Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tham Thiền Huyền Linh (Alice Bailey)

MỤC LỤC

Lời nói đầu.. 922

BỨC THƯ I.

Sự Chỉnh hợp của Chân Ngã với Phàm Ngã... 14

Chỉnh hợp và sự rung động.. 15 Tìm mua: Tham Thiền Huyền Linh TiKi Lazada Shopee

Sự điều hợp của Chân ngã. 17

Sự chỉnh hợp của đại vũ trụ và tiểu vũ trụ.. 18

BỨC THƯ II...

Sự quan trọng của tham thiền. 21

BỨC THƯ III.

Những điểm cần cứu xét khi ấn định sự tham thiền... 27

1- Cung của Chân ngã. 29

2- Cung phàm ngã của người môn sinh. 33

Một minh họa thực tế. 34

3- Điều kiện nghiệp quả của môn sinh. 36

A. Trình độ tiến hóa của môn sinh:.. 38

B.- Trọng lượng riêng và dung tích của thể nguyên nhân. 44

4- Tình trạng của thể nguyên nhân.. 49 a- Mối liên quan của Chân Ngã với Đại Đoàn

Chưởng Giáo. 50 b- Sự liên quan của Chân Ngã đối với trong việc tự phát triển của nó. 54 c- Liên quan giữa các Chân Ngã... 55

5- Nhu cầu cấp thiết của thời đại và khả năng hiện có của con người... 57

Vài lời khích lệ.. 61

9- Những nhóm nội và ngoại môn mà người môn sinh liên hệ. 63

Thư về Tham Thiền Huyền Linh

BỨC THƯ IV..

Sử dụng Thánh Ngữ khi tham thiền... 69

Những nguyên lý căn bản.. 70

Hiệu quả kép của Thánh Ngữ: tính cách xây dựng và phá hoại. 72

Bảy hơi thở lớn.. 73

Tham thiền và Thánh Ngữ... 77

Vài gợi ý thực tế... 80

Phát âm và sử dụng Thánh Ngữ trong tham thiền cá nhân. 81

Hòa âm của Thượng Đế và sự tương đồng... 84

Sử dụng Thánh Ngữ trong nhóm.. 85

Những nhóm dành cho những mục tiêu đặc biệt... 88

Bảy bí huyệt và Thánh Ngữ.. 91

Liệt kê các bí huyệt. 92

Bí huyệt lá lách. 93

Những bí huyệt chủ yếu.. 95

Sự phát triển và khai mở các bí huyệt.. 99

Hiệu quả của tham thiền huyền linh trên các bí huyệt. 103

Nhận xét tổng kết. 106

BỨC THƯ V.

Những nguy hiểm cần tránh trong khi tham thiền.. 110

Việc giữ lại thông tin.. 110

Những nguy hiểm cố hữu nơi phàm ngã. 117

Vài tư tưởng về lửa. 124

Những nguy hiểm cho bộ óc vật chất... 128

Những nguy hiểm cho thần kinh hệ... 129

Những nguy hiểm cho các cơ quan sinh dục. 131

Những nguy hiểm do nghiệp quả của môn sinh.. 132

Mục tiêu của tiểu vũ trụ.. 133

Những nguy hiểm do di truyền quốc gia và loại thể xác. 136

Những nguy hiểm đi kèm với nhóm.. 141

Ba loại nhóm liên hệ với môn sinh.. 142

Những nguy hiểm do các năng lực tinh vi gây ra.. 148

Ba nhóm thực thể. 148

Những nguy hiểm của sự ám ảnh... 150

Những nguyên do của sự ám ảnh... 152

Các loại thực thể ám ảnh.. 155

Những nguy hiểm từ sự tiến hóa thiên thần. 157

Nguy hiểm do các huynh đệ bên hắc đạo. 160

Các huynh đệ bóng tối... 164

BỨC THƯ VI..

Sử dụng hình thức khi tham thiền. 170

1- Sử dụng hình thức tham thiền để nâng cao tâm thức. 172

2- Những hình thức tham thiền của huyền bí gia và thần bí gia... 178

Hình thức tham thiền thần bí. 181

Hình thức tham thiền huyền linh. 182

Những hình thể do thần bí gia và huyền bí gia tạo ra thấy bằng thần nhãn... 184

Sử dụng những hình thức đặc biệt cho những mục tiêu đặc biệt. 187

Những hình thức thiền dùng cho ba hạ thể... 188

Những hình thức thiền của các cung. 190

Các hình thức thiền để chữa bệnh... 191

Các hình thức thiền bằng thần chú. 195

Các câu chú trong các cung... 198

Những hình thức thiền dùng cho một trong ba ngành. 200

Ba con đường tiếp cận... 202

1.- Con đường của Đức Bàn Cổ:. 205

2.- Con đường của Đức Di Lạc Bồ Tát.. 206

3.- Con đường của Đức Văn Minh Bồ Tát.. 207

Thư về Tham Thiền Huyền Linh

Những hình thức thiền để kêu gọi các vị thần và các tinh linh. 208

Các thần chú của quyền lực... 213

Sự hiểu biết về thần lực. 215

Các hình thức thiền dùng thần chú có liên hệ đến lửa. 220

Việc sử dụng hình thức thiền tập thể. 227

Sử dụng âm thanh tập thể trong các hình thức thiền... 230

Sử dụng nhịp điệu tập thể trong tham thiền. 235

Những cơ hội đặc biệt để sử dụng các hình thức tham thiền tập thể này.. 239

BỨC THƯ VII.

Sử dụng màu sắc và âm thanh. 243

Một vài lưu ý về màu sắc. 244

Liệt kê các màu sắc.. 251

Vài nhận xét về màu sắc... 254

Các màu sắc ngoại môn và màu sắc nội môn. 264

Sự tương ứng giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ... 266

Các tương ứng căn bản. 269

Màu sắc trong tiểu vũ trụ và trong đại vũ trụ. 271

Ảnh hưởng vào môi trường chung quanh.. 278

Ứng dụng của màu sắc.. 280

Sử dụng màu sắc khi tham thiền.. 280

Ứng dụng màu sắc để chữa bệnh. 284

Nhãn quan cao và sức khỏe. 287

Tiên đoán về tương lai... 292

Đồ hình các Huyền Giai thái dương và địa cầu.. 297

BỨC THƯ VIII..

Tiếp cận Chân Sư nhờ tham thiền. 298

Tìm kiếm mục tiêu... 298

Các Chân Sư là ai?.. 302

Điều kiện để tiếp cận Chân Sư.. 309

Ba mục tiêu của một đệ tử dự bị.. 311

Địa vị đệ tử nhập môn.. 314

Địa vị con của Đức Thầy. 316

Mối liên hệ của Chân Sư và Đệ Tử. 319

Các phương pháp tiếp cận và các hiệu quả đạt được. 328

Năm hiệu quả của tham thiền trong ba cõi thấp.. 334

BỨC THƯ IX...

Những trường tham thiền trong tương lai.. 343

Những nhận xét đầu tiên. 343

Những trường tham thiền tương lai. 245

Thiền viện nền tảng duy nhất... 348

Những phân chi ở các nước của trường duy nhất này. 353

Địa điểm, nhân sự và các cơ sở của thiền viện huyền môn.. 359

Thiền viện dự bị. 363

Thiền viện cao cấp... 367

Các bậc học và các lớp học... 373

BỨC THƯ X.

Sự tinh luyện các hạ thể.. 382

Việc huấn luyện thể xác... 383

Sự thanh lọc thể dĩ thái (hay thể sinh lực).. 386

Sự thanh lọc thể cảm dục. 387

Sự thanh lọc thể trí.. 390

BỨC THƯ XI...

Cuộc sống phụng sự hiệu quả. 393

Động lực phụng sự. 394

Các phương pháp phụng sự... 395

Thái độ sau khi hành động.. 399

NGỮ GIẢI... 402Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Alice Bailey":Ảo Cảm Một Vấn Đề Thế GianSự Hiển Lộ Của Thánh ĐoànChiêm Tinh Học Nội MônCung Và Điểm ĐạoLuận Về Huyền Linh ThuậtLuận Về Lửa Càn Khôn - Tập 1Luận Về Lửa Càn Khôn - Tập 2Sáu Giai Đoạn Trên Đường ĐạoSự Tái Lâm Của Đức ChristTâm Lý Học Nội MônTâm Thức Của Nguyên TửTham Thiền Huyền LinhTrị Liệu Huyền MônViễn Cảm Và Thể Dĩ TháiTừ Trí Tuệ Tới Trực GiácTự Truyện Chưa Hoàn Thành

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tham Thiền Huyền Linh PDF của tác giả Alice Bailey nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bát Quái Đạo số 12 (1938) - Hải Bằng
Bát-Quái-Đạo càng về sau càng ly kỳ, sẽ có nhiều cuộc thử tài của các phái võ, phái Đại Thiếu-Lâm sẽ phái người xuống giúp bạn Nam Thiếu-Lâm để đối trội với nhân vật phái Ngũ – Long bên Tây - Tạng. Nghĩa là trong pho chuyện này có đủ hết mặt các tay anh-hùng về đời nhà Thanh. Tự số 3 trở đi sẽ giảng vũ-thuật, nếu tiện sẽ có những hình vẽ rất rõ ràng, để các bạn dễ hiểu hơn, nhưng công việc ấy rất khó, gia cố hết sức để làm vừa lòng các bạn. Bát Quái Đạo Số 12NXB Đông Quang Văn Đoàn 1938Hải Bằng16 TrangFile PDF-SCAN
Biết Lối Quy Y - Thiều Chửu (NXB Đuốc Tuệ 1940)
Quy, nói đủ là quy-y. Quy-y nghĩa là minh tự biết minh say đắm cảnh đời, làm nhiều tội lỗi, cũng như người con cứng đầu cứng cổ, không ăn lời cha mẹ dạy, bỏ nhà ra đi đua đòi bạn xấu, làm càn làm bậy, đến nỗi tấm thân bơ vơ đất khác, đói khát giãi dầu, cảnh khổ ê trề, bây giờ mới nhớ đến cha mẹ mà quay đầu về ngay, thì lại được yên ổn xung xướng ngay. Lại như người đang bị ngã xuống bể, ngoi ngóp sắp chết, thấy có thuyền đến, liền ngoi lại ngay, khi lên được trên thuyền, thay áo khỏi rét, ăn cơm khỏi đói, hết sự sợ lại khốn khổ, được hưởng cái phúc no ấm xênh sang, thế là quy y. Biết Lối Quy YNXB Đuốc Tuệ 1940Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha)22 TrangFile PDF-SCAN
Đập vỡ vỏ hồ đào - Thích Nhất Hạnh
Lời tựaĐập vỡ vỏ hồ đào – Thiền sư Nhất Hạnh giảng Trung Quán LuậnNếu trong khoa học có những khối óc như Einstein thì trong Phật học cũng có những trái tim như Long Thọ. Bộ óc là để thấy và để hiểu, trái tim cũng là để thấy và để hiểu. Không phải chỉ có bộ óc mới biết lý luận. Trái tim cũng biết lý luận, và có khi trái tim có thể đi xa hơn bộ óc, bởi vì trong trái tim có nhiều trực giác hơn. Biện chứng pháp của Long Thọ là một loại lý luận siêu tuyệt có công năng phá vỡ mọi phạm trù khái niệm để thực tại có cơ hội hiển bày. Ngôn ngữ của biện chứng pháp có khả năng phá tung được màng lưới khái niệm. Ngôn ngữ của toán học chưa làm được như thế. Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng. Long Thọ thừa hưởng không gian khoáng đạt do các cánh cửa ấy cung cấp và vì vậy đã có khả năng khám phá trong kinh điển Phật giáo những viên bảo châu sáng ngời bị chôn lấp trong nền văn học Nikaya. Long Thọ nắm được cái tinh hoa của phương pháp học Phật giáo: loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc được với thực tại, một thứ thực tại bất khả đắc đối với những ai còn kẹt vào những phạm trù của khái niệm. Khoa học còn đang vùng vẫy để thoát ra khỏi cái nhìn nhị nguyên ấy: sinh-diệt, có-không, thành-hoại, tới-đi, trong-ngoài, chủ thể và đối tượng. Bụt Thích Ca nói: Có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không thành, không hoại để làm chỗ quay về cho tất cả những cái có, không, sinh, diệt, thành, hoại. Mà cái không sinh không diệt ấy, cái không chủ thể không đối tượng ấy, mình chỉ có thể tiếp cận được khi mình vượt thoát màn lưới khái niệm nhị nguyên. Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo. Tác phẩm tiêu biểu nhất của bộ óc và trái tim Phật học này là Trung Quán Luận. Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào.Nếu Einstein có thuyết Tương Đối Luận thì Long Thọ có Tương Đãi Luận. Tương đãi có khác với tương đối. Trong tuệ giác của đạo Phật, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái kia không có mặt thì cái này cũng không. Vì ngắn cho nên mới có dài, vì có cho nên mới có không, vì sinh cho nên mới có diệt, vì nhơ cho nên mới có sạch, nhờ sáng cho nên mới có tối. Ta có thể vượt thoát cái thế tương đãi ấy để đi tới cái thấy bất nhị. Biện chứng pháp Trung Quán giúp ta làm việc ấy. Theo tuệ giác Trung Quán, nếu khoa học không đi mau được là vì khoa học gia còn kẹt vào cái thấy nhị nguyên, nhất là về mặt chủ thể và đối tượng, tâm thức và đối tượng tâm thức. Kinh Kaccāyanagotta cho ta biết là người đời phần lớn đang bị kẹt vào hai ý niệm có và không. Kinh Bản Pháp (S.2, 149-150) và kinh tương đương Tạp A Hàm (Tạp 456) cho ta thấy cái sáng có là nhờ cái tối, cái sạch có là nhờ cái nhơ, cái không gian có là vì có cái vật thể, cái không có là nhờ cái có, cái diệt có là vì có cái sinh. Đó là những câu kinh làm nền tảng cho tuệ giác tương đãi. Niết bàn là cái thực tại không sinh, không diệt, không có, không không, không không gian cũng không vật thể… và Niết bàn có thể chứng đắc nhờ cái thấy bất nhị. Ban đầu ta có ý niệm tương duyên (pratītyasamutpāda), rồi ta có các ý niệm tương sinh, tương đãi. Sau đó ta lại có ý niệm tương tức và tương nhập. Tất cả cũng đều có một nội dung như nhau. Những ý niệm không, giả danh và trung đạo cũng đều có ý nghĩa đó.Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn. Những phẩm này đại diện được cho toàn bộ Trung Quán Luận.Thầy Long Thọ sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai trước Thiên chúa giáng sinh(B.C.), trong một gia đình Ấn Độ giáo. Lớn lên thầy đã học Phật và theo Phật giáo. Thầy đã sáng tác bằng tiếng Phạn thuần túy, thay vì bằng tiếng Pali hay bằng tiếng Phạn lai Phật giáo.Tác phẩm Trung Quán Luận của thầy có mục đích xiển dương Đệ Nhất Nghĩa Đế (Paramartha) của đạo Bụt. Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tuyệt đối. Ngoài sự thật tuyệt đối còn sự thật tương đối, tức là Thế tục đế (Saṃvrti). Sự thật tương đối tuy không phải là sự thật tuyệt đối nhưng cũng có khả năng chỉ bày, chuyển hóa và trị liệu, do đó không phải là cái gì chống đối lại với sự thật tuyệt đối. Mục đích của Long Thọ, như thế không phải là để bài bác chống đối sự thật tương đối mà chỉ là để diễn bày sự thật tuyệt đối. Nếu không có sự thật tuyệt đối thì thiếu phương tiện hướng dẫn thể nhập thực tại tuyệt đối, tức chân như hay Niết bàn. Vì vậy trong khi đọc Trung Quán Luận, ta thấy có khi như Long Thọ đang phê bình các bộ phái Phật giáo đương thời như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) hay Độc Tử Bộ (Pudgalavāda) hay Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Long Thọ không đứng về phía một bộ phái nào, không bênh vực một bộ phái nào, cũng không chỉ trích bài bác một bộ phái nào. Ông chỉ có ý nguyện trình bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của đạo Bụt, thế thôi.
Tam Ngươn Giác Thế Kinh - Chiếu Minh Đàn (NXB An Hà 1932)
Trong Trời Đất có ba Ngươn: Thượng ngươn - Trung Ngươn - Hạ Ngươn. Ba Ngươn ấy là cái số cuối cùng của Trời Đất. Thượng Ngươn là: ngươn đã gây dựng CKVT. Nên còn gọi là Ngươn Tạo Hóa hay Ngươn Thượng Đức, con người lúc ấy tánh chất hiền lương chất phát. Thuận tùng Thiên Lý, trên hòa dưới hiệp bảo vệ thương yêu nâng đỡ nhau, cùng chung nhau hưởng đời an lạc, gọi là đời Thượng Lực. Đến đời trung Ngươn, thì con người bỏ mất tánh thiện lương, càng ngày càng học hỏi thu thập nhiều thói hư xấu, rồi nghĩ ra nhiều mưu lược tương tàn, tương sát giết hại lẫn nhau, mạnh đặng yếu thua, miễn sao mình vinh thân phì da, không kể gì đến tính đồng loại, nghĩa đồng bào, bởi vậy nên còn gọi là Ngươn tranh đấu. Hạ Ngươn còn gọi là đời mạt kiếp: sự đấu tranh càng ngày càng gay go hung tợn. Chế tạo ra nhiều vũ khí tối tân, giết người hàng loạt. Mưu quỉ kế là ác độc phi thường. Thậm chí còn bày ra hạt nhân nguyên tử. Nếu đấu tranh càng lắm, thì cũng phải tới thời kỳ tiêu diệt, bởi thế còn gọi là đời mạt kiếp hay ngươn điêu tàn. Tam Ngươn Giác Thế KinhNXB An Hà 1932Chiếu Minh Đàn213 TrangFile PDF-SCAN