Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khiêu Vũ Với Bầy Sói

Đại tá John Dunbar phiêu bạt đến một bộ lạc người da đỏ và được bộ lạc cưu mang. Cuộc sống êm đềm diễn ra giữa thiên nhiên hoang dã và những con người hồn nhiên, đặc biệt tình yêu nảy nở giữa anh và một người con gái da trắng được bộ lạc này nuôi dưỡng từ nhỏ. Năm 1836, khi chiến tranh còn đang giai đoạn nóng bỏng, đại tá John Dunbar vừa thoát chết sau một cuộc giao tranh với một bên chân bị thương nặng. Các bác sĩ ở bệnh viện Union Field tại Tennessee không thể cắt bỏ nó, đau đớn đến cùng cực tưởng như không thể chịu đựng được nữa, Dunbar tuyệt vọng và suýt nữa tự tử. Đột nhiên trong lúc tuyệt vọng và lang thang ở biên giới phía tây, Dunbar bắt gặp một con sói tên là Two-Socks và bộ lạc người da đỏ Sioux. Anh được họ cưu mang và gọi tên là “Dances With Wolves”. Thời gian đầu thực sự khó hòa nhập với những người da đỏ xa lạ. Anh phải quan sát học tập theo lối sống và cách xử sự của họ, kể cả ngôn ngữ của người da đỏ. *** Bản dịch này dịch theo phong cách lược dịch thường gặp ở những bản dịch cũ trước năm 2000, tức là ở đó người dịch sẽ bỏ không dịch một số đoạn văn và ở một số đoạn văn thì trình bày và diễn giải tương đối khác với nguyên tác. Do đó nếu so sánh với nguyên tác Dances with Wolves thì bản dịch này có khác biệt sau: Không chia các chương nhỏ như trong nguyên tác; và đôi khi có vài đoạn văn được bỏ qua, không dịch. Số hoá quyển sách này với mục đích lưu trữ nên tôi chủ trương trung thành hết mức có thể với phiên bản giấy. Ở phiên bản số này tôi chỉ sửa lại các lỗi đánh máy, lỗi chính tả, lỗi dịch tên không thống nhất, và có một đoạn văn dài 1500 chữ mang thông tin quan trọng với nội dung câu chuyện nhưng không được dịch, tôi đã đề chú thích bên dưới để tóm tắt nội dung đoạn bị thiếu nhằm giúp bạn đọc dễ theo dõi mạch truyện hơn. Còn lại, tất cả thông tin của sách giấy được giữ nguyên, bao gồm cả nội dung ở trang xi-nhê và bìa sau. Bìa của phiên bản này, cũng như cách dàn trang sách đều do tôi thiết kế lại. Phần Lời giới thiệu cho phiên bản số do tôi thêm vào. Trung uý John Dunbar là kẻ đang yêu, chàng yêu vùng đất miền Tây hoang sơ và bạo liệt. Tình yêu của chàng là thứ tình yêu nhiều người khao khát mà không có, nó thuần khiết và vô tư, nó cho đi và không cần nhận lại, nó không thể giải thích được bằng lí trí. Chẳng thế mà sau một trường hợp vừa có thể gọi là anh dũng, vừa có thể gọi là may mắn khiến chàng Trung uý trẻ tuổi Dunbar lập một chiến công lẫy lừng đến mức đủ cả cho một đời binh nghiệp, đến mức chàng được tưởng thưởng và xuất ngũ ngay, thế nhưng thay vì trở về quê hương chàng lại xin đầu quân vào đồn biên phòng Sedgewick. Bởi vì chàng vừa yêu miền Tây vừa sợ biên giới phía Tây sẽ biến mất trước khi chàng kịp ngắm nó. Cũng chính vì thế nên mặc cho đồn Sedgewick đã trở thành hoang lương từ lâu trước khi Dunbar đến do toán lính cũ bỏ đi vì nản lòng với cuộc sống thiếu thốn và buồn tẻ, chàng vẫn kiên định bám đồn và tự đặt nhiệm vụ cho mình là sửa sang tôn tạo nó để chờ đến khi chính quyền lại cử toán lính khác tới. Quanh chàng chỉ có nhõn hai người bạn: người bạn vàng Cisco, con ngựa cừ khôi đã cùng chàng vượt qua kì tích thập tử nhất sinh hồi còn trong quân ngũ; và người bạn không mời mà đến, một con sói già đơn độc thường lảng vảng quanh đồn Sedgewick. Chàng cô đơn lắm, mà chàng hẵng còn trẻ trung nên nỗi cô đơn càng thêm bứt rứt. Chàng cần bạn bè, cần đồng đội, và cần đàn bà. Đang lúc những đồng đội da trắng của chàng chưa đến và không biết bao giờ mới đến, thì chàng gặp những người da đỏ. Sau nhiều gặp gỡ và giao tiếp đầy khó khăn vì khác biệt ngôn ngữ, Dunbar nhận ra những người da đỏ thật khác xa với tuyên truyền của chính quyền. Nhưng 5 dù sao chàng vẫn là người da trắng, cuối cùng chàng vẫn phải đứng giữa lựa chọn vì tổ quốc hay vì hạnh phúc cá nhân. Và tuy chàng có chọn gì đi nữa, lựa chọn ấy ắt hẳn là lựa chọn mà theo lời của một người bạn quý đã từng nhận xét về chàng: lựa chọn để được đi trên “con đường của con người chân chính”. 24/1/2021 TORNAD Trung úy Dunbar chưa đến nỗi bị choáng ngợp. Đó là ý nghĩ đầu tiên bật ra trong đầu óc chàng. Mọi thứ xung quanh đều mênh mông. Bầu trời bao la không một gợn mây. Cả một thảo nguyên rập rờn bất tận. Ngoài ra không còn thứ gì khác, không có thứ gì lưu giữ tầm mắt của chàng. Không hề thấy một con đường. Thậm chí không một vết bánh xe khả dĩ đưa cỗ xe ngựa to lớn của chàng lần theo. Hoàn toàn chỉ là một khoảng trống bao la. Chàng cảm thấy lạc lõng. Điều đó khiến trái tim chàng rộn ràng một cách kỳ lạ và sâu sắc. Trong lúc ngồi trên tấm ghế phẳng lỳ lộ thiên, để mặc cho thân thể lắc lư dọc theo đám cỏ, ý nghĩ của Trung úy Dunbar tập trung vào trái tim đang đập rộn rã. Nhưng dòng máu của chàng lại không chảy mạnh. Máu của chàng vẫn bình thản. Tình trạng trái ngược ấy giúp trí óc chàng hoạt động đầy thích thú. Các từ ngữ liên tục quay cuồng trong đầu và chàng cố thử tách bạch ra xem câu nào, chữ nào thể hiện đúng cảm giác của chàng lúc này nhưng không nổi. Sang ngày thứ ba chàng bỗng chộp được một câu: “Thật là linh thiêng!” và câu đó có vẻ chính xác hơn cả. Khốn nỗi Trung úy Dunbar chưa hề theo tín ngưỡng nào bao giờ nên tuy câu đó có vẻ chính xác, chàng vốn hoàn toàn không biết dùng nó để làm gì. Nếu như bị câu đó ám ảnh nhiều, có lẽ Trung úy Dunbar cũng thử phân tích xem sao. Nhưng đầu óc mơ màng, chàng quên ngay câu ấy đi. Trung úy Dunbar trở thành kẻ si tình. Chàng phải lòng cái xứ sở hoang vu tuyệt đẹp cùng mọi thứ chứa đựng trong đó. Đấy là loại tình yêu bất cứ ai cũng khao khát được có đối với một người khác: một tình yêu vị tha và tuyệt đối tin tưởng, một tình cảm tôn sùng và bất biến. Tinh thần chàng phấn chấn và trái tim chàng rộn ràng. Phải chăng đó chính là nguyên do khiến chàng trung úy kỵ binh đẹp trai và tâm hồn cao thượng thoáng nghĩ đến tôn giáo. Chàng liếc mắt sang bên và thấy bác đánh xe Timmons đang nghiêng đầu ra ngoài thành xe nhổ nước bọt đến lần thứ một ngàn xuống đám cỏ mọc cao ngang lưng. Bác nhổ liên tục đến nỗi đờm dãi bắn ra thành một dòng dính liền nhau, chỉ chốc chốc mới đứt quãng khiến bác ta phải lấy tay quệt ngang miệng. Dunbar không nói gì nhưng thấy Timmons khạc nhổ liên tục như thế chàng bất giác co rúm người lại. Cử chỉ của bác ta là vô hại nhưng làm chàng ghê tởm, giống như lúc nào cũng phải nhìn một người xỉ mũi. Họ ngồi cạnh nhau suốt buổi sáng. Mặc dù chỉ cách nhau hai bước chân nhưng vì gió thổi từ phía Dunbar sang nên chàng không ngửi thấy mùi nồng nặc của bác Timmons. Trong gần ba chục năm sống trong cõi đời, chàng đã phải ngửi quá nhiều mùi chết chóc và không thứ mùi gì khó ngửi hơn thế. Nhưng xác chết nào cũng chỉ một lúc sau đã được đem đi chôn hoặc bản thân chàng Michael Blake rời xa nó, nhưng với bác Timmons này thì chàng không có cách nào thoát được. Khi gió đổi chiều, mùi hôi thối từ người bác ta bay sang, trùm lên Dunbar như một đám mây ô uế vô hình. Nghĩ đến đây chàng ngoái lại nhìn con ngựa Cisco đang chạy lóc cóc đằng sau cỗ xe, khoan khoái vục mõm vào chiếc bị đựng thóc. Bộ da màu nâu như da nai của nó ánh lên dưới nắng. Dunbar mỉm cười nhìn con ngựa và bỗng mong muốn loài ngựa cũng sống lâu được như loài người. Con Cisco này may lắm cũng chỉ sống được khoảng mười, mười hai năm nữa. Tất nhiên sau đó chàng sẽ cưỡi những con ngựa khác, nhưng chắc chắn là không có con ngựa nào sánh được với Cisco. Trong lúc Dunbar nhìn, con ngựa bé nhỏ ngước cặp mắt màu hổ phách lên như thể dò tìm xem chàng trung úy của nó lúc này đang ở đâu và làm gì. Đến khi thấy chủ, nó yên tâm lại vục đầu vào trong bị thóc. Dunbar điều chỉnh lại thế ngồi rồi thọc tay vào túi tấm áo choàng sĩ quan, lấy ra một tờ giấy gấp tư. Chàng giữ gìn rất cẩn thận tờ giấy này bởi đó là bản quyết định, trong có ghi tất cả những mệnh lệnh quân sự chàng phải thực hiện. Từ lúc rời khỏi căn cứ Fort Hays chàng đã đưa cặp mắt màu sẫm và không đồng tử lướt trên mặt giấy sáu bảy lần, nhưng nghiên cứu mãi nó chàng vẫn chưa cảm thấy yên tâm thêm chút nào. Trong bản quyết định, tên họ chàng bị ghi sai đến hai lần. Ông thiếu tá hơi thở nồng nặc mùi rượu ký vào dưới tờ giấy đã vụng về quệt ống tay áo lên nét chữ chưa khô mực và chữ ký của ông ta bị nhòe nhoẹt. Tờ quyết định lại quên không ghi ngày tháng cho nên Trung úy Dunbar đành phải điền thêm lúc chàng đã trên đường đi. Nhưng chàng điền bằng bút chì và nét chữ đè lên vết mực nhòe của ông thiếu tá, lẫn cả vào hàng chữ tiêu đề in sẵn trên tờ quyết định. Trung úy liếc nhìn bản quân lệnh. Trông nó giống như một tờ giấy lộn nhiều hơn. Bản quân lệnh làm chàng nhớ lại do đâu mà có nó và chàng càng thấy bối rối hơn. Chàng bực dọc nhớ lại cuộc tiếp xúc với vị thiếu tá thở ra toàn mùi rượu ấy. Do tha thiết muốn được sớm nhận nhiệm vụ, khi bước chân ra khỏi tàu hoả, chàng đã đi thẳng một mạch đến ban chỉ huy tiểu đoàn. Ông thiếu tá là người đầu tiên và cũng duy nhất chàng nói chuyện trong khoảng thời gian từ khi chàng tới tiểu đoàn đến lúc chiều tà, khi chàng leo lên cỗ xe ngựa ngồi bên cạnh bác đánh xe chuyên môn nhổ nước bọt Timmons. Ông thiếu tá với cặp mắt đỏ ngầu đã giữ chàng lại khá lâu. Và khi lên tiếng, giọng ông đầy châm biếm làm chàng thấy khó chịu. — Thích đánh nhau với bọn da đỏ, hả? Trung úy Dunbar từ bé chưa hề nhìn thấy một người da đỏ nào, nói gì đến chuyện chiến đấu với họ. — Vâng, nhưng không phải dịp này, thưa thiếu tá. Tôi nghĩ rằng tôi có thể chiến đấu với họ, chắc chắn là như thế. — Vậy là cậu thích chiến đấu, chứ gì nữa? Trung úy Dunbar không trả lời câu hỏi đó. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc lâu rồi ông thiếu tá mới cầm bút điền vào bản quân lệnh in sẵn. Ông ta viết với vẻ giận giữ, không buồn để ý đến việc mồ hôi chảy ròng ròng trên má. Dunbar nhìn thấy cả những giọt mồ 10 Michael Blake hôi đang to dần trên đỉnh chiếc đầu hói gần hết của ông ta. Vài sợi tóc lơ thơ màu muối tiêu còn sót lại dính bết trên đỉnh đầu ông. Hình dạng ông khiến chàng trung úy nhớ đến một con người bệnh hoạn nào đó. Dunbar đâu biết được rằng ông thiếu tá quá ốm yếu. Đôi khi sức khỏe của ông chỉ được giữ bằng một sợi chỉ mong manh và sợi chỉ ấy hôm nay vừa mới đứt, đúng mười phút trước khi chàng trung úy đến gặp ông. Lúc đó ông đang ngồi bất động sau bàn giấy, hai bàn tay chắp lại đặt trên bàn và đang quên béng cả cuộc đời. Đó là một cuộc sống bạc nhược, dựa trên sự bố thí mà người ta dành cho những kẻ phục vụ nhẫn nhục nhưng không hề làm nên được chiến tích gì. Khốn nỗi cả cuộc đời đã trôi qua, bao gồm những năm tháng sống độc thân, những năm tháng chống cự với rượu chè, tất cả đều đã biến đâu mất như do một phép thần thông. Nỗi nhàm chán đắng cay của cuộc đời Thiếu tá Fambrough chỉ được thay thế trong khoảnh khắc bằng một sự kiện hấp dẫn và nhất thời. Ông thèm được thấy mình ngồi trên ngai vàng như một bậc vua chúa trong cái căn cứ Fort Hays, một lát trước bữa ăn tối. Ông thiếu tá viết xong, nhấc tờ giấy lên. — Tôi điều cậu ra đồn Sedgewick. Cậu nhận phân công trực tiếp của Đại úy Cargill. Trung úy Dunbar ngó xuống bộ quân phục nhàu nát. — Xin tuân lệnh thiếu tá. Tôi sẽ đi đến đó bằng cách nào? — Cậu tưởng tôi biết ư? – Viên thiếu tá xẵng giọng đáp. — Không phải thế, thưa thiếu tá. Chỉ có điều tôi không biết. — Tôi đang vui và sẵn sàng ưu ái cho cậu. Một cỗ xe tiếp tế chất đầy lương thực, thực phẩm và vật dụng sắp sửa lên đường ra đó. Cậu hãy đi tìm một bác nông dân tên là Timmons và cùng ngồi xe với bác ấy. Nói đến đây ông ta trỏ tờ giấy Dunbar đang cầm. — Con dấu của tôi sẽ bảo đảm an toàn cho cậu trong vòng một trăm năm mươi dặm của vùng đất mọi rợ này. Ngay từ ngày nhập ngũ, Dunbar đã hiểu rằng không nên băn khoăn về những thói tật oái oăm của các sĩ quan chỉ huy cấp trên. Chàng lập tức đưa tay lên mũ chào và đáp: “Rõ, thưa thiếu tá!” rồi quay gót bước ra. Chàng tìm được Timmons, bay ra ga nhận con ngựa Cisco. Nửa giờ sau chàng đã rời khỏi căn cứ Fort Hays. Lúc này, sau khi vượt được một trăm dặm đường, ngồi ngắm tờ quân lệnh, chàng nghĩ, chắc mọi sự sẽ ổn thỏa thôi. Chàng thấy xe đi chậm lại. Bác Timmons đang nghiêng đầu nhìn xuống bãi cỏ ngay bên cạnh. — Trung úy nhìn kìa! Vật gì trăng trắng nằm trong đám cỏ, cách xe chừng hai mươi bộ(1). Cả hai người cùng nhảy xuống xem thứ gì. Thì ra một bộ xương người trắng, sáng lên dưới ánh nắng, sọ ngửa lên phía trên. Dunbar quỳ xuống bên cạnh bộ xương, cỏ mọc lách xuyên qua xương sườn. Khoảng hai chục mũi tên chĩa lên như những chiếc trâm cắm vào gối. Dunbar rút một (1) Từ đây người dịch sẽ giữ nguyên cách đo lường của nước Anh. Bộ = 0,30 m. Thước = 0,91 m. Dặm = 1,609 m. Bảng = 453 g. (ND) Michael Blake mũi tên lên lật lật trong hai bàn tay. Thấy chàng đưa ngón tay sờ mũi tên, bác Timmons thốt lên sau lưng chàng. — Chắc phải có người nào nhìn thấy chứ, sao họ không báo gì về nhà nhỉ? Ngày thứ tư cũng giống như ba ngày trước, không xảy ra sự cố gì. Rồi ngày thứ năm và thứ sáu, Dunbar bắt đầu thất vọng khi thấy cỏ không còn um tùm nữa. Chàng vẫn chưa nhìn thấy một sinh vật nào hết. Bác đánh xe Timmons bảo rằng đôi khi các bầy súc vật bỗng tự nhiên biến đâu mất cả, chẳng đáng băn khoăn làm gì, bởi sẽ đến lúc chúng hiện ra đông đúc như châu chấu vậy. Họ cũng không thấy một người da đỏ nào nhưng điều này thì bác Timmons không có cách giải thích nào hết. Bác ta chỉ bảo rằng nếu nhìn thấy lúc này thì là quá sớm, và thế là may, họ không bị bọn cướp hay du đãng nào tấn công. Nhưng, sang đến ngày thứ bảy thì Dunbar chỉ nghe bác Timmons bằng nửa tai. Trong lúc họ vượt nốt những dặm đường cuối cùng Trung úy Dunbar càng suy nghĩ nhiều hơn. Chàng nghĩ đến cái đồn biên giới chàng sắp tới. Đại úy Cargill quay quay lưỡi trong miệng, mắt ngước đăm đăm. Nét mặt ông ta tươi lên một chút rồi lập tức lại cau có ngay. Lại một đứa nữa bị mất tích, ông ta nghĩ. Mẹ kiếp! Mời các bạn đón đọc Khiêu Vũ Với Bầy Sói của tác giả Michael Blake.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký - Tập 2 (Mikhail Samarsky)
Làm chó dẫn đường cho người mù, Trison trải qua biết bao vui buồn, hy sinh, chịu đựng, có khi rơi vào những tình huống ngàn cân treo sợi tóc. Nhưng Trison là một chú chó thông minh, gan dạ, có thể thích nghi vói bất kỳ hoàn cảnh nào, luôn tìm được cách xử lý tốt nhất mọi nhiệm vụ của mình. Câu chuyện diễn ra với nhiều tình tiết gay cấn, hấp dẫn, những pha thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, nhưng vẫn chứa chan tình nhân ái, thể hiện cái nhìn đầy chất nhân văn, kể cả trước những mặt trái của cuộc đời...***Mikhail Samarsky sinh năm 1996, hiện vừa mới tốt nghiệp Trường phổ thông năng khiếu nội trú trực thuộc Đại học tổng hợp quốc gia Matxcơva mang tên Lomonosov. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn chương (bố là nhà soạn kịch, mẹ là nhà văn chuyên viết truyện trinh thám), từ năm 12 tuổi, Mikhail Samarsky đã bắt đầu đam mê sáng tác. Năm 2009, Mikhail xuất bản cuốn truyện Chuyện cảm động không đến từ con người, năm 2010 cho ra đời cuốn Đánh đu giữa những sườn đồi, năm 2012 xuất bản cuốn Mười hai lần chạm tới chân trời (tiếp theo Đánh đu giữa những triền đồi) và Người bạn tri kỷ vượt lên rào cản ngôn ngữ (tiếp theo Chuyện cảm động không đến từ con người). Hiện Mikhail đã hoàn tất cuốn Fukusima (nối tiếp Người bạn tri kỷ vượt lên rào cản ngôn ngữ) và đang bắt tay viết cuốn thứ tư về chú chó phi thường Trison (nhân vật chính của ba cuốn sách Chuyện cảm động không đến từ con người, Người bạn tri kỷ vượt lên rào cản ngôn ngữ và Fukusima), với tựa đề Chó dẫn đường cho đại gia. Mikhail đã sáng lập quỹ “Những trái tim đang sống” nhằm quyên tiền mua máy đọc chữ nổi và những thiết bị chuyên dụng cho người mù điều khiển máy vi tính... Mikhail đang nộp hồ sơ thi vào khoa “Các vấn đề toàn cầu” của Đại học Tổng hợp quốc gia Matxcơva, chuyên ngành “Quan hệ quốc tế” nhưng luôn tâm niệm sẽ không bao giờ từ bỏ đam mê viết lách và ý nguyện giúp đỡ người khiếm thị.***Đọc tập sách này, bạn đọc ấn tượng với chú chó thông minh Trison. Không chỉ vì Trison là một chú chó đặc biệt mà còn do câu chuyện giúp chúng ta hiểu hơn về cuộc sống của những người khiếm thị. Cuộc sống này, theo tác giả, như: “Một chiếc cầu vồng. Cầu vồng có nhiều màu sắc. Màu này phản chiếu màu kia nhưng hai màu liền kề nhau cũng có sự dung hòa nhất định. Cuộc đời cũng thế, có muôn màu sáng tối”. Không những thế, người khiếm thị còn được sự “giúp đỡ” của con mèo Kilusia. Điều thú vị do chó và mèo chẳng thuận nhau bao giờ nên câu chuyện càng trở nên hài hước và vui nhộn. Tìm mua: Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký - Tập 2 TiKi Lazada Shopee Sự tưởng tượng của “nhà văn” Mikhail Samarsky thật phong phú khi dựng lên câu chuyện thăng trầm, vui buồn của chú chó Trison. Chú được sống trong ngôi nhà đầy tình yêu thương của nhà văn mù Anna Ygorevna Krivosheeva. Ở đó, bà Ivankhnik khuyết tật, phúc hậu nhưng lại trót làm bạn với bia rượu nên gây ra không ít rắc rối cho Trison. Có lần Trison bị bắt vào đồn công an vì bà Ivankhnik lợi dụng để biến chú trở thành kẻ cắp trong siêu thị. Đây có lẽ là điều khiến cho Trison thấy xấu hổ nhất trong cuộc đời làm chó dẫn đường của mình. Tuy nhiên, dù nghiện rượu nhưng bà Ivankhnik cũng biết giúp đỡ người khác khi khó khăn. Chính điều này đã khiến Trison cảm thấy yêu quý bà hơn sau những gì bà đã gây ra cho chú. Qua chuyến phiêu lưu đầy kịch tính, chúng ta cảm nhận được tình yêu thương của con người dành cho con vật. Ngược lại, chú chó Trison cũng dành cho những người khiếm thị những tình cảm chân thành. Có một điều thú vị khi tác phẩm Chó dẫn đường phiêu lưu ký vừa phát hành, tổng thống Liên bang Nga lúc bấy giờ là Dmitri Medvedev đã sửa ngay chính sách đối với người khiếm thị. Nhờ đó, các học sinh khiếm thị sau khi ra trường được mang theo đầy đủ thiết bị chuyên dụng để bước vào cuộc đời, có thể học tập và lao động như mọi người khác. Và cũng từ tác phẩm này, tác giả Mikhail đã sáng lập quỹ “Những trái tim đang sống” nhằm quyên tiền mua máy đọc chữ nổi và những thiết bị chuyên dụng cho người mù điều khiển máy vi tính... Không chỉ hấp dẫn, lôi cuốn với nhiều tình tiết độc đáo đầy kịch tính, Chó dẫn đường phiêu lưu ký còn là lời nhắc nhở về tình thương và lòng nhân ái, sự đồng cảm với những người tật nguyền, bất hạnh…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký - Tập 2 PDF của tác giả Mikhail Samarsky nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký - Tập 1 (Mikhail Samarsky)
Mikhail Samarsky sinh năm 1996, Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn chương (bố là nhà soạn kịch, mẹ là nhà văn chuyên viết truyện trinh thám), từ năm 12 tuổi, Mikhail Samarsky đã bắt đầu đam mê sáng tác. Năm 12 tuổi cô xuất bản cuốn truyện đầu tiên. Tác phẩm là sự đồng cảm sâu sắc với những người kém may mắn trong cuộc sống khi không nhìn thấy ánh sáng, phải sống trong bóng đêm lặng lẽ. Chính vì lẽ đó, ngay khi vừa ra đời, Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người nhanh chóng tạo được tiếng vang tại Nga và được ấn hành bằng chữ nổi với các ngôn ngữ như Đức, Czech, Bulgaria, Thụy Điển và đang được dựng thành phim truyện nhựa.*** Trong tác phẩm này, Mikhail Samarsky đã dùng một thủ pháp độc đáo khi để chú chó Trison kể lại những gì diễn ra trong thế giới loài người. Qua cái nhìn và suy nghĩ của Trison, xã hội loài người hiện lên một cách sống động với đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố. Ở đó, có không ít kẻ tham lam, toan tính, bon chen, phản phúc và vô cảm. Mikhail Samarsky đã dựng nên một hành trình đầy cao cả và thú vị của chú chó Trison. Trước khi về nhà Sashka, Trison từng có thời gian làm công việc dẫn đường cho ông cụ Ivan Savelievich, một người mà theo đánh giá của Trison: “Đó là một con người tuyệt vời và là một người bạn tốt của tôi”. Khi cụ ông Ivan Savelievich qua đời, Trison được chuyển về trường huấn luyện và tại đây, Sashka cùng mẹ và bà đã tới đón Trison về nhà. Không chỉ hấp dẫn, lôi cuốn với nhiều tình tiết độc đáo đầy kịch tính,Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người còn là lời nhắc nhở về tình thương và lòng nhân ái, khi mà trong xã hội hiện đại ngày càng thưa vắng dần sự quan tâm, đồng cảm với những con người tật nguyền, bất hạnh…*** Tìm mua: Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký - Tập 1 TiKi Lazada Shopee “Chúng tôi có đôi mắt đã chết, nhưng trái tim vẫn đang sống”. Lần đầu tiên tôi nghe câu nói này năm 12 tuổi, từ miệng một cậu bé mù mà tôi tình cờ làm quen trong công viên. Câu chuyện của cậu bé ấy về cuộc đời mình làm xao động lòng tôi, đến nỗi tôi quyết định thử đóng vai người mù để chiêm nghiệm nỗi đau tinh thần mà cậu phải chịu đựng hàng ngày, hàng giờ. Đợi đến kỳ nghỉ hè, tôi quyết “cất giấu” đôi mắt của mình trong vài ngày. Kết quả là tôi sống được ba ngày với dải băng đen bịt mắt. Không có một ngoại lệ nào cả - suốt 72 giờ tôi sống cuộc sống của người mù. Ăn uống, đi dạo trong sân, chơi với con chó cưng của mình, thay sách thường bằng sách nói, nghe tivi… Xin nói ngay - rất dễ sợ. Thỉnh thoảng có cảm giác không thể chịu đựng nổi. Ngay trong ngày đầu tiên (ôi, ngày mà nói làm gì - ngay giờ đầu tiên), tôi đã muốn giật phắt cái mảnh băng đen ấy ra và không bao giờ tiến hành những cuộc thử nghiệm như thế nữa. Xin nói thực lòng, chính tôi cũng không biết làm sao tôi có thể vượt qua được ba ngày “đen tối” đó. Nhưng dù sao điều đó cũng không giúp cảm nhận được đến tận cùng những gì người mù phải chịu đựng. Bởi vì tôi biết rằng một ngày, hai ngày rồi ba ngày sẽ trôi qua và tôi sẽ lại được nhìn thấy mẹ, thấy bầu trời xanh, bãi cỏ xanh, ráng chiều hồng nhạt. Một lần, trong đầu tôi xuất hiện ý nghĩ: “Nếu bỗng cứ thế này vĩnh viễn thì sao?”. Lòng dạ trở nên bồn chồn bất an. Đêm cuối cùng, tôi nằm hoài không sao ngủ được, không chỉ chực khóc thầm mà còn muốn khóc ầm lên. Có một chuyện tôi không sao lý giải nổi - hoặc đó là ảo ảnh, hoặc chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: ngay sau khi tháo băng bịt mắt, tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời và trông thấy một chiếc cầu vồng. Tôi rất thích ngắm nhìn cầu vồng và thường buồn tiếc khi nó biến mất. Nhưng hôm đó không hiểu tại sao tôi không cảm thấy hứng thú cho lắm. Ý nghĩ đầu tiên vụt đến trong đầu: người bạn của tôi không bao giờ có thể nhìn thấy vẻ đẹp lung linh ấy. Và lúc đó tôi tự hứa với lòng mình: “Một khi còn sống trên đời, tôi còn nỗ lực giúp đỡ người mù!”. Một học sinh có thể làm gì để giúp người khiếm thị? Tôi bắt đầu thu thập tư liệu, làm quen với các huấn luyện viên dạy chó dẫn đường, liên hệ thư từ với những người khiếm thị và cuối cùng, tôi viết nên cuốn sách về một cậu bé mù và người bạn bốn chân của cậu - con chó dẫn đường Trison thuộc giống Labrador. Tất nhiên, tôi đặt tên cho cuốn sách là “Cầu vồng tặng bạn” (Bản dịch tiếng Việt có tựa đề “Chó dẫn đường phiêu lưu ký”). Sau khi xuất bản ở Nga, cuốn sách lập tức được dịch ra tiếng Đức và được Hội các nhà văn sáng tác bằng tiếng Nga của Cộng hòa Séc cho đăng tải trên tạp chí Prague chuyện cảm động không đến từ con người Parnas, sau đó còn được dịch sang tiếng Bulgaria, tiếng Anh và tiếng Thụy Điển. Một số nhà hảo tâm đã tài trợ cho kế hoạch xuất bản cuốn “Cầu vồng tặng bạn” ở Nga bằng chữ nổi Braille trên giấy. Hiện cũng đang có dự án xuất bản cuốn sách này bằng phiên bản điện tử để người khiếm thị có thể đọc qua màn hình chữ nổi. Đây là một dự án rất tốn kém. Tuy nhiên, Quỹ “Những trái tim đang sống” do tôi đề xướng hiện đang phát triển rất mạnh, đã quyên được một số tiền khá lớn, đủ để thực hiện một số dự án có mục đích giúp đỡ người khiếm thị ở Nga. Nhưng có một điều đáng tiếc, không phải tất cả những người khiếm thị đều có chương trình phần mềm đặc biệt để đọc sách điện tử, không phải ai cũng có khả năng tài chính để có thể sở hữu màn hình chữ nổi Braille. Vì thế, rất nhiều người khiếm thị yêu cầu xuất bản sách nói. Đối với họ, đó là phương thức duy nhất để tiếp cận với nền văn học cổ điển và đương đại. Xin hãy tin rằng người khiếm thị cũng là những con người giống hệt chúng ta. Trong số họ có không ít tài năng sáng tạo - những nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà sáng chế và thậm chí có cả những họa sĩ, vận động viên thể thao. Giống như chúng ta, họ cũng biết yêu thương, vui mừng, buồn chán, đồng cảm - tóm lại, mắt họ đã chết nhưng tim họ vẫn sống. Xin hãy chia sẻ với họ một phần trái tim của mình và đặt lên đó một chiếc cầu vồng dành tặng những người khiếm thị! Nhân dịp những cuốn sách của tôi được xuất bản bằng tiếng Việt, với tất cả trái tim mình, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn Công ty First News và dịch giả Phạm Bá Thủy về những nỗ lực to lớn nhằm giới thiệu những tác phẩm của tôi đến bạn đọc. Hi vọng, đây là bước khởi đầu thuận lợi cho mối quan hệ hợp tác lâu dài. Tôi rất mừng vui khi sách của tôi đã tìm được bạn đọc ở đất nước Việt Nam hiếu hiền, tươi đẹp. Tôi cũng hi vọng sẽ có một ngày, bản dịch tiếng Việt những cuốn sách nói về con chó dẫn đường của tôi sẽ đến được với người khiếm thị Việt Nam qua phiên bản sách nói hoặc sách điện tử. Hẹn gặp lại cùng hai cuốn sách tiếp theo của tôi về chú chó Trison dũng cảm mà tôi vừa mới hoàn thành. Với tất cả lòng kính trọng chân thành và niềm hi vọng vô biên.- Mikhail SamarskyĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký - Tập 1 PDF của tác giả Mikhail Samarsky nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chim Cổ Đỏ (Jo Nesbo)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chim Cổ Đỏ PDF của tác giả Jo Nesbo nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chiếc Lược Ngà (Nguyễn Quang Sáng)
Cây trứng cá trước sân nhà đã hết mùa, chim chóc ít đến. Sâu đo xanh đo thoăn thoắt trên những đầu lá trắng li ti màu phấn mốc. Một hai cơn gió to uốn quằn những cành lá thấp là đà, sâu đo níu những sợi tơ, buông mình rơi xuống đất, bò lểnh nghểnh. Đứng gió, cây trứng cá yên lặng, buồn hiu. Mấy hôm nay có con chim cánh vàng như nghệ, mỏ đỏ như son, ngày nào cũng sà cánh đáp xuống đây. Hai chân nó quấn chặt vào cành, thòng mình xuống, nghểnh cổ lên, đưa mỏ đỏ gắp lấy sâu. Ăn no, nó rũ cánh rỉa lông. Nó nhảy nhót, hót líu lo.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Quang Sáng":Đất LửaCánh Đồng HoangChiếc Lược NgàTruyện Ngắn Nguyễn Quang SángĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiếc Lược Ngà PDF của tác giả Nguyễn Quang Sáng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.