Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đường Hầm Ôđetxa

- Tên sách : Đường hầm Ôđetxa Tập 1+2         - Tác giả : Valentin Kataep                         Trần Lê Huy, Thương Thục, Hoài Dân dịch         - Nhà xuất bản Văn học         - Năm xuất bản : 1968         Dịch theo bản dịch Pháp văn LES CATACOMBES D'ODESSA của Esfir Berstein và Olga Wormsber — (Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc-tư-khoa — Nhà xuất Editeurs Franẹaís Réunis — Paris) Đ ường hầm Ôđetxa của Valentin Kataep[1] cho ta một khái niệm về chiến tranh nhân dân ở Liên-xô và chứng minh qui luật chiến tranh nhân dân nhất định thắng lợi. Ôđetxa là một thành phố cảng lớn của Liên-xô, nằm trên bờ Hắc-hải, có truyền thống lâu đời chống ngoại xâm, đã từng chứng kiến cuộc thất trận thảm hại của quân Thổ-nhĩ-kỳ, cũng như đã từng đập vỡ cuộc can thiệp của mười bốn nước đế quốc vào nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Trong lòng đất dưới thành phố và miền phụ cận, có một hệ thống hầm, hào chằng chịt, có từ lâu đời, tạo nên cả một thành phố ngầm với hàng trăm ngàn đường, ngõ ngoắt ngoéo, được mệnh danh là những hầm mộ ở Ôđetxa. Hệ thống hầm ngầm ấy đã từng được sử dụng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đã từng là cơ sở bí mật của các chiến sĩ bônsêvich hồi Cách mạng tháng Mười. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, trước khi đội thiết giáp Đức tiến vào thành phố, những hầm mộ ấy lại trở thành những căn cứ vững chắc của các đội du kích, các đội công tác bí mật, các cơ quan kháng chiến nằm trong lòng địch để bám đất, bám dân. Bọn phát-xít chiếm đóng có biết điều ấy không? Biết. Nhưng không phải bất kỳ lúc nào chúng cũng dám sục xuống cái mê hồn trận ấy. Những tên liều mạng đã phải trả bằng một giá rất đắt vì nhưng quả mìn tự động, vì những tràng đạn rất chính xác từ các ngóc ngách tối om bắn ra. Những vòm hầm đổ ụp xuống làm hàng đơn vị địch bị tan xác, thậm chí những đống xác chết chồng chất của chính bọn chúng cũng tạo nên những vật chướng ngại vít hẳn đường vào. Bọn phát xít dùng đủ mọi cách, đại bác, bom, mìn, hơi độc, chẹn kín các cửa lên, xuống... Nhưng kết quả không hoàn toàn như ý đồ đen tối của chúng. Trong suốt thời kỳ phát-xít chiếm đóng, đội công tác bí mật của Secnôivanenkô, cũng như bao nhiêu đội khác, vẫn tồn tại và phát triển, vẫn phá hoại có kết quả trong lòng địch, vẫn đánh cho địch những đòn ác liệt làm cho chúng điên cuồng lồng lộn, ăn không ngon ngủ không yên. Họ vẫn nắm được nhân dân và gắn bó với nhân dân, vẫn đem được luồng sinh khí của Đảng đến thổi cao ngọn lửa căm thù, chiến đấu trong lòng nhân dân. Những ai đã nhảy vào cuộc vật lộn gay go, dai dẳng trong lòng địch như vậy? Đó là Secnôivanenkô, một cán bộ Đảng lãnh đạo trực tiếp đội công tác bí mật, người chỉ huy rất sáng suốt, kiên quyết, không khoan nhượng với địch, đồng thời yêu thương đồng đội một cách sâu sắc. Đó là bác công nhân già Xiniskin Jêleznư, con người “bằng sắt”, tuy mắc bệnh lao phổi nhưng có một ý chí chiến đấu không gì lay chuyển nổi. Đó là Kôletnisuc, một cán bộ ngoài Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ của Đảng, cùng vợ là Raitxa Lvôpna, một phụ nữ gốc Do-thái, muốn ở bên chồng để chia sẻ nỗi gian nguy. Đó là bà Matriôna Têrenchiepna, vợ người chủ tịch một ngư trang tập thể ở vùng phụ cận thành phố, một phụ nữ rất kiên cường, sôi nổi. Đó là đại úy Hồng quân Drujinin với những hoạt động táo bạo và tinh thần bất khuất đáng kính. Đó là anh thanh niên dũng cảm và rất yêu đời Xviatôxlap. Đó là Batsây trầm tĩnh, từ Mạc-tư-khoa xuống, ngẫu nhiên tham gia và tham gia kiên trì vào cuộc chiến đấu trong mấy năm ròng rã. Đó là nhà tri thức Xêrêđôpxki khảng khái nhất định không chịu cộng tác với quân thù. Đó là các em thiếu niên tiền phong Pêchya và Valentin. Các em đã góp phần không nhỏ vào việc tết vòng hoa chiến thắng cho thành phố Ôđetxa thân yêu. Tính chất nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước của Liên-xô là như vậy. Nhiều người đã hy sinh. Những “hầm mộ“ từ bao đời đã trở thành hầm mộ thực sự của những người con bỏ mình vì sự nghiệp vinh quang bảo vệ đất nước xô-viết. Khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn giữ vững một niềm tin tưởng lạ lùng ở chiến thắng. Những ngày cuối cùng ở dưới hầm mộ, nhóm của Secnôivanenkô bị lạc trong cái mê hồn cung trăm ngàn ngõ ngách ấy, họ không tìm được lối lên mặt đất trong khi bi-đông của họ chỉ còn một giọt dầu cuối cùng. Họ đã kiệt sức, hấp hối trong cơn khát, nhưng vẫn tin là “không thể chết được“. Chúng ta hãy nghe Secnôivanenkô truyền niềm tin tưởng say sưa đó cho người bạn chiến đấu Batsây trong hoàn cảnh nguy nan: “Chúng ta sẽ tiêu diệt được bọn chúng, vì chúng ta làm một cuộc chiến tranh chính nghĩa, một cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh kiểu mới. Một cuộc chiến tranh vì tương lai của tất cả nhân loại cần lao, một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa cộng sản!“. Cuộc chiến tranh nhân dân đã tôi luyện cho họ một nhân sinh quan cách mạng chân chính, một tình đoàn kết sâu sắc, một tinh thần dũng cảm đầy sáng tạo và một lòng tin tưởng vô bờ bến. Đó là những nền tảng không thể thiếu được của chiến thắng. * Valentin Kataep có một phong cách nghệ thuật độc đáo khi thể hiện chủ đề của mình. Trước hết là vấn đề nhân vật. Trong các tác phẩm của ông, các em thiếu niên thường đóng một vai trò quan trọng. Một nhà phê bình văn học viết: “Trong tâm hồn nhà văn Kataep, vẫn còn một thằng bé ẩn náu ở đâu đó!“ Đúng. Lần này, “thằng bé“ đáng yêu đó lại xuất hiện và hoạt động dưới hình dạng của chú thiếu niên tiền phong Pêchya Batsây với nhiệm vụ mở đầu và kết thúc cuốn sách. Trong suốt câu chuyện chú bé không phải chỉ là người chứng kiến thời đại mà còn là một thủy thủ trên con tàu thời đại. Hành động tham gia chiến đấu đầu tiên của chú bé là nhận lá cờ đẫm máu của một chiến hạm Liên-xô từ tay anh thủy binh hấp hối Lavrôp. Tác giả đã miêu tả một cách lý thú sự diễn biến tâm lý của chú bé, từ trạng thái rụt rè sự hãi chuyển sang thái độ can đảm, hăng say. Tâm hồn lãng mạn cách mạng của tuổi thiếu niên được miêu tả rất đúng qua cử chỉ giơ tay tuyên thệ trước xác anh thủy thủ Hồng quân. Lá cờ thiêng liêng được cất giấu giữa đêm đoàn xe tăng phát-xít tiến vào chiếm đóng Ôđetxa. Từ đó Pêchya đi vào cuộc chiến đấu, cùng chia nỗi vui, buồn, gian khổ với các bạn đồng đội vào tuổi cha, chú. Cuốn truyện chấm dứt bằng cuộc “khải hoàn” của chú bé từ thành phố Ôđetxa giải phóng trở về Mạc-tư-khoa, với tấm huân chương chiến công chói lòa trên ngực bộ quân phục nhỏ bé. Chú đã giữ đúng lời thề của thiếu niên tiền phong hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng khi tìm ra và trao lá cờ nói trên cho bộ tư lệnh Hồng quân. Tác giả gắn vào hình tượng thiếu niên tất cả tấm lòng ưu ái và tin tưởng, quí trọng lớp măng non tương lai của đất nước. Trong truyện, chúng ta gặp lại nhiều nhân vật trong các tác phẩm trước của ông. Hai chú bé Pêchya và Gavrick trong Cánh buồm trắng tham gia sôi nổi vào làn sóng Cách mạng từ đầu thế kỷ đã trở nên bác Batsây rất trung thành và đồng chí Secnôivanenkô giàu nghị lực. Thế là lớp trước trưởng thành, lớp sau bước tiếp. Niềm hy vọng nồng nhiệt, thiết tha của thế hệ trước gửi lại thế hệ sau được gói ghém trong bức thư của Đrujinin trước giờ bị hành quyết, ghi trên bức tường của ngục tối gửi cho con gái yêu quí của mình. Sức sống của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc xô-viết thực là bất diệt. Tuy cấu trúc và nội dung tác phẩm dành cho tuổi trẻ một địa vị quan trọng, nhưng tác phẩm của ông không phải chỉ viết riêng cho thiếu niên. Pêchya cũng như Valentin đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là cả một tập thể chiến đấu. Tâm hồn, ý chí, cảm nghĩ của mỗi người được ngòi bút sắc sảo của Kataep phân tích tỉ mỉ, đúc thành những dạng điển hình. Tác phẩm ông không phải chỉ có con người bàng bạc trong thời gian và không gian rộng rãi, ta luôn thấy hình ảnh thành phố quê hương thân yêu của ông, với đường phố, lâu đài, bến cảng, cầu tàu, cần trục, bờ dốc đứng, thảo nguyên... khi ẩn khi hiện, với tất cả buồn, vui, thương, giận. Không phải chỉ có con người xô-viết đánh giặc mà cả thiên nhiên xô-viết cũng vùng lên, tiêu diệt bọn cướp nước hung tàn. Phong cách sáng sủa, cách bố cục chặt chẽ, chia chương ngắn gọn, khiến câu chuyện tuy dài mà vẫn dễ theo dõi, tiếp thu. * Đường hầm Ôđetxa đến với chúng ta giữa lúc cả nước ta đang quyết liệt tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước. Những hầm ngầm chiến đấu nổi tiếng của thành phố Ôđetxa khiến chúng ta liên tưởng đến hệ thống địa đạo vô cùng vĩ đại của đồng bào miền Nam đánh giặc. Tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, địa lý mỗi nơi mỗi khác, phương thức chiến đấu cũng không hẳn giống nhau, nhưng có một khía cạnh có thể cung cấp cho chúng ta nhiều suy nghĩ bổ ích. Ấy là vấn đề con người trong chiến tranh nhân dân. Con người được giác ngộ sâu sắc, được lãnh đạo tốt, được tổ chức tốt, nhất định sẽ làm nên những sự nghiệp thần kỳ. Với ý nghĩ ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc Đường hầm Ôđetxa.   Hà-nội, 16-3-1967 LÊ HUY Mời các bạn đón đọc Đường Hầm Ôđetxa của tác giả Valentin Petrovich Kataev.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bức Họa Maja Khỏa Thân - Samuel Edwards
BỨC HOẠ MAJA KHOẢ THÂN của Samuel Edwards là một cuốn tiểu thuyết lịch sử sôi động và hấp dẫn từ đầu đến cuối, một cuốn sách nồng nàn hơi ấm tình yêu Tổ Quốc, tình yêu tự do, công lý, tình yêu nghệ thuật, một cuốn sách phản ánh lịch sử và nghệ thuật trên quan điểm tiến bộ của thời đại chúng ta. Ít có cuốn sách nào viết về một nghệ sĩ của quá khứ mà lại sinh động, phong phú và chứa đựng được nhiều tư tưởng tốt đẹp đến như vậy. Phải yêu và phải hiểu Gôya đến thế nào, và hơn nữa phải có một tình yêu sâu sắc đối với đất nước và nhân dân lao động Tây Ban Nha như thế nào, phải hiểu và đồng cảm với nghệ thuật và nghệ sĩ đến thế nào… mới có thể tái hiện lại cả một đất nước và con người vĩ đại qua mấy trăm trang sách làm say mê mọi người… Samuel Edwards, một nhà văn tiến bộ Mỹ chưa phải là một tên tuổi lớn của văn học thế giới, nhưng rõ ràng chỉ với tác phẩm này thôi, đóng góp của ông thật đáng quý và đáng ghi nhận cho thể loại tiểu thuyết lịch sử và thể loại truyện danh nhân. Nhưng tại sao lại có tiêu đề BỨC HOẠ MAJA KHOẢ THÂN? – Đó là một bức tranh danh hoạ của thiên tài Gôya, kết quả của tình yêu nghệ thuật và của những giây phút đắm say trong tình yêu của nghệ sĩ với Maria Cayettana, một phụ nữ quý tộc lừng danh tiêu biểu cho khát vọng tự do, dân chủ, cho ý chí chống lại triều đình phong kiến mục nát. Toà án Giáo hội Tây Ban Nha, một công cụ của chế độ chuyên chế tàn ác, đã đưa bức hoạ này ra như một bằng chứng để kết tội hoạ sĩ. Chúng cho rằng vẽ người trần truồng là chống lại Thượng đế, chống lại con người là trọng tội. Nhưng Gôya, với lòng yêu và kính trọng vẻ đẹp của con người, vì những thôi thúc chống lại chế độ chuyên chế tàn bạo đè bẹp con người dưới những tín điều kinh viện học trung cổ của nó, đã dõng dạc trả lời: - Thân thể trần truồng của đàn bà là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hoá, còn ý thức về sự tà dâm, về sự trần truồng ấy là sản phẩm của bản chất gian manh! Cần phải đặt bức tranh vào bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó để hiểu nó và hiểu Gôya, và hiểu vì sao tiểu thuyết này lại mang tên bức tranh ấy, một cái tên có ý nghĩa ẩn dụ, tuyệt nhiên chẳng phải vì muốn khơi gợi một ý nghĩ không lành mạnh nào… Cuối tiểu thuyết này có những ưu điểm lớn: qua cuộc đời của một nghệ sĩ, nó làm ta hiểu và yêu cả một đất nước, một dân tộc. Dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ chuyên chế, những người lao động Tây Ban Nha luôn luôn nung nấu một ý chí đấu tranh cho tự do, công lý. Những con người bình thường ấy là bạn của Gôya, cũng như chính Gôya vĩ đại là con của một người thợ mộc bình thường ở một miền quê. Và khi quân xâm lược Pháp tới, những con người ấy đã đứng lên, cầm vũ khí, vào rừng sâu, chống giặc. Đất nước của những trận đấu bò tót, của những đấu sĩ bò tót (matađo) của những người áo vải, những người cùng khổ, những cô “maja”, đất nước của Xecvantec, của Gôya và của Picatxô sau này… đấy là một đất nước trong đau thương vẫn nồng thắm tình yêu đời, tình yêu công lý. Những người Việt Nam chúng ta, qua kinh nghiệm của bản thân mình, qua cuộc chiến đấu mấy chục năm cho độc lập, tự do của Tổ quốc, thông cảm sâu xa điều này. Và cuộc đời của một nghệ sĩ vĩ đại như Gôya bao giờ cũng gắn liền với vận mệnh của Tổ quốc và nhân dân mình. Bản thân cuộc đời Gôya là sôi động và phong phú. Nhưng nếu chỉ qua tóm lược tiểu sử hay qua sự thể hiện vụng về, sơ lược, sự phong phú ấy sẽ bị rơi rụng gần hết. Phải tái hiện lại. Nhưng bằng cách nào? Không thể bịa đặt, thêm thắt, mà phải căn cứ vào những sự kiện có thực trong cuộc đời nghệ sĩ, rồi bằng sự hiểu biết và rung cảm của mình đối với cuộc sống Tây Ban Nha thời đại Gôya, mà chắp cánh cho trí tưởng tượng và dựng lại cuộc đời ấy như chính mình từng chứng kiến. Như thế cuốn sách làm phong phú thêm chứ không làm nghèo đi cuộc đời Gôya, mà vẫn chân thật, một sự thật đầy tính nghệ thuật, nghĩa là một sự chân thật có cân nhắc, chọn lọc và đạt đến sự hoàn mỹ. Có thể xem cuốn sách là một trong những mẫu mực về viết danh nhân lịch sử, danh nhân văn hoá. Chúng tôi đã từng đọc Pie đại đế của A. Tôlxtôi, một mẫu mực (tuy A. Tôlxtôi chưa viết xong) về tiểu thuyết lịch sử. Cuốn sách này là một mẫu mực khác, của một tác giả khác viết về đất nước khác. Chúng tôi hy vọng rằng với việc xuất bản cuốn sách này sẽ cung cấp thêm một tài liệu tham khảo về việc viết danh nhân ở nước ta. Và tỉnh Nghĩa Bình, quê hương của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, quê hương của Đào Tấn, quê hương của đồng chí Phạm Văn Đồng… mong mỏi có được những cuốn sách tái hiện cuộc đời của các danh nhân ấy trong cuộc đời của đất nước và nhân dân ta qua mấy thế kỷ đấu tranh kiên cường, bất khuất. Như thế, mặc dù rất hấp dẫn – cái hấp dẫn trước hết là thuộc về chất liệu, về nội dung hừng hực sôi động của cuộc đời Gôya, thuộc về nghệ thuật biểu hiện của tác giả, cuốn sách này mang trong nó những chủ đề lớn, rất gần gũi với tâm hồn dân tộc ta. Đây không phải thuộc loại sách hấp dẫn bằng cái màu mè bên ngoài, cái nhảm nhí nhất thời, mà hấp dẫn bằng quy luật vĩnh cửu của cuộc đời và nghệ thuật: tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật trác việt. Vậy xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc danh tác về Gôya này của Samuel Edwards với hy vọng sẽ mở rộng thêm chân trời văn hoá và nghệ thuật của tất cả chúng ta, chân trời tuy xa mà ích lời thì gần gũi trong mỗi cuộc đời chiến đấu cho độc lập tự do, cho nền văn hoá, nghệ thuật mới xã hội chủ nghĩa của chúng ta. SỞ VĂN HOÁ và THÔNG TIN NGHĨA BÌNH​ *** Bức họa Maja khỏa thân (La Maja Nue) tác phẩm của Samuel Edwards, viết về Francisco José de Goya y Lucientes – họa sĩ người Tây Ban Nha, người theo trường phái lãng mạn từ thế kỷ 19 cho đến tiền bán thế kỷ 20. Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử không chỉ viết về một phần đời của người họa sĩ tài hoa mà còn cung cấp cho người đọc một một cái nhìn khái quát nhưng rất chân thực và sống động về lịch sử đất nước Tây Ban Nha thời ấy, những quan điểm về đấu tranh cho tự do, những giằng xé tâm lý giữa trách nhiệm, nghĩa vụ, tình yêu, lý tưởng, niềm kiêu hãnh và danh dự… Cuốn sách không làm công việc tóm tắt cuộc đời và tác phẩm của người nghệ sĩ, mà thay vào đó, bằng ngôn từ đã xoáy sâu vào phần tâm thức của Goya, ảnh hưởng của phần tâm thức này trên những bức họa mà ông vẽ “…Nó cay độc và tàn nhẫn – song chân lý nhiều khi tàn ác có phải không? Tranh của ông làm tôi có cảm giác như tận mắt nhìn thẳng vào sự thật. Rõ quá. Đáng sợ quá. Tại sao như vậy?...” Tác giả Samuel Edwards cũng nêu ra trong truyện những vấn đề tác động đến tình cảm giữa hai con người không cùng giai cấp Goya và nữ Công tước Maria, họ tuy khác biệt nhau nhưng lại cũng rất giống nhau. Họ cuốn hút nhau không chỉ bởi vẻ đẹp bề ngoài mà còn bởi lòng tự tôn và lý tưởng mà họ mang trong mình. Hai con người này, vừa kiêu hãnh lạnh lùng, lại vừa nồng nàn say đắm, trong xã hội nước Tây Ban Nha phong kiến, thoáng qua tưởng chừng như chẳng thể nào đến được với nhau bởi ngăn cách giữa họ là những vấn đề có thể hoặc không thể dễ dàng trả lời, nhưng khi chịu khó đọc kỹ và ngẫm nghĩ vẫn có thể nhận thấy lời yêu chưa ngỏ, khao khát biện minh cho chính mình của Goya, tỉ như đoạn ông đáp trả những lời buộc tội của nữ Công tước về bức biếm họa của mình “…Tôi thấy dường như trong cuộc sống, sự thật cái mà ta gọi là chân lý ấy, mang bộ mặt của ác quỉ. Nhưng quỉ dữ không làm ta sợ hãi, nếu ta dám nhìn thẳng vào mặt nó. Chỉ khi nào ta tìm cách tự đánh lừa mình, chỉ khi nào ta cố tình và hèn nhát lẩn trốn trong sự dối trá thì đó mới là điều nguy hiểm…”. Cuốn truyện cuốn hút không chỉ bởi câu chuyện tình yêu của họa sĩ và nữ Công tước mà còn trải ra trước mắt bạn là cả một đất nước Tây Ban Nha với đủ mọi tầng lớp, từ vua chúa, quý tộc tới thị dân, đấu sĩ, những cô “maja” phục vụ trong quán rượu, với đủ mọi bộ mặt của lớp người đại diện cho nó và còn nhiều nhiều nữa những ẩn ý nằm sâu trong từng câu chữ và câu truyện quanh bức họa Maja khỏa thân. Người đọc nào chưa có điều kiện đọc và tìm hiểu lịch sử cũng như nền hội họa châu Âu trong nửa đầu thế kỷ mười chín, qua cuốn tiểu thuyết này có thể có được một cái nhìn tổng quan và hiểu biết thêm. Sau tất cả, khi khép lại cuốn truyện này, đọng lại trong tôi là là những xúc cảm rất thực, đau đáu nỗi niềm của nữ Công tước Maria và Goya, người nghệ sĩ – họa sĩ tài hoa, cả hai đều chất chứa trong tim mình tình yêu dành cho tổ quốc, và tình yêu họ dành cho nhau đan xen trong đó, họ “mắc nợ” nhau: Anh mắc nợ em một lời xin lỗi Em mắc nợ anh một đời nông nổi Và cũng bởi “duyên” và “nợ” mà họ luôn đau đáu hướng về nhau. Họ đã minh chứng trong chuyện tình của mình một chân lý mà dù ở thời đại nào tôi vẫn thấy đúng “ Trong tình yêu, không có chỗ cho hận thù và lòng kiêu ngạo”– Phải. Cho đi để đón nhận hạnh phúc, vì sao phải mãi so đo thiệt hơn? Trân trọng giới thiệu tác phẩm này với các bạn.   Mời các bạn đón đọc Bức Họa Maja Khỏa Thân của tác giả Samuel Edwards.
Bố Là Bà Giúp Việc - Anne Fine
Được chuyển thể thành bộ phim nằm trong top 100 phim hài hước nhất thế kỷ 20. Bà giúp việc mới tới người to uỵch, mặt bứ phấn, trông rõ là kém duyên. Vậy mà lũ trẻ đứa nào cũng thích bà, chả là vì chúng biết bà là bố Daniel chứ chẳng ai xa lạ. Chỉ mẹ Miranda là không biết. Để có thêm thời gian bên các con, Daniel đã phải đóng giả bà Doubtfire tới nhà vợ cũ xin làm giúp việc. Có biết bao tình huống dở khóc dở cười bởi Daniel cứ quên mình đang là bà Doubtfire. Những lần như thế lũ trẻ lại được chứng kiến tài diễn xuất cũng như sự giảo hoạt của bố chúng. Nhưng lần này, Daniel phải đau đầu không biết xoay xở ra sao, phân thân thế nào, để đồng thời đóng cả hai vai: bà giúp việc Doubtfire kiêm người mẫu khỏa thân cho lớp vẽ của bà hàng xóm học. Đôi nét về tác giả: Anna Fine sinh ngày 7 tháng 12 năm 1947 tại Leicester, Anh. Bà tốt nghiệp ngành Chính trị tại đại học Warwick và hiện đang sống tại hạt Durham. Fine được biết tới với hơn 50 tác phẩm dành cho thiếu nhi trong đó có Ăn bằng xiên và Viết như gà bới đã được Nhã Nam giới thiệu tới độc giả Việt Nam. Bà là người thứ hai được chỉ định giữ danh hiệu Children's Laureate - danh hiệu tôn vinh các tác giả hoặc người vẽ minh họa sách thiếu nhi xuất sắc. Fine còn là thành viên của Hội văn học Hoàng gia Anh và năm 2003 được trao Huân chương Hoàng gia Anh. "Nhà văn này [Anne Fine] có thể mang đến cho bạn tiếng cười nhưng cũng có thể lấy đi của bạn nước mắt. Bà là một báu vật mà nếu giữ riêng cho thiếu nhi thôi thì uổng quá." - Independent   Mời các bạn đón đọc Bố Là Bà Giúp Việc của tác giả Anne Fine.
Bí Mật Đảo Lincoln - Jules Verne
Người dịch PHẠM HẬU In lần thứ ba NHÀ XUẤT BẢN TRẺ - 1997- “Đoạn kết của Những đứa con của thuyền trưởng Grant và Hai vạn dặm dưới đáy biển. Kết cấu hợp lý, tình tiết hấp dẫn, hình tượng nhân vật chắc, kết thúc hơi .. sến, nhưng đúng kiểu làm độc giả té ngửa vào trang chót, đặc biệt, con chó dễ thương :) Chắc hòn đảo này sinh ra để dành cho những kẻ đắm tàu! câu cảm thán của gã thủy thủ lầy nhất truyện rất đắt, tất nhiên, tạo dựng cả một cơ ngơi từ bàn tay trắng, à không, còn được mẩu diêm, cái đồng hồ, sau tháo luôn cả quả khinh khí cầu. Tri thức và đôi bàn tay, không thể thiếu sự đoàn kết và tin tưởng lẫn nhau của tất cả các thành viên trong nhóm, họ đã tồn tại, tất cả những gì họ làm để sống đều đáng cho ta học hỏi, từ bất kỳ chi tiết nào!" *** “Jules Verne…tôi không biết một nhà văn nào khác đã gây cho tô những ấn tượng như thế. Tôi đã khao khát đọc những tiểu thuyết của ông. Có những trang của ông đã gây cho tôi sự xúa động không gì cững nổi. Bí mật của hòn đảo Lincoln đã khiến tôi lạnh toát người vì khiếp sợ…” –(V.BRJUSOV, nhà văn Xô Viết). “Bí mật đảo Lincoln”…có thể nói là hình ảnh thu nhỏ của lịch sử văn minh Châu Âu, do đó, cũng là lịch sử phát triển khoa học…” (Báo Tiếng Nói, Peterburg, Nga, 1985 *** Sau khi các tiểu thuyết “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1868) và “Hai vạn dặm dưới biển” (1870) ra đời, được bạn đọc gần xa nhiệt liệt tán thưởng, năm 1875, Jules Verne (1828 - 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng, một trong những người sáng lập thể loại truyện khoa học viễn tưởng, đã cho xuất bản tiếp tiểu thuyết “Bí mật đảo Lincoln”[1]. Trong cuốn tiểu thuyết mới này, tác giả đã tiếp tục phát triển cốt truyện sinh động và hấp dẫn của hai tiểu thuyết trên, vì vậy nó đã liên kết các tác phẩm ấy thành bộ tiểu thuyết ba tập duy nhất và nổi tiếng nhất của Jules Verne: “Những đứa con của thuyền trưởng Grant”, “Hai vạn dặm dưới biển” và “Bí mật đảo Lincoln”.   Ta gặp trong “Bí mật đảo Lincoln” kỹ sư Cyrus Smith, nhà báo Gédéon Spilett, anh da đen Nab, thủy thủ Pencroff và chú thiếu niên Harbert. Họ là những người Mỹ lương thiện trốn khỏi trại tù binh bằng một quả khinh khí cầu, nhưng chẳng may bị bão cuốn, gặp tai nạn, rơi xuống một hòn đảo hoang ở Thái Bình Dương, cách rất xa đất liền, trở thành những người trần trụi giữa mảnh đất trần trụi. Họ thiếu thốn đủ mọi thứ cần thiết nhất cho cuộc sống của con người bình thường: không có cái ăn, không có lửa, không có một cái gì có thể gọi là công cụ… Thực tế đã buộc họ trở lại sống chẳng khác gì những người hoang sơ: ở hang, dùng đá, gậy, cung, tên để săn bắt muôn thú sống qua ngày. Song, là những người từng trải, mỗi người lại có những kiến thức và kinh nghiệm sống trong xã hội văn minh, họ không tỏ ra thất vọng, bi quan, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh khắc nghiệt. Dưới sự hướng dẫn của kỹ sư Cyrus Smith, một người trí thức tài năng, rất cần cù, sáng tạo, đôn hậu và chân thành, linh hồn của cả toán, những người bị nạn ấy đã dần dần vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật để chinh phục thiên nhiên, khai thác các tài nguyên tại chỗ, làm ra những thứ cần thiết cho cuộc sống của con người văn minh - lấy lửa, nung gạch, luyện sắt thép, chế thuốc súng, vũ khí, công cụ lao động, máy điện báo, đóng tàu, trồng lúa, nuôi gia súc, gia cầm… Từ những người bị nạn họ trở thành những người di dân chung sức chung lòng xây dựng hòn đảo hoang mà họ đã đặt tên là đảo “Lincoln” thành một vùng di dân trù phú, một công xã tiêu biểu cho lối sống mới - con người trong cộng đồng, trong tập thể đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau, không phân biệt địa vị xã hội, màu da, cùng hòa mình trong lao động tận tụy vì sự nghiệp chung…   Cư dân thứ sáu trên đảo là Ayrton. Đó chính là tên tướng cướp Ben Joyce trong “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” đã bị đày lên đảo Tabor (cách đảo Lincoln 150 hải lý) từ 12 năm trước đây để tự cải tạo, chuộc lại những tội lỗi của mình, trong một chuyến tàu đi thăm đảo Tabor, những người di dân trên đảo Lincoln đã tìm thấy anh ta trong trạng thái không còn là một con người, mà đã hoang hóa thành một con thú sau những năm tháng sống cô đơn và mất lý trí. Những người di dân đã đưa anh ta trở về sống trong xã hội nhỏ bé của mình. Và, trước niềm tin yêu con người mạnh mẽ cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của những người bạn mới, Ayrton đã bị cảm hóa và tự thú tội lỗi, trút bỏ dần nỗi u sầu, mặc cảm về quá khứ đen tối của mình, trở thành một người lao động cần cù và trung thực. Chính anh ta đã tham gia chiến đấu dũng cảm, giáng trả quyết liệt bọn cướp biển đến xâm chiếm đảo, bảo vệ những thành quả lao động mà tập thể họ đã tạo dựng nên, đồng thời khẳng định sự trung thành của mình.   Bạn đọc cũng sẽ bất ngờ và thích thú được gặp lại nhân vật yêu thích của mình trong “Hai vạn dặm dưới biển” - thuyền trưởng Nemo bí ẩn cùng với con tàu ngầm kỳ diệu “Nautilus” của ông trú đậu ngay bên dưới hòn đảo “Lincoln”. Nhưng, bây giờ đây chúng ta sẽ gặp lại một thái tử Dakkar, một người Ấn Độ yêu nước, một Nemo đầy lòng căm ghét, nguyền rủa sự áp bức, bóc lột và sự thống trị tàn bạo của giai cấp tư sản và thực dân đế quốc đối với nhân dân lao động, song ông không còn xa lánh xã hội loài người nữa. Chính là do tấm lòng cao thượng, đức tính trung thực, lao động cần cù và tình thương yêu gắn bó lẫn nhau của những người di dân - những đại diện của xã hội loài người trên hòn đảo này - đã thuyết phục, cảm hóa ông. Và, vì vậy, ông đã bí mật gắn bó với họ và nhiều lần ra tay cứu giúp họ thoát khỏi hiểm họa.   Trên đảo “Lincoln” liên tiếp xảy ra những sự việc bí ẩn, bất ngờ liên quan đến cuộc sống của những người di dân, khiến người đọc hồi hộp theo dõi. Những hiện tượng ấy tưởng như siêu nhiên, nhưng thật ra, tất cả đều được giải thích rõ ràng bởi chính sức mạnh của khoa học kỹ thuật, đúng hơn là, bởi chính những con người được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật, bởi lòng nhân đạo và niềm tin vào con người.   … Hòn đảo “Lincoln”, khu di dân, thực chất là một công xã kiểu mẫu mà những con người lao động cần cù, dũng cảm đã xây dựng nên và gắn bố suốt bốn năm trời ấy cuối cùng đã bị nổ tung, chỉ còn lại một tảng đá ngầm.   Vì sao tác giả lại kết thúc cuốn truyện đầy hấp dẫn của mình bằng một sự bi đát như vậy?   Có lẽ ở đây sự kết thúc ấy không phải chỉ thể hiện diễn biến của cốt truyện, mà còn mang một ý nghĩa triết học.   Jules Verne là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa xã hội không tưởng và Công xã Paris. Ông muốn khi di dân, hay cái công xã kiểu mẫu ấy tồn tại không phải trên một hòn đảo chơi vơi, xa cách với loài người, mà ở ngay trên đất liền, giữa thế giới con người…   Và, những người di dân ấy, kể cả con chó Top trung thành của họ, đều đã được con tàu “Duncan” tình nghĩa cứu thoát và đưa về Mỹ… Họ tiếp tục sống với nhau trong tình cảm cao đẹp như xưa, và đã dùng số châu báu của thuyền trưởng Nemo tặng để tái tạo một khu di dân, một công xã “Lincoln” mới ngay trong lòng nước Mỹ, thu nhận vào đây những người khốn khó, giúp họ lao động và xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong một cộng đồng mới đầy tình yêu thương, tin tưởng vào con người, bình đẳng và không có chế độ người bóc lột người…   “Bí mật đảo Lincoln” là cuốn tiểu thuyết vừa mang tính chất phiêu lưu mạo hiểm, lại vừa mang tính chất khoa học viễn tưởng với nội dung phong phú và hấp dẫn. Tuy nhiên, để cho phù hợp với hoàn cảnh của ta hiện nay, trong khi dịch chúng tôi đã lược bớt một số đoạn để tập sách khỏi dày quá. Mặt khác, việc dịch thuật chắc không tránh khỏi những thiếu sót. Mong được bạn đọc thông cảm và đóng góp cho những ý kiến phê bình.   Người dịch  *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne.
Bên Kia Đồi Cỏ Còn Xanh? - Adele Parks
“Bên Kia Đồi Cỏ Còn Xanh?” của tác giả Adele Parks (nữ văn sĩ miền đông bắc nước Anh), thuộc thể loại văn học tiểu thuyết lãng mạn. Câu chuyện kể về hạnh phúc gia đình giữa Connie và Luke. Connie đã hạnh phúc với chồng sau một năm chung sống. Nhưng cô đã gặp John Harding. Hãy tưởng tượng đó là người đàn ông quyến rũ nhất mà bạn từng biết tới. Anh ta vui tính, bất kính, tốc độ, tự tin, và là thành phần không thể thiếu ở các quán bar. Anh ta còn hoàn toàn vô đạo đức. Anh ta chuẩn bị phá vỡ sự yên bình trong tâm hồn Connie, niềm tin vững chắc của cô vào một cuộc sống hạnh phúc bên nhau trọn đời với người chồng đáng yêu và dịu dàng của mình – Luke. Điều gì sẽ xảy ra nếu chồng cô phát hiện? Connie… vẫn còn chưa tìm ra câu trả lời. Nhưng cô biết rằng mình đang chơi ngược lại quy luật, và mình đang đùa với lửa. Những thông điệp nhẹ nhàng nhưng sâu sắc đầy ý nghĩa về tình yêu và hạnh phúc gia đình sẽ đem lại cho bạn những trải nghiệm tuyệt vời, cũng như giúp bạn có những cái nhìn khác hơn về hôn nhân và những sự lựa chọn. *** “Tôi lập gia đình rồi.” Tôi nói. “Còn tôi là tên khốn đấy.” Anh ta mỉm cười. Vừa đề phòng vừa thách thức. Đơn giản. Không thể. Cưỡng lại được. “Gần giống như một vụ ngoại tình vụng trộm, mặc dù không hoàn toàn như thế!” Connie đã hạnh phúc với chồng sau một năm chung sống. Nhưng cô đã gặp John Harding. Hãy tưởng tượng đó là người đàn ông quyến rũ nhất mà bạn từng biết tới. Anh ta vui tính, bất kính, tốc độ, tự tin, và là thành phần không thể thiếu ở các quán bar. Anh ta còn hoàn toàn vô đạo đức. Anh ta chuẩn bị phá vỡ sự yên bình trong tâm hồn Connie, niềm tin vững chắc của cô vào một cuộc sống hạnh phúc bên nhau trọn đời với người chồng đáng yêu và dịu dàng của mình – Luke. Điều gì sẽ xảy ra nếu chồng cô phát hiện? Và nếu không thì chuyện gì sẽ xảy ra? Connie … vẫn còn chưa tìm ra câu trả lời. Nhưng cô biết rằng mình đang chơi ngược lại quy luật, và mình đang đùa với lửa.   Mời các bạn đón đọc Bên Kia Đồi Cỏ Còn Xanh? của tác giả Adele Parks.