ông biết trước kế hoạch nghỉ hưu của mình. “Chúng tôi đã cùng kết luận là ông không nên tái tranh cử nữa,” Bryson nói. Roy nhìn ông ta mà không tin nổi vào mắt mình. Ông không nói nên lời. Ông cảm thấy như có một mũi dao đang đâm thẳng vào tim. Chưa một giây phút nào ông thoáng có ý nghĩ rằng hội đồng sẽ đi xa tới mức này. Không chỉ bởi ông vẫn là một trong những cổ đông lớn nhất của công ty, mà còn bởi ông đã cống hiến 50 năm cuộc đời mình cho Disney. Ông là mối dây liên hệ trực tiếp duy nhất với Walt trong hội đồng. Chú Walt từng kể truyện cổ tích và đọc “Pinocchio” cho ông nghe khi ông còn nhỏ. Chính cha ông và Walt đã cùng nhau gây dựng Disney. Có một sự im lặng ngượng ngùng. Cuối cùng Bryson nói, “Tôi từng phải nói điều tương tự với Warren Christopher,” ý nói tới cựu ngoại trưởng của tổng thống Bill Clinton khi ông này đến tuổi về hưu trong khi đang là thành viên hội đồng quản trị của Edison. “Anh tốt thật nhỉ?” Roy nói. “Đương nhiên, ông có thể là thành viên danh dự suốt đời,” Bryson nói. “Chúng tôi vẫn muốn ông xuất hiện tại các công viên hay các sự kiện đặc biệt…” Roy cắt lời Bryson bằng tiếng cười lớn. Nghĩa là họ vẫn muốn phô trương ông giống như một nhân vật hoạt hình của Disney. Thật là một sự sỉ nhục! Lại một hồi im lặng kéo dài. Chẳng nghi ngờ gì là họ cho rằng ông sẽ ra đi lặng lẽ, ẩn giật tại lâu đài của mình ở Ai Len hay trên chiếc du thuyền cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng bất chấp tuổi tác, Roy vẫn thấy mình tràn đầy năng lượng cùng lòng quyết tâm. Suốt cuộc đời ông đã luôn bị đánh giá thấp. Chuyện này đã từng xảy ra rồi. Nhưng nó sẽ không thể lặp lại nữa. Ông chỉ còn một điều duy nhất để nói: “Anh đang mắc một sai lầm nghiêm trọng đấy,” ông nói khi nhìn thẳng vào Bryson. “Và anh sẽ phải hối hận vì đã làm thế.” Rồi ông đứng dậy và bước thẳng ra ngoài. Đó là một ngày cuối tháng Năm, trời rất trong xanh, ở trung tâm Florida. Mới 10 giờ sáng mà nhiệt kế đã chỉ đến 32 độ còn độ ẩm thì cũng ở mức tương tự. Chẳng cần vận dụng nhiều trí tưởng tượng thì cũng có thể tin rằng Disney’s Animal Kingdom, một trong bốn công viên giải trí theo chủ đề của Walt Disney World, thực ra đang nằm ở vùng châu Phi nhiệt đới. Goofy đang đứng ngay bên ngoài hàng rào, sẵn sàng tiến vào trong công viên. Giống như du khách tại các khu bảo tồn động vật hoang dã ở châu Phi mong mỏi được nhìn thấy một trong “Bộ Năm(3)” loài động vật nổi tiếng nhất nơi đây, khách tham quan Animal Kingdom cũng mong mỏi được trông thấy “Bộ Năm” ngôi sao của Disney – Mickey, Minnie, Donald, Pluto, và Goofy, các nhân vật hoạt hình nổi tiếng nhất và được xin chữ ký nhiều nhất. Goofy là một chú chó, đương nhiên, chú có lông, cái mõm dài, hai tai mềm mượt, bụng hơi phệ cùng đôi bàn chân lớn. Chú cũng là nhân vật cao lớn nhất trong Bộ Năm, những trên một mét tám. Hôm nay chú được hóa trang để trình diễn tại Animal Kingdom. Chú đội một chiếc mũ mềm vành rộng, giày đi bộ và tất, quần soóc màu vàng chanh in hình khủng long, áo sơ mi kẻ ca rô đỏ, dây đeo quần và khăn quàng cổ bằng vải ka ki. Điều mà nhiều người không nhận ra là tầm nhìn của Goofy rất hạn chế. Đôi tai dài khiến chú khó mà nhìn được sang hai bên, cái mũi quá khổ lại cản trở tầm nhìn phía trước. Thứ chú nhìn thấy nhiều nhất có lẽ là mặt đất ở quanh chân mình. May mắn thay, Goofy có hai người dẫn đường giúp chú bước vào trong công viên. Họ mở cửa và nhẹ nhàng đẩy chú về phía trước. Chú phải cúi thấp người mới bước lọt qua. Goofy không biết chắc mình đang ở đâu, nhưng chú nghe thấy những giọng nói vọng lại từ xa. Chú thấy hồi hộp. Chú có thể cảm thấy tim mình đang đập thình thịch. Chỉ vài giây sau, chú bắt đầu nghe thấy những tiếng reo hò: “Goofy kìa!” Chú nghe thấy nhiều giọng trẻ con hơn và còn thấy một vài đứa đang chạy lại phía mình. Chú vẫy vẫy tay và biểu diễn màn “đi bộ kiểu Goofy,”điệu bộ ngớ ngẩn vừa đi vừa nhảy cẫng lên đó là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của chú. Lũ trẻ lập tức bị mê hoặc! Chúng chạy tới đông hơn, các ông bố bà mẹ từ từ bắt kịp chúng ở đằng sau. Đột nhiên Goofy nhìn thấy một cô bé đang tiến dần về phía mình. Trông cô bé chỉ khoảng 5 hay 6 tuổi và có vẻ hơi sợ sệt. Khi tới nơi cô bé ngượng ngùng đưa ra cuốn sổ xin chữ ký và một cái bút. Goofy vụng về quặp lấy bút và ký vào một trang còn trống, cẩn thận kéo dài đuôi chữ f để nó luôn là nét nổi bật nhất làm nên chữ ký của Goofy. Thật là nhẹ nhõm khi chó không thể nói chuyện được. “Ôm Goofy đi con!” Một giọng người lớn cất lên. Cô gái nhỏ trông có vẻ hơi lo lắng, nhưng Goofy mở rộng cánh tay, và cô bé tiến đến sát gần chú. Chú trao cho cô bé một cái ôm dịu dàng. Thế rồi, trong một khoảnh khắc, Goofy nhìn thấy rõ gương mặt cô bé. Sự thẹn thùng tan biến, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng và cả gương mặt như bừng sáng. Cô bé tựa vào lòng chú và đặt một nụ hôn lên cái mũi dài của chú. Ánh đèn dần tắt. Goofy ước mình có thể cởi bỏ đôi găng tay để gạt dòng nước mắt vừa chợt trào ra. Hay có lẽ đó chỉ là những giọt mồ hôi. Trong chốc lát, sự thẹn thùng của một đứa trẻ biến mất, thay vào đó là sự ngưỡng mộ và niềm vui sướng. Đó chính là thứ mà hầu hết các nhân viên của Disney đang nói đến khi họ dùng từ phép màu để mô tả công việc của mình. Đó cũng là lý do tại sao rất nhiều người đến đây làm việc từ khi còn là học sinh trung học hay sinh viên đại học, và rồi 20 năm sau vẫn còn ở lại. Đương nhiên, Goofy có thật. Đối với cô bé đó chú có thật, và đối với tôi thì giây phút ấy Goofy có thật. Tôi không còn là nhà văn hay nhà báo trong lớp hóa trang bằng đệm lót và bộ lông giả nữa. Tôi là Goofy. Mặc dù xuất hiện tại công viên giải trí trong vai trò một nhân vật hoạt hình là một phần của lớp học định hướng dành cho các nhà lãnh đạo cao cấp của Disney, nhưng chỉ sau khi chấp nhận vào vai Goofy tôi mới được biết rằng mình sẽ không được viết gì về chuyện đó, ít nhất không được tuyên bố hay ám chỉ rằng Goofy chỉ là một diễn viên được mặc bộ đồ hóa trang. Những người phụ trách các công viên giải trí đã áp đặt điều kiện này với tôi dựa trên nguyên tắc là ảo tưởng về sự tồn tại thực sự của các nhân vật hoạt hình của Disney không bao giờ được phép tiết lộ với bất kỳ ai. Lúc đầu tôi cho rằng chuyện này thật ngớ ngẩn. Bởi nó hiển nhiên như chuyện Ông già Noel không có thật và chắc chắn là tất cả mọi đứa trẻ khi lên 8 hoặc cùng lắm là 10 đều sẽ hiểu rằng bên trong những bộ đồ hóa trang đó là người thật. Nhưng những người làm việc trong các công viên giải trí vẫn cương quyết duy trì quy định đó, và đến khi gặp họ tôi mới hiểu tại sao. Gần như mọi thứ bên trong Disney World đều là ảo tưởng: xinh xắn hơn, sạch sẽ hơn, an toàn hơn, tốt đẹp hơn và vui vẻ hơn thế giới thực. Walt quả là thiên tài khi nhận ra rằng không chỉ có trẻ con mới muốn chạy trốn khỏi thực tại. Cũng giống như bất kỳ ảo thuật gia tài giỏi nào khác, bạn phải tin vào ảo tưởng, nếu không thì nó sẽ tan biến. Đó là niềm tin phổ biến mà rất nhiều người Mỹ vẫn say sưa ôm ấp, cho nên cái tên Disney mới có thể trở thành biểu tượng của văn hóa Mỹ được lý tưởng hóa trong đó những giấc mơ luôn trở thành sự thực. Nhưng cũng giống như rất nhiều thứ khác ở Disney, nguyên tắc này đã thay đổi trong vòng một năm rưỡi huyên náo sau buổi trình diễn đầu tiên của tôi tại Animal Kingdom. Sau khi Comcast Cooperation, một công ty truyền hình cáp khổng lồ có trụ sở ở Philadelphia tiến hành chiến dịch thù nghịch nhằm thâu tóm Disney vào tháng Hai năm 2004, Disney đã phải chịu đựng nhiều đòn tấn công ác ý của giới truyền thông. Một bài báo trên Wall Street Journal đã tiết lộ rằng tất cả các nhà lãnh đạo cấp cao của Disney đều đã xuất hiện tại các công viên giải trí trong trang phục của các nhân vật hoạt hình. Sau khi thông tin đó xuất hiện trên tờ tạp chí được phát hành rộng rãi trên toàn nước Mỹ, Eisner đã đồng ý là việc tôi giả vờ Goofy là có thật chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa, và ông đã cho phép tôi mô tả trải nghiệm vào vai nhân vật hoạt hình này của mình. Tôi gặp Michael Eisner lần đầu tiên từ cách đây nhiều năm, trước khi tôi trở thành nhà báo. Năm 1978, tôi là một luật sư trẻ tại hãng luật lớn Cravath, Swaine & Moore có trụ sở ở New York, còn Eisner là chủ tịch hãng phim Paramount Pictures. Công ty của tôi đang đại diện cho kênh truyền hình CBS trong một vụ kiện chống độc quyền do Bộ Tư pháp khởi xướng, trong khi bên bị đơn là các kênh truyền hình cứ khăng khăng cho rằng họ chỉ phối hợp với nhau để giảm chi phí phải trả cho các chương trình mà các hãng phim Hollywood sản xuất. Các hãng phim Hollywood cũng chính là bên đã thúc đẩy vụ kiện và sẽ được hưởng lợi từ bất cứ thỏa thuận dàn xếp nào. Tôi được phân công phụ trách Paramount và giúp lấy lời khai của Eisner. Tôi vẫn nhớ hôm đến gặp ông tại xưởng phim Paramount ở Hollywood. Ông sở hữu một văn phòng rộng rãi trên tầng hai, có ban công phủ bóng mát của giàn dây leo. Dù bị một đám luật sư bao vây vặn hỏi, Eisner lại có vẻ tự tin và hài hước lạ thường, ông còn pha trò bằng những câu chuyện về mối quan hệ đôi khi căng thẳng của mình với chủ tịch của Paramount, Barry Diller. Ông tháo bỏ giày và ngồi thoải mái với đôi chân chỉ mang tất – cảnh tượng tôi chưa bao giờ thấy trong bất kỳ công ty luật nào ở New York. Mặc dù ở hai phía đối lập, Eisner vẫn tặng tôi vé tham dự buổi ghi hình chương trình “Mork & Mindy” tối hôm đó. Đây là một chương trình truyền hình đình đám của Paramount vào thời đó. Lần đầu tiên tôi được xem trực tiếp một buổi ghi hình của ngôi sao hài kịch Robin Williams. Trong thời gian giải lao khi các máy quay tạm nghỉ, Williams vẫn tiếp tục những đoạn độc thoại hài hước khiến khán giả trong trường quay cười ngất cho tới tận tờ mờ sáng. Tất cả những thứ đó hẳn đã gây ấn tượng lên tôi mạnh hơn nhiều so với lên Eisner. Cuối cùng chính phủ đã từ bỏ vụ kiện. Khi tôi hỏi Eisner ông có còn nhớ tôi cũng như buổi lấy lời khai đó hay không, ông đã không thể nhớ nổi chi tiết nào. Nhiều năm đã trôi qua, từ một nhà điều hành trẻ tuổi ở Paramount, ông đã trở thành vị chủ tịch đánh kính, thành công và giàu có của Disney. Khi ông gia nhập Disney vào năm 1984, cả công ty đang rệu rã, xưởng phim hoạt hình huyền thoại gần như hấp hối, còn tài sản của nó đang bị những kẻ thâu tóm dòm ngó hòng xé nhỏ để bán đi. Eisner không chỉ cứu vãn Disney, ông còn biến nó thành công ty giải trí hàng đầu thế giới và bảo vệ thương hiệu được công chúng vô cùng yêu mến. Tôi tiếp cận Eisner để đề nghị viết một cuốn sách về công ty vào năm 2001. Kể từ khi tham gia vào vụ kiện chống độc quyền chống lại các kênh truyền hình, ngành kinh doanh giải trí và Hollywood đã hấp dẫn tôi. Từng viết nhiều cuốn sách về thế giới tài chính phố Wall hay thế giới chính trị Washington, Hollywood dường như là trung tâm quyền lực và ảnh hưởng tiếp theo xứng đáng để tôi khai thác. Và với hình ảnh luôn được ngợi ca, những thành công nghệ thuật, chưa kể đến khá nhiều diễn biến kịch tính trong hoạt động kinh doanh thì dường như Disney là lựa chọn rõ ràng đối với tôi. Có thể đoán ngay là Eisner không hề hào hứng với ý tưởng đó. John Dreyer, khi đó là giám đốc quan hệ công chúng của Disney, thì lịch sự tiếp đón tôi nhưng không hề khuyến khích ý tưởng có một cuốn sách về Disney. Mặc dù vậy, khi tôi tiếp tục thu thập thông tin, Dreyer đã mời tôi tới gặp ông tại trụ sở của Disney ở Burbank. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Disney của tác giả James B. Stewart.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đặt Tên Thương Hiệu Chuyên Nghiệp
Đại thi hào Shakespeare đã từng viết “hoa hồng dù gọi bằng tên gọi nào thì vẫn đẹp và ngát hương”. Thế nhưng, trong thực tế quan niệm “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” đã không còn phản ánh đúng hiện thực thế giới mà chúng ta đang sống. Ngày nay, chúng ta có quá nhiều sự lựa chọn để thỏa mãn một nhu cầu. Hãy tưởng tượng khi nước vào một siêu thị hàng hóa hiện đại, bạn có thể bắt gặp tới 17.000 mặt hàng khác nhau, cũng có nghĩa bạn phải đối mặt với 17.000 cái tên khác. Có bao nhiêu cái tên bạn có thể nhớ được? Trong thực tế, mỗi cái tên đều phải tìm cách để được lưu lại trong bộ nhớ của khách hàng. Để làm được điều đó, doanh nghiệp cần rất nhiều nỗ lực khác nhau. Nhưng những nỗ lực đó sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu tên thương hiệu dễ nhớ và hấp dẫn. Ngược lại, nỗ lực để khách hàng nhớ đến thương hiệu của mình sẽ vô cùng khó khăn nếu doanh nghiệp bạn đang có một cái tên không thể đọc được hoặc mang ý nghĩa tiêu cực. Thương hiệu ngày càng trở thành tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Để trở nên có giá trị bản thân thương hiệu phải luôn là cầu nối liên kết giữa những gì nó đại diện và khách hàng. Thương hiệu cần phải dễ nhớ, dễ nhận biết, gây được sự quan tâm, khơi gợi cảm xúc ... bản thân tên gọi và hệ thống nhận diện thương hiệu đã làm lên phần lớn bản sắc thương hiệu đó. Cuốn sách này bàn về việc đặt tên thương hiệu. Nó giúp hình dung chính xác về vai trò và tầm quan trọng của việc có một tên thương hiệu hấp dẫn, cung cấp các kiến thức, kinh nghiệm, quy trình, công cụ giúp cho việc đặt tên của doanh nghiệp trở nên dễ dàng và hiệu quả. Cuốn sách được biên soạn trên cơ sở nghiên cứu về quá trình sáng tạo thương hiệu trong và ngoài nước, các kinh nghiệm đã được đúc kết của thế giới cũng như những kinh nghiệm, tình huống thực tế trong quá trình thực hiện các dự án sáng tạo thương hiệu của tác giả. Chúng tôi trân trọng mọi ý kiến đóng góp để cuốn sách được hoàn thiện hơn. Trân trọng, Tác giả Nguyễn Tuấn Hùng, Chuyên gia tư vấn thương hiệu Công ty TNHH Tư vấn và Sáng tạo Thương hiệu Sao Kim *** THƯƠNG HIỆU VÀ TÊN THƯƠNG HIỆU Nhiều người trong chúng ta có thể dễ bị nhầm lẫn giữa thương hiệu và tên thương hiệu, ngay cả những người làm marketing chuyên nghiệp đôi khi cũng khó phân biệt điều này. Khi chúng ta nhắc đến “Coca-cola” chúng ta nghĩ rằng cái tên đó chính là thương hiệu Coca-cola. Vậy giữa thương hiệu và cái tên có sự phân biệt như thế nào? • Một cách ngắn gọn, thương hiệu là tập hợp những trải nghiệm và mong muốn gắn với một sản phẩm, một doanh nghiệp hay một tổ chức trong tâm trí của khách hàng. Như vậy khái niệm này cho thấy thương hiệu không phải là một thứ hữu hình mà nó nằm trong tâm trí khách hàng, nó gắn bó với những trải nghiệm, cảm xúc ... những thứ giúp người ta liên tưởng đến một sản phẩm hay tổ chức. • Còn tên thương hiệu thì sao? Rất đơn giản nó chính là ... một cái tên. Tức là được cấu tạo bởi các ký tự, cách phát âm, cách viết ... Tên thương hiệu, cùng với logo, slogan, nhận diện thương hiệu là những thành phần cơ bản giúp khách hàng tạo được liên tưởng về thương hiệu. Tên thương hiệu là một cầu nối giữa thương hiệu và tâm trí khách hàng. Để hình dung rõ điều này, tôi sẽ lấy Apple làm một ví dụ. Khi nhắc đến thương hiệu Apple chúng ta nghĩ đến điều gì? Có phải đó là Ipod, Iphone, Ipad, Mac hay Macbook ... những sản phẩm công nghệ hoàn hảo và luôn dẫn đầu xu thế thời trang? Một số khác có lẽ nghĩ đến Steve Job – CEO đầy sáng tạo, thông minh nhưng là người cứng rắn và cầu toàn. Tất cả những hình dung đó của chúng ta giúp tạo nên thương hiệu Apple.   *** Cuốn Ebook đặt tên thương hiệu chuyên nghiệp với nội dung ngắn gọn gần 70 trang sẽ cung cấp cho bạn các kiến thức, kinh nghiệm và công cụ tốt nhất để đặt tên thương hiệu, tên công ty một cách hấp dẫn và hiệu quả. Ebook do Tác giả Nguyễn Tuấn Hùng, Công ty Tư vấn và Sáng tạo thương hiệu Sao Kim biên soạn và giới thiệu. Tên thương hiệu là một hạng mục bạn cần làm đúng ngay từ đầu. Hãy đầu tư ở giai đoạn đầu tiên hơn là bạn phải chỉnh sửa sau khi đã đi vào hoạt động. Thời đại kinh doanh với tốc độ vũ bão và những kế hoạch tấn công nhanh chóng của các đối thủ khi bạn mắc sai lầm, bạn dễ dàng trở thành người theo sau nếu như không có những bước đi đầu tiên chuẩn xác. Đây là lý do bạn cần phải có một cái tên chuyên nghiệp ngay trước khi bạn đăng ký kinh doanh.   Cái tên có thể làm nên một thương hiệu mạnh hoặc có thể làm tiêu tan doanh nghiệp bạn. Do vậy mà sở hữu một tên thương hiệu hấp dẫn chính là một tài sản to lớn giúp bạn thực hiện các nỗ lực marketing một cách tự động (chỉ thông qua cái tên!).  Trong lần trước, tôi đã chia sẻ chủ đề 7 cách đặt tên công ty phổ biến nhất, để tiếp tục loạt bài này, hôm nay tôi xin được chia sẻ 10 kiểu đặt tên thương hiệu phổ biến, ví dụ, ưu và nhược điểm của từng kiểu đặt tên.  Lựa chọn tên thương hiệu hấp dẫn không chỉ giúp cho các nỗ lực truyền thông của bạn dễ dàng và hiệu quả hơn mà hơn thế nữa một tên thương hiệu hấp dẫn cũng sẽ đóng góp không nhỏ để biến thương hiệu thành một tài sản có giá trị Mời các bạn đón đọc Đặt Tên Thương Hiệu Chuyên Nghiệp của tác giả Nguyễn Tuấn Hùng.
50 Công Ty Làm Thay Đổi Thế Giới
Một quyển sách tuyệt vời dành cho tất cả những ai quan tâm đến những thay đổi sâu sắc mà các công ty hàng đầu thế giới đã tạo ra đối với cuộc sống và diện mạo hành tinh chúng ta. 50 Công ty làm thay đổi thế giới chỉ ra những bí quyết mà các công ty lớn nhất mọi thời đại đã từng sử dụng để đi đến thành công. Đây là những công ty có bước đi đột phá, tạo ra xu hướng mới mẻ qua việc áp dụng các phương pháp quản trị kinh doanh hiệu quả và luôn kích thích sự sáng tạo. 50 Công ty làm thay đổi thế giới là một quyển sách thực sự giá trị cho những người đang và sẽ giữ vị trí điều hành doanh nghiệp vì những bài học quý giá mà nó chứa đựng bên trong. Cuốn sách cũng mang lại rất nhiều điều bổ ích và thú vị cho những ai ham mê nghiên cứu lịch sử và yêu thích những câu chuyện đầy cảm hứng về tài năng, sự sáng tạo và tinh thần làm việc hiệu quả của những con người kiệt xuất. Làm thế nào 50 công ty này có thể thay đổi thế giới? Bạn sẽ được cung cấp thông tin về cấu trúc tổng thể của ngành kinh doanh cùng với cấu trúc xã hội trong vài thập kỷ gần đây để tìm ra câu trả lời. Bạn sẽ gặp gỡ những con người có tầm nhìn rộng, ý chí mạnh mẽ, lòng can đảm không giới hạn và sự tận tâm tuyệt đối trong công việc. Họ là những người luôn nỗ lực hết mình để tìm ra ý tưởng mới và dẫn dắt công ty của họ đi đến thành công. Chính xác hơn, họ chính là nguồn sức mạnh thực sự làm thay đổi thế giới mà chúng ta đang sống. ***   Mời các bạn đón đọc 50 Công Ty Làm Thay Đổi Thế Giới của tác giả Howard Rothman.
Bí Quyết Kinh Doanh Của Người Do Thái
Có lẽ bạn đã từng nghe nói: khi một ông chủ ngân hàng lớn người Do Thái “ho hắng” một tiếng, toàn bộ các ngân hàng trên thế giới sẽ bị “cảm cúm” ngay; hay: năm tập đoàn tài chính lớn của người Do Thái liên hợp lại có thể khống chế toàn bộ thị trường vàng thế giới. Không phải vô cớ mà người Do Thái được ca tụng như vậy. Hơn 2000 năm sống phiêu bạt khắp nơi, bị xua đuổi và chà đạp, người Do Thái đã tích lũy cho mình rất nhiều hiểu biết về thương trường thế giới. Đó là viên đá đầu tiên đặt nền tảng cho những thành công rực rỡ sau này của họ. Dân tộc Do Thái nổi tiếng thế giới với tài kinh doanh độc đáo của mình. Họ luôn tuân thủ pháp luật nhưng lại sẵn sàng lách luật, luôn giữ chữ tín và đề cao trí tuệ trong kinh doanh... Tất cả như được hệ thống hóa thành bí quyết giúp người Do Thái được đánh giá là “thương nhân số một thế giới”. *** Người Do Thái luôn được đánh giá cao về tư duy làm giàu độc đáo. Họ sớm hình thành những "quy tắc ngầm" trong kinh doanh cũng như lối sống, truyền qua nhiều thế hệ. Dưới đây là 12 nguyên tắc cốt lõi về việc kiếm tiền của họ. 1. Phục vụ phụ nữ Để kiếm tiền, mục tiêu đầu tiên của người Do Thái nhắm tới là phụ nữ, bởi đây là "tay hòm chìa khóa" trong gia đình. Từ trước tới nay, nhiệm vụ của nam giới là kiếm tiền, mà kiếm tiền không có nghĩa là sẽ giữ tiền trong tay. Quyền chi tiền phần lớn vẫn do phụ nữ quyết định. Phụ nữ không chỉ mua sắm kim cương, trang sức, vàng bạc để tích luỹ, họ còn là người mua sắm các vật dụng thường ngày hay lo toan các công việc gia đình. Nhắm trúng đối tượng này, tiền của nhất định sẽ tới. 2. Đi khắp nơi kiếm tiền Đi mọi nơi kiếm tiền là đặc điểm tự nhiên của người Do Thái. Những thương nhân Do Thái ít có thị trường cố định mà mở rộng khắp nơi khi bản thân đủ tiềm lực. Họ không ngại khó, ngại khổ khi đi từ Đông sang Tây, xuống Nam ngược Bắc để kiếm tiền cũng như mở rộng thị trường. Ở đâu họ cũng thực hiện các giao dịch lớn nhỏ. Bởi vậy để làm giàu, không thể ngồi một chỗ mà phải chạy khắp nơi, đúng như câu nói ''làm ăn tứ phương, kiếm tiền tứ hướng''. Người Do Thái vốn nổi tiếng thế giới về những quy tắc làm giàu độc đáo. Ảnh minh họa: qq Người Do Thái vốn nổi tiếng thế giới về những quy tắc làm giàu độc đáo. Ảnh minh họa: qq 3. Quy tắc 78/22 Người Do Thái chỉ ra, trong xã hội, tỷ lệ người bình thường và người có tiền khoảng 78/22, nghĩa là 22% người có tiền chiếm tới 78% khối lượng tài sản. Bởi vậy, chỉ cần biết kiếm tiền từ những người có tiền. Quy tắc 78/22 còn là một quy luật tự nhiên, ví dụ 22% các ngành như quần áo, ăn uống, xây dựng, đồ trang sức, y tế... về cơ bản chiếm khoảng 78% phí tiêu dùng sinh hoạt. Vì thế, các lĩnh vực kinh doanh truyền thống của người Do Thái đa số đều tập trung vào ăn uống, quần áo... đặc biệt là các sản phẩm dành cho phụ nữ và trẻ em. 4. Phục vụ cái miệng Người Do Thái cho rằng kinh doanh nên nhắm vào nhu cầu ăn uống của mọi người, bởi ăn là một trong những nhu cầu cơ bản nhất. Thu nhập bình quân đầu người tăng, người tiêu dùng sẽ khắt khe và dành nhiều thời gian hơn trong việc làm hài lòng khẩu vị của mình. Vì vậy, kinh doanh ăn uống không bao giờ lỗi thời. 5. Sử dụng trí tuệ để kiếm tiền Người Do Thái luôn cho rằng, sự thông minh có thể kiếm ra tiền mới là thông minh thực sự. Theo cách này, tiền đã trở thành thước đo của trí tuệ, chỉ khi trí tuệ được chuyển hóa thành tiền thì mới là trí tuệ sống. Bởi vậy, người kinh doanh cần dùng trí tuệ để suy nghĩ và phân tích hành vi người tiêu dùng. Chỉ khi hiểu được nhu cầu của khách hàng, mới có thể làm ra những sản phẩm đáp ứng yêu cầu và có thể tồn tại trên thị trường. 6. Tăng doanh thu quan trọng hơn tiết kiệm Những thương nhân Do Thái có một niềm tin không thể lay chuyển: Của cải là do bỏ mồ hôi công sức tạo ra, chứ không phải là tiết kiệm, tích góp mà có. Vì thế, muốn thu được lợi nhuận cao, phải sẵn sàng đầu tư mạnh mẽ. 7. Trân trọng thời gian như vàng bạc Trong châm ngôn kinh doanh của người Do Thái có câu: "Đừng đánh cắp thời gian". Nội dung không chỉ liên quan đến kiếm tiền mà còn nhắc nhở cách hành xử đúng đắn khi kinh doanh. Ở một tầng ý nghĩa khác, câu nói này khuyên bạn nắm chắc từng phút từng giây mới có thể giành được cơ hội. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, ai chậm chân người đó sẽ mất cơ hội. Để thành công, luôn phải đi trước một bước, chủ động và không ngừng đổi mới để nắm bắt được cơ hội đến với mình. 8. Tận dụng thông tin nắm bắt cơ hội Người Do Thái vốn nổi tiếng trong việc thu thập thông tin trong kinh doanh. Đây được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Một khi có trong tay thông tin về cơ hội kiếm tiền, họ sẽ không bỏ lỡ. Ví dụ trong một trung tâm thương mại khi các doanh nghiệp có cơ hội ngang nhau, với cùng điều kiện như nhau, nếu ai biết nắm bắt cơ hội người đó sẽ chiến thắng. Điều này cũng có nghĩa nên chủ động tìm hiểu và phân tích thị trường, không nên ỷ lại, rơi vào thế bị động. 9. Đặt uy tín lên hàng đầu Trong kinh doanh, người Do Thái nổi tiếng biết trọng chữ tín. Một khi đã ký hợp đồng, dù việc gì xảy ra, họ quyết không nuốt lời. Họ cũng luôn tuân thủ quy luật của cuộc chơi, thiết lập mối quan hệ cộng sự đáng tin cậy với đối tác, dùng sự chân thành lay động trái tim khách hàng khi muốn công việc thuận lợi, suôn sẻ. 10. Đứng ở trên cao mới nhìn thấy được xa Người Do Thái cho rằng trong kinh doanh nên "cố gắng nhìn thêm vài bước", sự phát triển trong tương lai mà bạn có thể nghĩ đến là bao nhiêu, thì thành công sẽ có được bấy nhiêu. "Chân không thể chạm đến, thì mắt phải thấy được. Mắt không thể thấy được, thì tim phải cảm nhận được." Dù vậy làm gì, cũng phải có những bước đi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Bước trước một bước, mới có thể dẫn dắt và tạo ra nhu cầu của thị trường. 11. Phối hợp tốt các nguồn lực Nhà kinh tế học người Do Thái William Rigson đã nói, bạn có thể vay mọi thứ từ tiền, tài năng, công nghệ cho đến tri thức. Thế giới này đã chuẩn bị tất cả các nguồn lực bạn cần, tất cả những gì bạn phải làm là thu thập và sử dụng trí tuệ để kết hợp chúng và tạo ra sản phẩm của riêng mình. 12. Đàm phán tạo ra giá trị Một câu chuyện kinh điển được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng người Do Thái: Có người cho hai đứa trẻ một quả cam, vì chia chác mà chúng cãi nhau. Thấy vậy người cho đề xuất, bổ đôi cho mỗi đứa một nửa. Đứa trẻ thứ nhất về nhà, vứt các múi cam đi, đem vỏ nghiền nát rồi trộn vào bột mì nướng bánh ăn. Đứa trẻ còn lại thì lấy múi cam ép thành nước uống, vứt vỏ vào thùng rác. Mặc dù hai đứa trẻ đều có nửa quả cam, nhưng chúng đã không tận dụng hết nguyên liệu của mình nên không đạt được lợi ích lớn nhất. Trong kinh doanh, phải đối mặt với rất nhiều cuộc đàm phán. Lúc này, nên tăng cường giao tiếp để gây dựng thiện cảm với đối tác, và cùng nhau làm việc để ra được kết quả đôi bên cùng có lợi. *** Năm 1997, George Soros đã khiến cuộc khủng hoảng tiền tệ bùng phát tại Đông Nam Á, thu vào cho mình những khoản tiền khổng lồ. George Soros trở thành Thượng đế của chính mình, nhưng lại là kẻ thù của các quốc gia Đông Nam Á. Ông là một người Mỹ gốc Do Thái. Có thể nói, Do Thái là một trong những dân tộc thông minh nhất trên thế giới. Họ đã cống hiến cho nhân loại những bộ óc vĩ đại nhất trong các lĩnh vực từ khoa học xã hội cho đến khoa học tự nhiên như Karl Marx, Einstein... Do Thái còn là dân tộc giàu có nhất trên thế giới, trong đó các gương mặt tiêu biểu như là George Soros, Warren Buffett... Từ những người nắm giữ bánh lái con thuyền kinh tế Mỹ như Ellen, Greenspan, Morgan, Rockefeller, Michael Hammer cho đến những người hoạt động trong lĩnh vực giải trí như Reuters, Pilates, anh em nhà Warner... đều tài ba mưu lược hơn người. Chẳng lạ khi có người đã nói một cách châm biếm: “Ba thương nhân Do Thải hắt hơi trong nhà, hệ thống ngàn hàng trên toàn thế giới đều sẽ bị cảm dây chuyền; năm thương nhân Do Thái kết hợp với nhau, có thể khống chế toàn bộ thị trường vàng bạc thế giới”. Có thể thấy, thành công của người Do Thái có sức ảnh hưởng vô cùng lớn không chỉ với nền kinh tế mà với cả nền chính trị thế giới trong thời đại ngày nay. Dân tộc Do Thái vốn có những truyền thống ưu việt như trọng chữ tín, quý trọng thời gian, có cái nhìn thoáng về tiền bạc... Bên cạnh đó, còn phải kể đến những ảnh hưởng từ lịch sử đau thương của một dân tộc thần thánh đã giúp người Do Thái biết nhiều về thị trường thế giới, cũng chính từ đó mà họ đã bắt đầu theo đuổi hoạt động đầu cơ và cho vay. Tất cả những yếu tố trên đã giúp thương nhân Do Thái trở thành “thương nhân hàng đầu thế giới”. Nhưng điều quan trọng hơn cả là dân tộc Do Thái luôn không ngừng học tập, không ngừng sáng tạo. Dùng trí tuệ tạo nên của cải chính là đặc trưng lớn nhất của thương nhân Do Thái. Họ chính là tấm gương sáng đáng để chúng ta noi theo. Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Kinh Doanh Của Người Do Thái của tác giả Tri Thức Việt.
Sức Mạnh Của Sự Khích Lệ
   Điều gì khiến ta quan tâm nhiều nhất trong cuộc sống, công việc và những mối quan hệ với người khác? Chúng ta luôn mong muốn có được những kết quả tốt nhất, thế nhưng, chúng ta lại thường có thói quen chỉ chú ý đến những khuyết điểm hơn là ưu điểm và mặt tích cực. Và chúng ta cũng có khuynh hướng chỉ trích, phê bình hơn là động viên, khích lệ. Nếu thế, những mối quan hệ của chúng ta sẽ như thế nào? Chắc chắn sẽ trở nên xấu đi!        Trong những lúc chúng ta phải đối mặt với thất bại, lo lắng, bế tắc trong công việc, cuộc sống thì chính sự khích lệ, cảm thông sẽ là nguồn động viên lớn lao tiếp thêm nhiệt tình để chúng ta vượt qua những khó khăn mà tiếp tục theo đuổi mục tiêu. Tiến sĩ Ken Blanchard đã rút ra được kinh nghiệm quí báu đó khi làm việc với những người huấn luyện cá voi ở Công viên Thế giới Đại dương (Orlando, Florida) để rồi chia sẻ với bạn đọc trong cuốn sách nổi tiếng đầy cảm hứng và thú vị Whale Done! - Sức mạnh của sự Khích lệ.       Trong tác phẩm Whale Done! - Sức mạnh của sự Khích lệ, Ken Blanchard đã đưa ra phương pháp khích lệ những mặt tích cực để định hướng những hành vi chưa tốt của người khác. Để tăng hiệu quả công việc cũng như cải thiện các mối quan hệ, thay vì tạo ra những tình huống tiêu cực làm tinh thần người khác suy giảm, ông đã phát hiện ra phương pháp khích lệ, động viên con người phát huy khả năng, ý chí và sự tích cực trong ngôn từ, thái độ, hành vi.         Bằng những nghiên cứu, trải nghiệm và quá trình thâm nhập thực tế trong suốt mười năm, tác giả đã đúc kết nên những kinh nghiệm quý báu và hữu ích: “Nếu ta mở lòng với mọi người bằng một thái độ sống tích cực thì ta sẽ nhận lại được những kết quả tích cực”, “Hãy nghĩ và đối xử với người khác theo cách mình muốn họ trở thành” v.v... ***  Thông qua câu chuyên thú vị có thật vê viêc huấn luyền cá voi, cuốn sách của Tiến sĩ Ken Blanchard có giá trị như một bài học sâu sắc và là bí quyết để thành công trong công vỉêc và các mối quan hê gia đình. Khi bạn đối xử với một người theo cách như thế nào thì họ sẽ có khuynh hướng trở thành người như vậy.    Sự khích lê và công nhận những mặt tích cực của người khác sẽ là nguồn động viên to lớn có sức mạnh diệu kỳ hơn là chỉ để ý vào những sai sót, lỗi lầm... *** REVIEW SÁCH Review sách Sức mạnh của sự khích lệ - Ken Blanchard, Ph.D Whale done! Sức mạnh của sự khích lệ đem đến một góc nhìn mới về giao tiếp. Thông qua câu chuyện thú vị có thật về việc huấn luyện cá voi, cuốn sách Sức mạnh của sự khích lệ có giá trị như một bài học sâu sắc và là bí quyết để thành công trong công việc và các mối quan hệ gia đình. Khi bạn đối xử với một người theo cách như thế nào thì họ sẽ có khuynh hướng trở thành người như vậy. *** Vài nét về Ken Blanchard Ken Blanchard là người sáng lập và là tổng giám đốc của Ken Blanchard Companies. Ông là một trong những tác giả, diễn giả chuyên nghiên cứu về thái độ sống của con người, đồng thời là nhà tư vấn tâm lý - quản trị kinh doanh hàng đầu thế giới. Những ý niệm sâu sắc, khác biệt của Ken Blanchard đã tạo ra ảnh hưởng rất lớn trong lĩnh vực tư vấn và quản lý. Ông là tác giả của hơn 30 cuốn sách thuộc loại bán chạy. Những quyển sách của ông đã bán trên 12 triệu bản và được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ, phần lớn trong số đó đã trở thành sách gối đầu của bạn đọc trên khắp thế giới. Bạn đọc có thể tham khảo thêm các cuốn sách của Ken Blanchard: Lãnh đạo phục vụ, Vị giám đốc một phút,… Về cuốn sách Whale done! Sức mạnh của sự khích lệ Ken Blanchard đã đưa ra phương pháp khích lệ những mặt tích cực để định hướng những hành vi chưa tốt của người khác. Để tăng hiệu quả công việc cũng như cải thiện các mối quan hệ, thay vì tạo ra những tình huống tiêu cực làm tinh thần người khác suy giảm, ông đã phát hiện ra phương pháp khích lệ và sự tích cực trong ngôn từ, thái độ, hành vi. Bằng những nghiên cứu, trải nghiệm và quá trình thâm nhập thực tế trong suốt mười năm, tác giả đã đúc kết nên những kinh nghiệm quý báu và hữu ích: “Nếu ta mở lòng với mọi người bằng một thái độ sống tích cực thì ta sẽ nhận lại được những kết quả tích cực”, “Hãy nghĩ và đối xử với người khác theo cách mình muốn họ trở thành” Cảm nhận về sách Cảm xúc là thứ khó hiểu và khó kiểm soát nhất và mỗi một lời nói của bạn khi giao tiếp có thể khiến đối phương bị ảnh hưởng tiêu cực và ngược lại là những lời động viên, khích lệ sẽ tiếp thêm động lực để họ có thể sửa chữa sai lầm hay phát triển bản thân tốt hơn nữa. Phản hồi Khích lệ bao gồm 4 bước sau đây: Khích lệ kịp thời. Hãy phân tích cụ thể về những gì người khác thực hiện đúng hay gần đúng. Hãy nói ra những cảm xúc tích cực mà mình cảm nhận được về những gì người khác thực hiện đúng. Khuyến khích, động viên họ tiếp tục thực hiện tốt như thế. Hãy động viên, khích lệ người khác theo cách họ mong đợi, chứ không phải theo cách chúng ta muốn Chúng ta cần xây dựng lòng tin và chỉ nên tập trung vào những khía cạnh tích cực Những hành động tích cực luôn bắt nguồn từ những suy nghĩ tốt đẹp, tác động tích cực. Con người có dũng khí để chinh phục mọi thử thách, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc bởi chúng ta có niềm tin mãnh liệt vào hành động của chính mình. Hãy chú ý đến những khía cạnh tích cực, dành tặng những lời khuyến khích, động viên đến những người xung quanh bạn để họ luôn có động lực để hoàn thành những mong muốn của mình. Hãy động viên, khích lệ người khác theo cách họ mong đợi, chứ không phải theo cách chúng ta muốn “Nếu ta mở lòng với mọi người bằng một thái độ sống tích cực thì ta sẽ nhận được những kết quả tích cực” Hãy để việc cổ vũ, động viên mọi người đến từ sự tôn trọng và thấu hiểu đối phương của bạn. Mở lòng hơn để khích lệ họ theo cách họ mong đợi chứ đừng đặt nặng suy nghĩ, lối sống áp đặt của bạn lên suy nghĩ của người khác. Niềm tin của mỗi người một khác, giúp họ duy trì ngọn lửa bên trong để luôn tỏa sáng là một thái độ sống đúng đắn bạn có thể trao đến mọi người. Tôn trọng cách suy nghĩ, quy tắc sống của mọi người là điều căn bản đầu tiên bạn có thể làm nếu muốn động viên họ. Phản hồi chuyển hướng Mô tả sai phạm một cách rõ ràng ngay khi nó vừa xảy ra, đồng thời tránh không đổ lỗi cho người khác. Chỉ ra những tác động tiêu cực của sai phạm đó. Nếu lỗi mà nhân viên của bạn gây ra là do thiếu thông tin, hãy nhận lỗi cùng họ vì đã không hướng dẫn công việc rõ ràng từ đầu. Hãy giải thích lại công việc cần thực hiện thật chi tiết và kiểm tra xem người nghe có hiểu mọi điều không. Hãy tỏ ra và nói cho người đó biết bạn vẫn luôn tin tưởng vào anh ta. Phản hồi chuyển hướng mang những thông điệp đến nhà lãnh đạo. Thay đổi cách chúng ta trình bày, phân tích mọi chuyện theo hướng tích cực cũng khiến nhân viên sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, có động lực sửa chữa. Mọi sự im lặng, khiển trách khiến đối phương bẽ mặt đều gây ra cảm xúc tiêu cực, ảnh hưởng đến lòng tự trọng của người khác. Tùy vào mỗi tình huống mà chúng ta có thể làm dịu đi những lời nói tiêu cực, sai phạm từ mọi người. Niềm tin lẫn nhau và thái độ làm việc chuyên nghiệp giúp bạn kết nối dễ dàng hơn với đồng nghiệp. Hãy luôn quan tâm và động viên người khác, ngay cả khi mọi chuyện vẫn đang tốt đẹp! Bởi vì chỉ khi người khác mắc sai lầm, khó khăn chúng ta mới quan tâm đến họ hơn nhưng hãy thể hiện sự quan tâm, khích lệ họ ngay cả những lúc cuộc sống vẫn đang diễn ra suôn sẻ. Nguồn năng lượng sống tốt đẹp cần được chúng ta thúc đẩy mỗi ngày chứ không phải ở một dịp đặc biệt hay cụ thể nào cả. “Sự quan tâm cũng giống như tia nắng mặt trời chiếu rọi lên trái đất. Mặt trời chiếu sáng nơi đâu, sự sống nơi đó sẽ sinh sôi, phát triển”. Những câu chuyện, bài học về cách đối nhân xử thế luôn là công cụ để chúng ta hoàn thiện bản thân mỗi ngày. Thêm lời khích lệ vào sổ tay tích cực để luôn giữ năng lượng thúc đẩy chính mình cùng những người xung quanh tiến về phía trước nhé.   Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Khích Lệ của tác giả Ken Blanchard, Ph.D & Liên Nhu (dịch).