Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chữ Nôm: Nguồn gốc, Cấu tạo, Diễn biến - Đào Duy Anh

Chữ Nôm: Nguồn gốc, Cấu tạo, Diễn biến - Đào Duy Anh

Chữ Nôm là gì?

Muốn hiểu chữ Nôm, muốn đọc chữ Nôm thì điều kiện cơ bản là phải biết chữ Hán, nhưng đó là điều kiện cần thiết chứ không phải điều kiện đầy đủ. Còn phải nắm vững phương pháp cấu tạo của chữ Nôm, nắm vững tình hình diễn biến của chữ Nôm qua các đời, cùng với nguồn gốc của nó, và để nắm được những điều kiện trên thì lại cần nắm được một số quy luật ngữ âm học lịch sử về tiếng Việt Nam và tiếng Hán Việt. Do đó chúng ta cần phải nhằm những mặt ấy mà nghiên cứu chữ Nôm.

Chữ Nôm là thứ chữ dân tộc của ta đã được dùng trong gần mười thế kỷ, mãi đến gần đây, cuối thời Pháp thuộc nó mới trở thành, cũng như chữ Hán, một thứ cổ tự không được dùng trong đời sống hàng ngày nữa. Thứ cổ tự này không được dạy riêng cho nên hiện nay rất ít người biết đọc. Nhưng là chữ dân tộc, nó đã cùng với chữ Hán mang chứa một phần quan trọng văn hóa dân tộc của ta, mà hiện nay một mình Thư viện Khoa học Xã hội ở Hà Nội cũng còn giữ được đến 1186 quyển sách chữ Nôm. Trong công cuộc nghiên cứu văn hóa cổ của nước ta, nếu không biết chữ Nôm thì làm sao khai thác được cả cái vốn cổ chữ Nôm còn giữ được ở thư viện đấy và chắc là cũng còn rải rác trong dân gian?

Nghiên cứu chữ Nôm như thế nào?

Để nghiên cứu chữ Nôm một cách có hệ thống thì phải nói đến người Pháp A. Chéon là người đầu tiên. Ông soạn sách Cours de Chữ Nôm làm giáo trình dạy cho người Pháp học tiếng Việt Nam, nhưng hiện chúng tôi không có sách ấy (bản của Thư viện Khoa học Xã hội đã bị mất từ lâu, không thấy có trong số sách chúng ta tiếp quản của Viện Viễn Đông bác cổ). Kế đến các nhà học giả Trung Quốc Văn Hựu, tác giả bài "Luận về tổ chức của chữ Nôm và mối quan thiệp của nó với chữ Hán", đăng trong Yên kinh học báo kỳ 14, bài này đã được nhà học giả Nhật Bản Sơn Bản Đạt Lang giới thiệu trong Đông Dương học báo quyển 22, số 2, năm 1935. Sau nữa có nhà học giả Trung Quốc khác là Vương Lực, năm 1948 viết một bài nghiên cứu về tiếng Hán Việt, mục cuối cùng nghiên cứu về chữ Nôm đề là "Chữ Việt phỏng theo chữ Hán mà tạo thành". Hai tác phẩm sau đó chỉ nhằm giới thiệu chữ Nôm với người ngoại quốc nên chỉ là nghiên cứu về một vài khía cạnh, đặc biệt là cách cấu tạo của chữ Nôm thôi.

Người Việt Nam thì chưa ai nghiên cứu chữ Nôm được kỹ. Đại khái từ ông Nguyễn Văn Tố (năm 1930) đến ông Trần Văn Giáp (năm 1969), các nhà hoặc chỉ là nhân nghiên cứu văn học Việt Nam mà suy nghĩ về nguồn gốc chữ Nôm, hoặc chỉ mới là dẫn những tài liệu cũ mà trình bày những ý kiến khác nhau về vấn đề ấy.

Nhằm giúp đỡ các bạn thanh niên làm công tác nghiên cứu khoa học xã hội có điều kiện bước đầu để tự mình nghiên cứu chữ Nôm mà khai thác cái kho tàng sách Nôm hiện có, chúng tôi dựa vào những yêu cầu trình bày trên kia mà soạn sách Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến với một chương cuối nói về cách đọc chữ Nôm và nêu lên một số thí dụ tương đối khó đọc.

Chúng tôi lại thêm một chương Phụ lục nghiên cứu chữ Nôm Tày để đối chiếu với chữ Nôm của ta.

Đây là một cố gắng đầu tiên trong công cuộc nghiên cứu chữ Nôm của tôi, tự cảm thấy còn nhiều thiếu sót, mong các nhà học giả, nhất là các nhà ngôn ngữ học, chỉ chính.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

LỊCH AN NAM (1890) THÔNG DỤNG TRONG 6 TỈNH NAM KỲ
Kim lớn đồng hồ Tây đi giáp một vòng, kim nhỏ đi giáp một khoản, thì là một giờ Tây. Như cả kim lớn, kim nhỏ chỉ số 12, nghĩa là giờ thứ 12, thì là nhằm giữa giờ tý, giờ ngọ An-Nam, hay là tý trung, ngọ trung. Kim lớn từ số 12 cứ việc đi một vòng cho giáp lại số 12. Kim nhỏ đi lần một khoản cho tới số 1, nghĩa là giờ thứ nhứt tây, thì là đầu giờ sửu, hay là giờ mùi An-Nam. Kim lớn bắt đầu từ số 12 đi một vòng khác cũng giáp số 12, kim nhỏ đi tới một bậc cho tới số 2, nghĩa là giờ thứ 2 tây, thì nằm giữa giờ sửu, giờ mùi. Cứ việc tính làm vậy cho đến khi kim nhỏ chỉ số 11, kim lớn giáp 12, thì là đầu giờ tí, giờ ngọ, vân vân...
PHONG TỤC MIỀN NAM QUA MẤY VẦN CA DAO
Đất đai miền Nam phong thạnh, khí hậu ôn hòa, nếu không có chiến tranh thì dân Nam sống dễ dàng thong thả, không mấy khi khổ sở vì địa ách thiên tai; trên rẫy, khoai, bắp, đậu đủ ăn; dưới ruộng, dồi dào bông lúa; sông rạch, đầm ngòi, tôm cá chẳng thiếu chi. Vì vậy, ca dao miền Nam không nhắc nhở nhiều tới sự cần cù khó nhọc  chỉ năm ba câu khuyến khích sự gắng công. Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao rất giàu tình cảm  được thể hiện qua ca dao tả cảnh, tu thân, tình gia tộc, phong tục thôn quê, ngoài xã hội, những câu hát vặt…   Đất đai miền Nam phong thạnh, khí hậu ôn hòa, nếu không có chiến tranh thì dân Nam sống dễ dàng thong thả, không mấy khi khổ sở vì địa ách thiên tai; trên rẫy, khoai, bắp, đậu đủ ăn; dưới ruộng, dồi dào bông lúa; sông rạch, đầm ngòi, tôm cá chẳng thiếu chi. Vì vậy, ca dao miền Nam không nhắc nhở nhiều tới sự cần cù khó nhọc  chỉ năm ba câu khuyến khích sự gắng công.Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao rất giàu tình cảm  được thể hiện qua ca dao tả cảnh, tu thân, tình gia tộc, phong tục thôn quê, ngoài xã hội, những câu hát vặt…  
THUYẾT MẠC - AN NAM TIỂU THUYẾT (1925) - ĐINH GIA THUYẾT
Năm 1925, nhà in Mạc Đình Tứ cho xuất bản Thuyết Mạc của Thi Nham Đinh Gia Thuyết. Thuyết Mạc đã nói rõ về cội nguồn của dòng họ Mạc ở Việt Nam cũng như thể hiện quan điểm cách nhìn nhận đánh giá nhà Mạc tương đối khách quan của tác giả, tuy có một số điểm chưa chính xác về thế thứ của các vua Mạc. Năm 1925, nhà in Mạc Đình Tứ cho xuất bản Thuyết Mạc của Thi Nham Đinh Gia Thuyết. Thuyết Mạc đã nói rõ về cội nguồn của dòng họ Mạc ở Việt Nam cũng như thể hiện quan điểm cách nhìn nhận đánh giá nhà Mạc tương đối khách quan của tác giả, tuy có một số điểm chưa chính xác về thế thứ của các vua Mạc.
TRUYỆN TÍCH VIỆT NAM - LÊ HƯƠNG
Trước đây rất lâu và hiện thời đã có nhiều người sưu tầm hoặc viết lại truyện cổ Việt Nam đăng báo và in thành sách. Lẽ cổ nhiên có nhiều người biết nhiều chuyện đến thuộc lòng. Trước đây rất lâu và hiện thời đã có nhiều người sưu tầm hoặc viết lại truyện cổ Việt Nam đăng báo và in thành sách. Lẽ cổ nhiên có nhiều người biết nhiều chuyện đến thuộc lòng.Soạn quyển nầy, chúng tôi đề tựa là Truyện Tích Việt Nam vì xét rằng thành phần không phải hoàn toàn là truyện cổ đã xuất hiện không biết từ bao giờ cũng như không biết ở nơi nào. Soạn quyển nầy, chúng tôi đề tựa là Truyện Tích Việt Nam vì xét rằng thành phần không phải hoàn toàn là truyện cổ đã xuất hiện không biết từ bao giờ cũng như không biết ở nơi nào.