Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hắc Miêu Quán

Trong rừng mù sương tồn tại một ngôi nhà lớn, tên là Hắc Miêu Quán, kiến trúc cũng không lấy gì làm kì dị lắm trừ hai điểm. Một là chong chóng trên nóc mang hình mèo chứ không phải gà như thường thấy. Hai là lại thiết kế bởi thiên tài lập dị Nakamura Seiji. Quản gia của Hắc Miêu Quán mất trí nhớ, quên sạch sự kiện và cả tên mình sau một vụ cháy. Tha thiết tìm lại quá khứ để chết còn nhắm mắt được, quản gia đã đem Nakamura ra làm mồi nhử fan bự của ông ta đến nhà này.  Cùng với người bạn đồng hành trẻ tuổi Conan, fan bự đã đến, và đi lạc vào một thế giới hai mặt. Hắc Miêu Quán là cuốn thứ sáu trong series trinh thám Quán của Yukito Ayatsuji, đi liền sau Thời Kế Quán. Nếu Thời Kế Quán gây ấn tượng bởi thiết kế huy hoàng, bẫy rập tinh vi, nạn nhân đông đảo đặt trong dòng thời gian đằng đẵng pha lẫn quá nhiều kí ức khổ sở, nhân thân phức tạp cùng lời chứng nhỏ vụn đến mức dễ bỏ qua, thì Hắc Miêu Quán lại tự khẳng định bằng chất mạch lạc tối giản. Tối giản về kiến trúc, tối giản về nhân vật, tối giản về động cơ… nhưng lại thâm thúy và khó lường ở ý tưởng xây dựng, đây cũng là mánh khóe lớn nhất mà sự khám phá thuộc độc quyền của ngài thám tử cao gầy, như cây tre miễu. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. *** Tác giả: Yukito Ayatsuji. Dịch giả: Hải Yến Thể loại: Trinh thám Nhật. Mức độ yêu thích: 8.5/10 Tôi thật sự thích “Thập giác quán” dù nhiều người chê truyện đó, nên tôi đã đọc toàn bộ những cuốn Quán đã được dịch tiếng Việt + bộ Another của tác giả Yukito Ayatsuji, thậm chí còn nhớ được cái tên (hình như là bút danh) khá dài và rắc rối của ông tác giả này (tác giả là nam, không phải nữ). Giữa hai cuốn mới mua gần đây là “Thời kế quán” và “Hắc miêu quán” thì tôi chọn đọc mèo đen trước vì cuốn này mỏng và bìa ngoài xấu. HẮC MIÊU QUÁN   Một năm trước, một nhóm bốn người bạn – trong đó có con trai chủ nhà – ghé Hắc Miêu Quán để nghỉ dưỡng (thực chất là để ăn chơi + hút cỏ). Họ nhận được sự tiếp đón miễn cưỡng của ông quản gia già. Hắc Miêu Quán là tòa nhà màu đen bí ẩn nằm trong sương mù, tường ngoài đen, tường trong xen kẽ gạch đỏ – trắng, trên mái nhà có chong chóng hình mèo, cũng được thiết kế bởi kiến trúc sư lập dị đã thiết kế các tòa “Quán” khác. Tuổi trẻ ham vui, hai trong số bốn người lái xe đi dạo và đưa về một cô gái trẻ. Trong cuộc ăn chơi thác loạn nửa đêm, án mạng đã xảy ra. Thay vì báo cảnh sát, những người trong nhà thông đồng với nhau để giấu xác, trong khi ngay chính họ cũng không biết ai là thủ phạm. ____ Bối cảnh chuyển đến một năm sau, khi một nhà văn trinh thám cùng người bạn trẻ tuổi của mình tình cờ đọc được sổ ghi chép về những chuyện đã xảy ra, được viết bởi người quản gia Hắc Miêu Quán. Do hoàn cảnh đưa đẩy, họ quyết định tìm đến địa điểm đã xảy ra án mạng để thỏa mãn trí tò mò – chứ không phải để điều tra. Trừ cuốn “Nhân hình quán” mà tôi cho rằng kém hay nhất trong những cuốn Quán tôi từng đọc, nhìn chung thì tôi thích chất trinh thám suy luận + khả năng xây dựng cốt truyện tài tình và đầy tính đánh đố của tác giả Yukito. Hầu như cuốn nào cũng khiến tôi có chút hồi hộp trong khi đọc, thỉnh thoảng vỡ òa những chi tiết bất ngờ (tôi cũng có cảm giác tương tự như khi đọc truyện của một tác giả yêu thích khác của mình là Jeffery Deaver). “Hắc miêu quán” tuy mỏng nhỏ nhưng chứa đựng đầy đủ sự thú vị cuốn hút cần có của một quyển trinh thám, động cơ nghe cũng hợp lý, cách lý giải của (các) vụ án mạng trong cuốn này không quá ảo và khiên cưỡng như trong cuốn “Hokkaido Mê trận án”. Cách xử lý cuối truyện cũng khiến tôi tương đối hài lòng dù nghĩ kỹ lại thì tôi không nên hài lòng với kết cuộc đó! Vốn có một sự yêu thích nhất định đối với văn hóa Nhật nói chung và trinh thám Nhật nói riêng nên tôi hoàn toàn ổn và rất kiên nhẫn với những tên người + tên địa danh dài ngoằng trong truyện Nhật, cụ thể là trong cuốn “Hắc miêu quán” này, nhưng thú thật đôi lúc những cái tên bốn chữ + họ bốn chữ (tức là tên họ ghép lại đọc đến tám âm tiết) cứ trôi tuột khỏi đầu tôi như nước đổ lá khoai, may mà tôi vẫn nắm được là đang nói đến nhân vật nào. Trong truyện có một chi tiết thú vị khiến tôi thích, đó là “Kawaminami” được gọi thành “Conan”, nếu ai có hiểu biết về Kanji của tiếng Nhật sẽ hiểu ngay vì sao một cái tên dài nhằng có thể gọi lại ngắn gọn như vậy. Bên cạnh đó, tuy tác giả đã rất tử tế vẽ sơ đồ đầy đủ của Hắc Miêu Quán (cuốn Quán nào cũng có sơ đồ tòa nhà và danh sách nhân vật đầy đủ tên tuổi nghề nghiệp) nhưng tôi vẫn loạn lên với các địa danh và phương hướng, do đó chỉ chú ý đọc xem diễn tiến truyện ra sao. Với khả năng tiếp thu chỉ 70% truyện như thế, tôi vẫn kết luận rằng mình thích cuốn “Hắc miêu quán” này, mức độ yêu thích ngang bằng với “Thủy xa quán” nhưng kém “Thập giác quán” một chút. Từ lần đầu nhìn thấy bìa “Hắc miêu quán” thì tôi đã không thích lớp bìa ngoài vì trông nó tối tăm mù mờ và không đẹp, nhưng tôi hài lòng với bìa trong của sách. Tuy không tán đồng cách làm sách có hai lớp bìa (vì sẽ tốn tài nguyên giấy, hại môi trường) nhưng tôi thích những cuốn hai lớp bìa như rứa, nếu không thích lớp áo thì có thể lột áo để trần trụi với nhau. Cũng như những cuốn khác của IPM, “Hắc miêu quán” được dịch thuật và biên tập kỹ, trình bày đẹp, trong cuốn này tôi không phát hiện lỗi chính tả hay lỗi in ấn nào. Sách nhỏ mỏng nên với kiểu đọc thiếu tập trung thì tôi đọc xong trong hai ngày, nếu chú tâm chắc có thể đọc xong trong nửa ngày. Cuốn này đã góp phần củng cố tình cảm và sự trung thành của tôi đối với series Quán của tác giả Yukito Ayatsuji. (Sea, 22-5-2020) Cáo Biển Non Xanh *** CHỦ NHẬT 8/7/1990 VÙNG HỒ AKAN, TỈNH HOKKAIDO* Ba người đứng trước cổng, sương mù có vẻ như đã chờ đợi khoảnh khắc này từ rất lâu, dần lan ra từ cánh rừng vân sam rộng mênh mông sau lưng họ. Kawaminami Takaaki khẽ xoa lên phần cánh tay lộ ra khỏi ống sơ mi cộc tay của mình, sau đó xoay người lại. Chiếc xe con chở họ đang đỗ phía trước khoảng vài mét, gần như chặn quá nửa con đường nhỏ hẹp dẫn vào rừng. Thân xe màu xám đã sớm hòa vào màn sương trắng xóa. “Sương dày thật đấy.” Đứng trước Kawaminami vài bước chân, một người cao lớn mặc áo khoác xanh nõn chuối khẽ lẩm bẩm. “Ái chà. Tôi có cảm giác màn sương đuổi theo mình từ Kushiro*.” Người này là nhà văn trinh thám Shishiya Kadomi. Anh ta gầy trơ xương, thân hình cực kì mảnh khảnh. Shishiya đưa tay vuốt mái tóc xoăn mềm, đồng thời gỡ cặp kính đen xuống, quan sát người đàn ông đứng bên cạnh. “Sao rồi, ông Ayuta? Ông có nhớ ra được điều gì không?” “Hừm…” Ayuta Toma ngẩng lên nhìn cánh cổng trước mặt, im lặng hồi lâu, mãi sau mới chịu lên tiếng, “Tôi thấy rất quen.” Giọng ông ta nghe chảng có chút tự tin nào. Ayuta là người gầy gố ốm yếu, lưng hơi gù, cùng lắm chỉ tầm sáu mươi tuổi, nhưng điệu bộ, cử chỉ trông già nua lắm rồi. Ông đội mũ không vành màu nâu để che đi cái đầu hói, mắt trái đeo chụp mắt màu trắng. Quanh chụp mắt là một vết sẹo bỏng rất lớn, lan tới tận gò má và quai hàm, khiến người ta không dám nhìn lâu. Dõi theo ánh mắt Ayuta, Kawaminami cũng nhìn về phía cổng chính. Cổng này rất cao. Trụ cổng bằng đá màu nâu thẫm sừng sững trông chẳng khác nào thân cây mọc lên từ đám cỏ dại. Không thấy biển số nhà, như thể ngay từ đầu đã chẳng hề có. Cánh cửa chia ô bằng đồng cũ nát khủng khiếp. Hàng rào đồng đen ở hai bên ngăn cách ngôi nhà với khu rừng xung quanh. Màn sương dày lặng lẽ len qua các ô vuông trên cổng. Khi nãy mới xuống xe, họ còn thấy thấp thoáng đường nét ngôi nhà, nhưng giờ nó đã biến mất trong màn sương trắng xóa. Mối chốt cổng quấn xích sắt màu đen, phía trên treo một ổ khóa, nhìn rất chắc chân. Shishiya tiến lên, bám hai tay vào khung sắt lắc thử, cánh cổng không hề nhúc nhích. “Shishiya, anh nhìn bên kia Ida.” Kawaminami trỏ sang trái cổng, “Nhìn xem! Bên đó có cổng phụ.” “Hả? Có thật này.” Cổng phụ nằm ở mé bên cổng chính, phía trong là chốt cài đơn giản, chỉ cần luồn tay vào ô vuông cửa là dễ dàng mở ra. Phải nói là khá may. Nếu có mỗi Shishiya và Kawaminami, cả hai có thể trèo cổng hoặc dùng cách khác vào trong, nhưng vì còn có ông Ayuta đồng hành nên không tùy tiện như thể được. “Vào thôi, Conan.” Shishiya mở cửa, quay đâu nhìn hai người còn lại, “Ông Ayuta, chúng ta vào thôi.” Khoác chiếc cặp cùng màu áo khoác lên vai, Shishiya đi trước, bước qua cổng phụ chật hẹp. Ông Ayuta lập tức nối gót, tay phải chống ba toong màu nâu. Kawaminami đi sau cùng. Cả ba rón rén tiến vào giữa lớp sương trắng dày đặc. Bốn bề vang vọng tiếng chim rừng. Giờ đã là đâu tháng Bảy, dù đang giữa trưa nhưng trời chẳng hề ấm lên. Kawaminami thấy lạnh, lại xoa xoa lên cánh tay. Cậu hối hận vì để áo len trên xe, không mang ra ngoài. Mặc dù tầm nhìn bị sương dày cản trở, không thể quan sát rõ ràng, nhưng sân trước có vẻ khá rộng rãi, đâu đâu cũng thấy cây cối mọc xum xuê. Kích thước và độ cao của các cây không hề giống nhau, có cây chưa tới một mét, cố cây lại cao ba, bốn mét liền. “Conan, nhìn kìa!” Shishiya tiến lại gần một cây, quan sát cành lá rồi nói, “Đây là cây hoàng dương, trông cứ tưởng rất lâu rồi chưa được tỉa tót, nhưng nếu quan sát kĩ sẽ thấy bên trong còn lưu lại dấu vết tia cành.” “Tia cành ư?” “Chính là cắt tia cành định kì đế tạo dáng cho cây đấy.” Bằng chứng đây. Cậu nhìn xem, nó có hình gì?” “Hình…” Kawaminami nhìn chằm chằm vào cây, không nói nên lời. Cậu chợt nhớ tới một đoạn trong sổ ghi chép: Trước đây, cây cối trồng ở sân trước được tỉa tót thành hình các con vật. Có thể do màn sương mờ huyễn hoặc, thoáng nhìn qua sẽ thấy bóng cây này giống một con mèo to. Lẽ dĩ nhiên, cái tên Hắc Miêu Quán cũng có ảnh hưởng nhất định tới tâm lý cậu lúc này. Shishiya khẽ vuốt cái cầm nhọn của mình, giẫm lên đám cỏ dại mọc cao quá bàn chân rồi xoay người lại. Ông Ayuta đứng cạnh anh, không ngừng ngó nghiêng tứ phía. Ít nhất thì trước tháng Chín năm ngoái, ông vàn còn là quản gia của nhà này. Ông lão mất trí nhớ đang cố gắng tìm lại những mảnh vụn kí ức trong đầu mình. Có thể màn sương phiền phức đã khiến người ta mất đi cảm giác vốn có. Vắt ngang qua khoảng sân trước rệu rã là lối đi lát gạch đỏ chừng vài trăm mét đản đến ngôi nhà trước mặt. “Cuối cùng cũng tới.” Shishiya thốt lên, “Đây là Hắc Miêu Quán sao?” Trên tường xám bụi bẩn là dãy cửa sổ nhỏ hình chữ nhật. Mái nhà dốc cao, tạo thành hình chóp nhọn. Thoạt nhìn, ngôi nhà nhỏ hai tầng này chẳng có gì kì lạ, nhưng chỉ riêng việc nằm ẩn mình trong khu rừng ít người qua lại ở Hokkaido cũng đủ khiến người ta cảm thấy bất thường. Hơn nữa, hai mươi năm trước, chính Nakamura Seiji đã thiết kế ngôi nhà này. Nghĩ tới việc mùa hè năm ngoái, ở đây đã xảy ra sự kiện được viết lại trong cuốn sổ ghi chép kia, Kawaminami vẫn thấy nổi hết da gà. “Cái chong chóng mèo ở đâu nhi?” Shishiya đứng thẳng người, ngước lên nhìn mái nhà. Kawaminami bắt chước anh, ngẩng đầu ngó quanh quất nhưng không thấy con mèo đâu. “Kia!” Ông Ayuta giơ cánh tay đang chống gậy lên, “Ở kia kìa, đã nhìn thấy chưa?” Theo hướng ông chỉ, mọi người nhìn về phía mé phải ngôi nhà, trên chỗ mái cao nhất là một cái bóng xám nhạt. Thông thường, trên mái nhà hay đặt chong chóng gió hình con gà, nhưng ở đây lại thay thế bằng chong chóng hình động vật khác. Tuy khó quan sát thực hư qua màn sương mù dày đặc, nhưng có thể thấy được mũi tên này không hề giống con gà. “Là cái kia sao?” Shishiya nhìn lên mái, hai tay khoanh trước ngực, toàn thân bất động. Bỗng nhiên, anh nghiêng nghiêng cái đầu, thấp giọng lẩm bẩm mấy câu rồi xoay người lại nói với ông Ayuta, “Chúng ta vào trong thôi.” “Nhưng cửa bị khóa rồi.” Kawaminami nhắc nhở, Shishiya lại khẽ nhún vai. “Thì nghĩ cách đi. Vất vả lắm mới tới được đây, không thể ra về tay không được.” “Tất nhiên.” Một cơn gió lớn chợt thổi qua, cây cối trong vườn xào xạc. Lớp sương mù dày đặc cuối cùng cũng chịu tản đi, ánh nắng giữa trưa lập tức trải đầy trên mặt đất. “Được rồi, chúng ta vào thôi!” Shishiya gọi lớn rồi bước tới hàng hiên vừa được ánh nắng chiếu rọi của Hắc Miêu Quán. Kawaminami liếc nhìn một lần nữa cái chong chóng mèo đang liên tục đổi hướng, kêu lách cách trên mái nhà. Sau đó, cậu mới cùng ông Ayuta bước vào trong. Mời các bạn đón đọc Hắc Miêu Quán của tác giả Yukito Ayatsuji & Hải Yến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Chứng Câm - Agatha Christie
Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Ngày 1 tháng 5, tiểu thư Arundell từ trần sau một cơn đau ngắn ngủi. Cái chết của tiểu thư không gây ra bất kỳ một chút kinh ngạc nào ở cái thị trấn thôn dã Market Basing nhỏ nhoi này, nơi tiểu thư đã sống từ năm mười sáu tuổi. Thực ra cô gái già này đã quá tuổi bảy mươi, và ai cũng biết là sức khỏe của bà khá mỏng manh. Mười tám tháng trước, bà đã bị một cơn đau gan giống hệt cơn vừa mới rước bà đi. Nếu cái chết của tiểu thư Arundell không làm ai ngạc nhiên thì tờ di chúc của bà lại không phải như vậy. Những ý nguyện cuối cùng của nữ chủ nhân biệt thự Littlegreen đã gây ra ở những người thân của bà biết bao cảm xúc rất khác biệt: kinh ngạc, vui mừng, chê bai, giận dữ và thất vọng. Trong nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng ở Market Basing người ta không nói đến chuyện gì khác cả. Mỗi người phát biểu một cách, từ ông John, bác hàng khô, nhà bảo vệ quyền gia đình đến bà Lampri, cô hàng thuốc lá, ai cũng lặp đi lặp lại cả ngày rằng: "Chắc có gì ám muội đây! Các vị cứ nhớ lấy lời tôi!". Chuyện tiểu thư Arundell viết tờ di chúc này, ngày 21 tháng 4 nghĩa là chỉ ít ngày trước khi chết, cũng đủ để khuấy động tâm trí người ta lên rồi. Hơn nữa, nếu ta biết rằng những người thân cận nhất của Emily Arundell đã đến Littlegreen nghỉ lễ Phục sinh thì sẽ dễ dàng hiểu rằng những giả thuyết tai tiếng nhất đã được phát ra, đem đến cho cuộc sống buồn tẻ của cư dân Market Basing một trò giải khuây thú vị. Người ta ngờ rằng bà Wilhelmina Lawson, tùy nữ của tiểu thư Emily Arundell đã biết nhiều về vụ rắc rối này mà không định nói ra. Tuy thế bà Lawson vẫn khẳng định là mình không biết gì hơn những người khác, và còn tỏ ra sững sờ khi đọc tờ di chúc. Nhiều người nghi ngờ tính thành thực của bà ta. Dù sao thì cũng có một người duy nhất biết đích xác bí mật này: Đó là người chết. Theo thói quen, tiểu thư Arundell chỉ hỏi ý kiến bản thân mình để soạn thảo những ý nguyện cuối cùng của mình và bà cũng tránh bộc lộ cho công chứng viên của bà biết những lý do đã buộc bà đổi ý vào giờ chót. Sự giữ kín này của tiểu thư Arundell là điểm nổi bật về tính cách của bà. Là sản phẩm điển hình của thời Nữ hoàng Victoria, bà có những ưu điểm cũng như những khuyết điểm của thời đại. Bề ngoài kiêu kỳ trong bà ẩn giấu một trái tim vàng. Lời nói của bà ngấn gọn, nhưng hành vi của bà biểu lộ một tâm hồn nhân hậu. Và trong thâm tâm bà bảo tồn nhiều điều tế nhị. Các tùy nữ không tồn tại được lâu ở Littlegreen: tiểu thư Arundell vừa hành hạ họ không thương tiếc, vừa đối đãi rộng lượng với họ. Hơn nữa còn bày tỏ công khai là bà hết sức tôn sùng gia đình dòng họ mình. Thứ Sáu trước ngày Chủ nhật Lễ Phục sinh, Emily Arundell ngồi ở tiền sảnh nhà mình và ra chỉ thị cho bà Lawson. Thời con gái, Emily Arundell rất xinh đẹp. Hiện nay cô gái già này vẫn giữ được dáng dấp thanh nhã, cũng còn rất năng động. Nước da bà khá vàng, cho ta biết bà vẫn phải thực hiện chế độ ăn kiêng. Tiểu thư Arundell nói với bà tùy nữ: - Này u! U đã thu xếp cho họ chỗ nghỉ ở đâu rồi? - Quả là con tin... con hy vọng đã xếp sắp ổn rồi... Bác sĩ Tanios và phu nhân ở phòng gỗ sồi, Theresa ở phòng sơn xanh, còn cậu Charles ở phòng ngày xưa dành cho trẻ con... Tiểu thư Arundell ngắt lời bà ta: - Tốt hơn cho Theresa ở phòng trẻ con, còn phòng xanh để cho Charles. - Vâng, vâng... con xin lỗi... con tưởng phòng trẻ con là thích hợp hơn với... - Theresa ở đó sẽ rất tốt. Tiểu thư Arundell thuộc thế hệ coi phụ nữ là thứ yếu. Trong mắt bà, nam giới là bộ phận quan trọng trong xã hội. - Con tiếc rằng các con nhỏ của bà Tanios không đến. - Bà Lawson nói thì thào, giọng buồn buồn. Bà rất yêu trẻ nhưng lại tỏ ra kém khả năng cai quản chúng. - Bốn vị khách là vừa đủ cho chúng ta rồi. - Tiểu thư Arundell vặc lại, bà rất nuông chiều các cháu bà, còn họ chẳng chịu nghe lời bà chút nào. U Lawson thở dài nói: - Bella Tanios là một người mẹ hiền từ. - Phải, Bella, rất tốt. - Tiểu thư Arundell chấp nhận. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Câm của tác giả Agatha Christie.
Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.
Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.
Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.