Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tháng Ngày Có Em (Từ Tốc)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tháng Ngày Có Em PDF của tác giả Từ Tốc nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Kim Bình Mai (có tranh)
THÔNG TIN EBOOK • Nguồn text: vnthuquan.net • Soát chính tả, thêm chú thích, gắn tranh: Bình An *** VỀ TÊN SÁCH “Kim Bình Mai” được ghép lại từ tên của 3 nhân vật nữ chính: Kim Liên (sen vàng), Bình Nhi (cô Bình/Lọ), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân). Bản thân cụm từ “Kim Bình Mai” cũng có nghĩa là “Nhành mai trong lọ vàng”, do đó, bản tiếng Anh của David Tod Roy đã dịch nhan đề là “The plum in the golden vase”. Mặt khác, theo David Tod Roy, nhan đề này cũng là một sự chơi chữ với cụm từ đồng âm có nghĩa là “Khoái cảm thâm nhập âm đạo”. CÁC HỆ VĂN BẢN Theo các nhà nghiên cứu, các văn bản Kim Bình Mai đang được lưu truyền có thể quy thành 3 hệ: • Hệ bản A: bản sớm nhất và gần với tác phẩm gốc nhất. Bản tiếng Anh của David Tod Roy được dịch từ hệ này. Theo dịch giả, ông đã dịch mọi thứ có trong hệ văn bản này. Cũng theo ông, bản dịch đầy đủ đầu tiên từ hệ A sang ngôn ngữ châu Âu là bản tiếng Pháp của André Lévy năm 1985. Các bản dịch trước đó đều từ hệ B hoặc C. • Hệ bản B và C: văn bản đã được sửa chữa, rút gọn; có thể có thêm lời bình. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng được dịch từ hệ này. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ A VÀ B,C Cũng như nhiều bạn đọc, ban đầu tôi lầm tưởng bản B-C là bản A cắt bỏ vài chi tiết nhạy cảm, nhưng khi so sánh bản tiếng Anh của David Tod Roy và bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng, tôi thấy nội dung khác nhau rất xa. – Bản lược (B-C) không phải là cắt bỏ vài cảnh, mà là đã được viết lại theo kiểu tóm lược bản A; có những cảnh trong bản A dài vài trang thì trong bản lược chỉ tóm lại vài dòng. – Bản A có rất nhiều thơ và lời hát; bản lược gần như bỏ hết, chỉ giữ lại vài bài. – Trong bản lược, có những chỗ người viết bịa ra những tình tiết mới không có trong bản A. Điển hình như các chương 2, 3, 4 trong bản lược được viết mới hoàn toàn. – Các chi tiết mô tả tính dục ở bản A đều được cắt bỏ hoàn toàn ở bản lược. Do sự khác biệt quá xa này nên không thể căn cứ vào bản lược để đánh giá giá trị văn chương của bản A. *** Trong phiên bản ebook này, tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của David Tod Roy (1993) để bổ sung thêm các chú thích so sánh sự khác nhau về chi tiết giữa bản lược và bản A, tuy nhiên cũng không thể truyền tải được không khí và mức độ táo bạo của bản gốc. Hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ có bản dịch đầy đủ của Kim Bình Mai. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ. (Chú thích hệ * là của nhà xuất bản, chú thích hệ số [1], [2]... là của người làm ebook.) Người làm ebook 09/2022 *** DỊCH GIẢ Nhà Hán học Nguyễn Quốc Hùng sinh năm 1938 trong một gia đình danh giáo, có thân phụ từng giữ chức Đốc học tỉnh Hải Dương. Năm 1969, khi chỉ mới 31 tuổi, ông đã công bố cùng một lúc bản dịch hai bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo và dịch thuật quý giá khác như Trung Quốc toàn sử, Lịch sử Văn hóa Trung Hoa, Lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa, Hán Việt tân từ điển… Năm 2003, Nguyễn Quốc Hùng qua đời tại Canada, để lại một số tác phẩm vẫn chưa kịp xuất bản. Bản Việt dịch Kim Bình Mai của Nguyễn Quốc Hùng ra đời ở Sài Gòn từ tháng 8 năm 1969, do Chiêu Dương xuất bản xã phát hành, được in thành 12 tập, mỗi tháng in từ 1 đến 2 tập. Đến đầu năm 1970, sách đã được in trọn bộ với tổng cộng hơn 2.700 trang. *** LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên địa vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi. Kim Bình Mai quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bịp bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch. Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục. Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt. Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu, đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy. Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội: Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc, con hát Lưu Quế Thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám người kí sinh trong xã hội đô thị. Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hình có xương có thịt. Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, Kim Bình Mai có một vị trí quan trọng. Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hành với điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573-1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết. Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại: Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc. Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học. Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thứ ba là tiểu thuyết “công án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án. Thứ tư là tiểu thuyết “thế tình” (tình đời). Loại này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội. Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, Kim Bình Mai được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của Dickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng Kim Bình Mai. Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với Kim Bình Mai: Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của Kim Bình Mai. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng Kim Bình Mai không sánh được. Ngay cả sau khi Kim Bình Mai bị liệt vào hạng “sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và Kim Bình Mai. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều giảng Kim Bình Mai và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc. Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược: “Tiểu thuyết (Kim Bình Mai) lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyệnlàm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”. Kim Bình Mai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”. Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của Kim Bình Mai, thực hiện bởi A.P. Bazin: Histoire de Wou Song et de Kim Lien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp). Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York. Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch. Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập, hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản Kim Bình Mai từ thoại. Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000 bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách: “In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào. Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên Kim Bình Mai từ thoại mới là văn bản tiêu biểu. Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó (tạm dịch):   Hệ văn bản 3 Hệ văn bản 2 Hồi 1 Bạn bè kết nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ; Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa. Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ; Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan. Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa. *** Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau “cải cách mở cửa”). Một là vấn đề “văn bản Kim Bình Mai”. Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau: Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng: Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là Kim Bình Mai truyện thì tên sách đề là Tân khắc Kim Bình Mai từ thoại.Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản Kim Bình Mai từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản Kim Bình Mai từ thoại (bản cổ có tranh vẽ) v.v... Cuối đời Minh, do chỗ Kim Bình Mai từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai (bản khắc mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản Kim Bình Mai (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này là “bản Sùng Trinh”*. Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loại này. Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai, Đệ nhất kì thư tú tượng Kim Bình Mai, Tú tượng Kim Bình Mai đệ nhất kì thư.Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăng đồ tượng túc bản Kim Bình Mai, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nền Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc Kim Bình Mai kì thư. Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt “Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cái gọi là “Kim Bình Mai chân chính”, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản Kim Bình Mai, Tiêu điểm cô bản cổ bản Kim Bình Mai, Cảnh thế kì thư Kim Bình Mai v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật), “cô” (hiếm), cổ (xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời. Cho đến nay tính ra Kim Bình Mai lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản: 1 – Hệ văn bản “từ thoại”: Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là Kim Bình Mai từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản A”. Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản Kim Bình Mai đã biết. Hệ này nay còn lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ ở Nhật Bản. Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật “thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. Kim Bình Mai từ thoạituy mang tên như vậy song không thể coi là “từ thoại” chính cống nữa mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại” mà thôi. 2 – Hệ văn bản “tú tượng phê cải” (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại “bản Sùng Trinh” và loại “bản Trương Bình”. Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình; 2 / tranh thêu. So với hệ văn bản “từ thoại” nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết. a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh. Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau: Thư viện Nước Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) Trung Quốc Thư viện Thượng Hải Thư viện Đại học Bắc Kinh Thư viện Thiên Tân Thư viện Trung ương Đài Loan Nội các văn khố Nhật Bản Trường Đại học Tôkiô Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên). 3 – Hệ văn bản rút gọn: Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”, xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là “chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng. *** Hai là vấn đề “tác giả Kim Bình Mai”. Tác giả Kim Bình Mai là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản Kim Bình Mai từ thoại khắc in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là Tiếu Tiếu Sinh sinh tác. Tiếu Tiếu Sinh rõ ràng là một bút danh có nghĩa là “chàng cười”, “chàng hay đùa” (“Tiếu” là cười, còn “sinh” là tiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách Tiếu Tiếu Sinh từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận, thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của Tiếu Tiếu Sinh mà thôi. Ngoài Kim Bình Mai ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”). Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứ trực tiếp. Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn Kim Bình Mai khảo chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố. Ngụy Tử Vân trong Kim Bình Mai đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả trong truyện, Ngụy Tử Vân cho rằng Tiếu Tiếu Sinh phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc. Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên (1501-1568). Đầu năm 1984, Kim Bình Mai tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh. Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981. Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được” kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”, đồng thời công bố liền hai bài “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo” và “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Chiết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bộ Lễ. Khảo trong Kim Bình Mai từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”, chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai lí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết Kim Bình Mai là điều có thể tin được. Năm 1985, Kim Bình Mai nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của Kim Bình Mai) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”, mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả Kim Bình Mai. Dĩ nhiên đối với một “câu đố” đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác. Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi. Phan Văn Các 1-1999 Mời các bạn đón đọc Kim Bình Mai (có tranh) của tác giả Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh & Nguyễn Quốc Hùng (dịch).
Ivan - Vladimir Bogomolov
Cuộc chiến tranh Vệ quốc nổ ra quá bất ngờ. Cậu bé trinh sát viên 12 tuổi Ivan luôn bị ám ảnh bởi cái chết của mẹ và em gái, giữa khung cảnh tàn khốc của cuộc chiến tranh, Ivan luôn mơ ước được trở về với tuổi thơ thanh bình như trước kia của em. Theo motif truyện vừa Ivan của Bogomolov, năm 1962, đạo diễn Andrei Tarcovxki đã dựng thành phim Tuổi thơ của Ivan và đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim quốc tế Venezia. Trong tập sách nhỏ này bên cạnh truyện vừa Ivan chúng tôi giới thiệu thêm một truyện ngắn khá đặc sắc của ông về đề tài chiến tranh - Mối tình đầu. *** Vladimir Bogomolov sinh ngày 3 tháng 7 năm 1926 trong một gia đình nông dân ở làng Kirilovka tỉnh Matxcơva. Khi Chiến tranh Vệ quốc bắt đầu, ông tình nguyện ra mặt trận khi mới tốt nghiệp lớp 7 trung học (năm 1941). Ông trải qua suốt chặng đường chiến tranh, từ lính trơn lên đến chức vụ trung đội trưởng, rồi đại đội trưởng trinh sát và giải ngũ năm 1952. Tác phẩm lớn nhất, nổi tiếng nhất của ông - tiểu thuyết trinh thám “Tháng tám năm bốn tư” (1973) kể về những chiến dịch phản gián có thật đã từng xảy ra trước cuộc phản công của quân đội Xô viết, được dựng thành phim năm 2000. Câu chuyện được kể bằng lời nhiều nhân vật khác nhau, chứa đựng rất nhiều đoạn tài liệu mật thời chiến, đã trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học chiến tranh Nga. Nó được tái bản không dưới một trăm lần, và được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Các truyện ngắn nổi tiếng nhất của Bogomolov về đề tài chiến tranh là “Mối tình đầu” (1958), “Nghĩa trang gần Belostok” (1963) và “Nỗi đau trong tim” (1963) Ông mất ngày 30 tháng 12 năm 2003 và được chôn cất tại nghĩa trang Vagankovsky.    Mời các bạn đón đọc Ivan của tác giả Vladimir Bogomolov.
Người Đan Chữ Xếp Thuyền - Miura Shion
Đó là một góc nhỏ giữalòng Tokyo, bị bỏ quên giữa sự nhộn nhịp của một trong những đô thị sầm uất và hiện đại bậc nhất. Góc nhỏ ấy là thế giới của cậu chàng Majime vụng về nhút nhát, của cô gái Kaguya hay chàng Nijime đào hoa phóng túng… Một thế giới nhỏ với con số xác định những địa danh quen thuộc, những sự việc lặp đi lặp lại như một vòng bất biến, và những cuộc đời mà ngày qua ngày ta càng thêm thấu hiểu. Majime là một anh nhân viên phòng kinh doanh của một công ty sách nọ. Anh chàng lập dị cao lênh khênh, mái trên đầu lúc nào cũng rối tung về các hướng, kính cận màu xanh lá cây mà điệu bộ lúc nào cũng như đang phiêu diêu ở một chân trời khác. Giữa phòng kinh doanh, Majime là chàng người ngoài hành tinh dị biệt, và anh chàng vẫn sẽ tiếp tục đóng vai kẻ lập dị cho tới ngày anh gặp bác Araki - vị trưởng phòng biên tập từ điển vừa đến tuổi về hưu. Bác Araki đã nhìn thấy được từ những khuyết điểm của Majime ưu điểm thích hợp hoàn hảo cho công việc biên soạn từ điển. Chàng được thuyên chuyển về phòng biên tập từ điển, trở thành đồng nghiệp của bác Araki, của chàng Nijime, chị Suzuki và giáo sư Matsumoto đáng kính. Từ đây, cuộc đời chàng Majime đã bước sang một trang mới. Rất nhẹ và rất êm, như con thuyền giấy nhẹ trôi trên mặt hồ, như cánh hoa anh đào trôi lửng lơ trong một chiều xuân nhiều nắng ấm và gió thoảng, những nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền thay phiên nhau cất lên tiếng nói của mình, để giãi bày, để được lắng nghe, và cùng chia sẻ. Góc nhìn của mỗi mảnh ghép sự kiện ấy đều phản ánh rõ nét tính cách của người kể - nhân vật chính, cho thấy những vấn đề trăn trở riêng của họ, và cả niềm đam mê của họ dành cho công việc mà mình đang theo đuổi. Niềm đam mê ấy chính là ngọn hải đăng sáng rực rỡ, xâu chuỗi, dần dắt những phần ban đầu tưởng như rời rạc trong cuốn sách vào một hình dáng, một câu chuyện cụ thể. Nếu ví von cuộc đời mỗi nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền như một đoá hoa anh đào, thì ngày mà đoá hoa ấy vào độ mãn khai rực rỡ nhất, chính là ngày cuốn từ điển Đại hải trình - “đứa con chung” được chắt chiu từ bao năm tháng của họ được ra mắt. Khoảnh khắc ấy có thể ngắn ngủi - như chính độ khai nở rực rỡ nhất của một bông hoa anh đào, nhưng điều ấy nào đâu phải thứ gì bi kịch. Ngắm nhìn những cánh hoa rơi - mà như trôi lững lờ trong không gian không phải là một khung cảnh tuyệt diệu hay sao? Vẻ đẹp ấy tuy ngắn ngủi nhưng chói sáng, và luôn khiến người ta khao khát mong chờ. Mùa Xuân có những cánh hoa anh đào bay ấy chính là đích đến của chuyến hành trong Người đan chữ xếp thuyền. *** ▹ Bìa sách có phần kém sự chỉn chu so với nội dung cuốn truyện (nếu đã đọc quyển này rồi thì không thể ưa thêm cái bìa được nữa). Tớ lướt goodread thấy bìa sách bản dịch tiếng anh và Hàn vừa đẹp vừa có sự liên quan tới nội dung sách, hoặc bản bìa xanh đậm giản dị của Nhật mà giàu ý vị. Tựa tiếng nhật là “舟を編む” dịch tạm là “Đan một chiếc thuyền”; bên Hàn là “배를 엮다” – Đan thuyền; tựa tiếng Trung là “啟航吧!編舟計畫” tạm dịch nghĩa là Kế hoạch giương buồm; bản dịch tiếng Anh hơi lái một chút là “The Great Passage” – có thể hiểu là “Đại hải trình”; tựa tiếng Việt của chúng ta là “Người đan chữ xếp thuyền”, thú vị nhỉ? (Mấy từ trên là tớ nhờ nhiều bạn dịch hộ nhé, chứ không phải Muỗng biết nhiều thứ tiếng đâu =))) ▹ Muỗng có recommend? Có ???? Khi đọc được một phần nhỏ của ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’, Muỗng đã phải đi tìm lại cuốn từ điển tiếng việt duy nhất mà tớ có trong hai mươi mấy năm trời đèn sách, và bạn biết gì không? Cuốn từ điển be bé của NXB Từ điển Bách Khoa mà cô giáo bắt (có thể dùng từ ‘yêu cầu’ cho lịch sự nhưng thôi tớ trung thực :))) cả lớp mua từ hồi lớp hai nay đã bung gáy, nằm phủ đầy bụi dưới một góc ở giá sách của chị gái, nơi tớ không bao giờ mò tới. Nhớ lại thì khi mới mua từ điển, tớ đã xin mẹ dán nhãn màu những đầu mục chữ cái: a, b, c… để tiện cho việc tra cứu, lại dán thêm băng dính để bảo vệ hai mặt bìa. Hôm nào có tiết Tiếng Việt là sẽ sắp nó vào cặp, khi cô giá bảo các em hãy tra từ này, từ kia là lại lật giở từng trang, có khi cũng ngồi nghịch ngợm tra tra từ, hoặc khi nhàm chán mà đọc vài trang từ điển. Rồi sau đó ? Cuốn từ điển ấy dần chìm vào lãng quên, bởi đơn giản là khi công nghệ thông tin phát triển, người ta sẽ tra từ bằng cách google, hoặc hỏi người xung quanh cho tiện chứ ít khi giở cuốn từ điển giày cộp ra mà tra cứu. Có lẽ Muỗng còn có thể lãng quên cuốn từ điển màu vàng có hình trống đồng ấy thêm một khoảng thời gian dài nữa nếu không đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’. Một câu chuyện kể về quá trình dài 13 năm để biên tập cuốn từ điển Daitokai của các thành viên phòng biên tập từ điển công ty sách Genbu. Vào những năm 90 với lý do kinh tế Nhật Bản suy thoái, công ty sách Genbu liên tục trì hoãn quá trình biên tập và xuất bản Daitokai, mọi việc còn khó khăn hơn khi nhân viên phòng biên tập từ điển người thì về hưu, người thì là nhân viên hợp đồng hoặc là cố vấn ngoài công ty, anh chàng nhân viên chính thức duy nhất là Nishioka lại lông bông quá thể. Bác Araki trước khi nghỉ hưu đã hứa với người thầy Matsumoto rằng sẽ tìm được  người có năng lực, yêu từ điển để thay bác biên tập cuốn từ điển Daitokai. Với gợi ý của Nishioka và sự kiểm chứng của Araki, Majime Mitsuya, chàng trai kỳ lạ ở phòng kinh doanh đã được điều về làm biên tập viên từ điển. Vốn là người có lối suy nghĩ chẳng giống ai, lại kiệm lời khiến Majime khó hòa nhập với mọi người, những ngôn từ và kinh nghiệm mà anh tích cóp được trong gần 30 năm cũng không đủ để sử dụng trong quá trình biên tập từ điển. Đã thế anh chàng còn vô cùng bối rối khi chót đem lòng yêu mến cô cháu gái xinh đẹp của bà chủ nhà trọ, những ngày tháng mới làm việc ở phòng biên tập từ điển khiến Majime nản lòng rồi nghi hoặc về chính bản thân mình. Nhưng nhờ sự ủng hộ của bà chủ nhà và các đồng nghiệp mà Majime đã vực dậy chuyên tâm học hỏi và biên tập từ điển, anh cũng bạo dạn mà bày tỏ với Kaguya qua thư: “Những gì không nói được bằng lời thì nên viết ra.” Majime đã nghĩ vậy đấy. Thế nhưng quá trình biên tập Daitokai bị trì hoãn do công ty sách muốn phòng biên tập từ điển phải cải đính các cuốn từ điển đã xuất bản trước đó, lại còn cắt giảm nguồn lực đã vốn eo hẹp của phòng. Ai cũng âu sầu nhưng không vì thế mà từ bỏ Daitokai, mỗi thành viên trong tổ biên tập từ thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki và Majime đều cố gắng hết sức để làm phần việc của mình, ngay cả anh chàng màu mè Nishioka mà bác Araki coi nhẹ cũng vậy, dù y vừa thán phục lẫn ghen tị với Majime. “Mình cũng muốn dùng thành ý của mình để đáp lại thành ý của đối phương.” Nishioka tự nhủ. Sau bao tháng ngày bị trì hoãn, Daitokai cuối cùng cũng đã được công ty đồng ý xuất bản, vì vậy mà họ cử Kisibe, một quý cô sành điệu của tạp chí cho nữ giới sang phòng biên tập từ điển. Ngỡ tưởng mình sẽ không tài nào hòa nhập được với công việc biên tập từ điển khô khan mà phức tạp, lại thêm ông chủ nhiệm Majime kỳ cục nhưng Kisibe lại dần làm quen được với công việc nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp và một vị tiền bối. Lại qua nhiều tháng ngày thẩm định kỹ càng và công sức của bao con người, cuốn từ điển Đại Độ Hải – Daitokai cuối cùng cũng đã được xuất bản dưới niềm hạnh phúc, tự hào và cả nuối tiếc của những con người đã góp phần xây dựng nên cuốn từ điển này. Song không vì vậy mà quá trình biên tập từ điển đã kết thúc, con thuyền Daitokai sẽ còn được cải đính trong tương lai để thêm vững chắc mà vượt trên biển ngôn từ bao la… Daitokai – Đại Độ Hải là công sức, là một phần linh hồn của thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki, Majime, Nishioka, Kisibe, của các phòng ban khác trong công ty sách Genbu, của những vị cộng tác viên nhiều kinh nhiệm và những bạn sinh viên, của công ty sản xuất giấy Akebo… Chiếc thuyền Daitokai đã được những con người cần mẫn ấy tạo dựng nên từ cái khung, nét sơn rồi liên tục được cân nhắc, suy tính tỉ mỉ để đan đầy nó bằng ngôn từ như vậy đấy. Đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’ mới thấy việc biên tập từ điển khó khăn mà quan trọng đến mức nào: Phải căn chỉnh sao cho lượng từ đúng chuẩn trên một trang giấy, phải xem xét tính phổ biến của từ ngữ, phải tìm cách giải nghĩa và cho ví dụ chuẩn và hợp lý, đến giai đoạn in ấn thì cũng phải lựa chọn loại giấy in phù hợp, vân vân… Từ điển được tạo ra là để mọi người tra cứu dễ dàng, tham khảo và lấy làm chuẩn mực nhất định. Thời trước các cụ khi đặt tên cho con cháu là hay giở sách vở, từ điển để chọn tên hay nghĩa đẹp mà gửi gắm mong ước của mình cho thế hệ sau. Giờ đây từ điển không còn có vị thế quan trọng như xưa nhưng Muỗng nghĩ trong khoảng 10 năm tới – khi mà Tiếng Việt đang được nghiên cứu và bổ xung thì sớm muộn người ta cũng nên làm một cuốn từ điển mới và hoàn thiện hơn. Tuy rằng Majime mới là nhân vật chính nhưng tớ thích Nishioka hơn, những đoạn biến chuyển tâm lý của anh này đọc rất vui và cảm động. Trong mắt người khác Nishioka luôn có vẻ phất phơ đỏm dáng, không bao giờ dành tâm huyết để làm một việc gì cả nhưng thực ra anh chàng rất tinh ý và cố gắng làm những việc cần thiết để giúp đỡ đồng nghiệp. Đọc mà mong một ngày mình cũng dần trưởng thành và biết sẻ chia như Nishioka ???? *** Cuộc đời của Araki Kouhei - nếu các bạn nghĩ rằng dùng từ “cuộc đời” là hơi cường điệu - vậy thì nên sửa lại thành: nếu nói sự nghiệp của Araki Kouhei chỉ để cống hiến cho việc biên tập từ điển, thật không phải nói quá. Araki từ thuở bé đã rất có hứng thú với ngôn từ. Tỉ dụ như từ “chó” chẳng hạn. Tuy thấy nó ở đó, nhưng lại không có*. Ha ha, buồn cười thật đấy. Giả mà bây giờ bác nói như vậy thì thể nào cũng bị các nữ nhân viên bảo, Nguyên văn là そこにいるのに, いぬ (Soko ni iru noni, inu). Câu này bác Araki chơi chữ: động từ iru gần đuôi phủ định -nu vào sẽ từ “có” thành “không có”. Nhưng từ “inu” trong tiếng Nhật cũng có nghĩa là “con chó”. Vậy câu này có thể hiểu theo 2 nghĩa: 1. “Ở đó có con chó.” Và 2. “Nó ở đó, mà lại không ở đó.” “Araki à, anh có ngưng ngay trò đùa của mấy ông già đó đi không”, nhưng nếu hồi còn nhỏ mà đã nghĩ ra được câu này, hẳn bác sẽ rất khoái chí. “Chó” không phải chỉ đơn thuần là từ chỉ một loài động vật. Trong một bộ phim mà bác được bố dẫn đi xem lúc bé, có một gã xã hội đen do bị phản bội nên lâm vào cảnh thập tử nhất sinh, khi hắn ta máu me đầy mình đã thét lên rằng, “Lũ chó chính phủ!” Lúc đó Araki đã ngộ ra rằng, mấy tên nội gián được tổ chức đối địch cài vào cũng bị gọi là “chó”. Ông trùm khi nhận được tin báo đàn em của mình đang hấp hối, liền đứng phắt dậy nói, “Tụi bây còn đứng trơ ra đó làm gì! Mang dao ra đây! Tao phải cho thằng đó chết không bằng chó!”. Lúc đó Araki lại ngộ ra rằng, từ “chó” cũng mang hàm ý tương đương với “chết một cách vô nghĩa”. Đối với con người, loài chó là một người bạn vừa khôn ngoan, lại vừa đáng yêu và đáng tin cậy. Ấy vậy mà, cùng một từ “chó” lại có thể dùng để chỉ tên nội gián vô lại hoặc sự vô nghĩa của một việc thì thật là khó hiểu. Loài chó vốn trung thành, đôi khi đến mức lệ thuộc. Đặc tính nổi bật của chúng là luôn cố gắng tận sức vì loài người mà không cần báo đáp. Có lẽ cũng vì thế nên từ “chó” mới bị gán cho những nghĩa tiêu cực như trên. Tuy Araki đã sớm nảy sinh hứng thú với những chuyện này, nhưng nhận thức của bác về từ điển đến muộn hơn một chút, đó là khi bác được người chú tặng cho quyển “Từ điển quốc ngữ Iwanami” làm quà mừng vào cấp II. Lần đầu tiên Araki được sở hữu một quyển từ điển của riêng mình, bác rất lấy làm thích thú và thường xuyên giở nó ra tra cứu. Mời các bạn đón đọc Người Đan Chữ Xếp Thuyền của tác giả Miura Shion.
Đời Như Một Trò Đùa
Bạn đã bao giờ nghe câu chuyện về người đàn ông một mực tin rằng mình đã chết? Hay về một con ếch không thể thuyết phục gã kỹ sư bắt được mình tặng cho một nụ hôn để trở lại thành công chúa? Hay một con lợn quên thân cứu chủ, và người chủ đã cảm kích đến nỗi mỗi lần chỉ chặt một phần cơ thể nó để ăn, thay vì làm thịt nó luôn một lúc? Hay một gã buôn lậu xe đạp qua mặt cảnh sát nhờ luôn vác hai bao cát trên vai. Hay người vợ nhất định không cho ông chồng sắp chết ăn chiếc bánh mà ông ta đang thèm, vì chỗ bánh đó là để dành cho đám tang ông… Đời quả đúng như một trò đùa! Chẳng phải hầu hết các tình huống éo le chúng ta gặp trong đời đều chứa đựng khía cạnh khôi hài hay sao? Chúng ta vốn quen với việc rút ra bài học kinh nghiệm sau thất bại, đắng cay, thậm chí là nước mắt và mất mát; nhưng ở đây, chúng ta sẽ học lối tư duy mới mẻ có phần lạ lẫm của anh em nhà Javna, tìm ra những bài học cuộc sống qua tiếng cười. *** Điều khác biệt giữa một trò đùa thú vị và một trò đùa tuyệt đỉnh là gì? Trò đùa tuyệt đỉnh không chỉ khiến bạn cười – nó làm bạn suy nghĩ. Trong nhiều năm, chúng ta vẫn dùng những câu chuyện cười để truyền tải các bài học cuộc sống thực tiễn cho con cái và bạn bè. Và nó thật sự hiệu quả. Khi cười, người ta cởi mở với các ý tưởng mà có thể họ chỉ đơn giản là lờ đi khi được đưa ra dưới dạng lời khuyên “nghiêm túc”. Một số chỗ, nó xuất hiện trước chúng ta có thể dưới dạng nội dung chính của một cuốn sách đơn thuần – thậm chí có thể là một thể loại hoàn toàn mới như một sự kết hợp giữa chuyện cười và sách self-help. Đó chính là cách Đời như một trò đùa ra đời. Tập hợp này gồm rất nhiều câu chuyện cười yêu thích của chúng tôi, cùng với một số chuyện từ gia đình, bạn bè… thậm chí từ các nhà tâm lý học. Bạn có thể đã từng được nghe một số chuyện – chúng đã là kinh điển rồi – nhưng chúng tôi cá rằng bạn chưa bao giờ nhìn chúng theo cách này. Chúng tôi nghĩ bạn sẽ ngạc nhiên trước việc chúng có thể liên quan tới cuộc sống thường nhật như thế nào. Chúng tôi cũng đã ngạc nhiên như vậy. Chúng tôi phát hiện ra mình đang đưa ra vô số chiêm nghiệm đằng sau câu chuyện thể hiện những trải nghiệm cá nhân – chúng tôi thường trích dẫn những dòng yêu thích nhất từ các bài hát hoặc bộ phim. Hóa ra chuyện cười và bài học từ chúng thực sự là một truyền thống của con người. Tất cả các nền văn hóa đều sử dụng những câu chuyện nho nhỏ để dạy dỗ và truyền lại các tri kiến. Ví dụ như Aesop đã viết những truyện ngụ ngôn ở Hy Lạp cổ đại từ 2.500 năm trước. Và Phật giáo Trung Hoa bắt đầu sử dụng những lời đàm luận được gọi là những công án (koan) khoảng 1.000 năm trước, tiết lộ sự thật về thế giới. Vì vậy, chúng tôi nghĩ những truyện cười tuyệt đỉnh chính là những công án của phương Tây. Hoặc có thể là Phật giáo Do Thái. *** “Hài hước là một yếu tố quan trọng để thành công” không còn quá xa lạ với các bạn trẻ. Việc hài hước hiện nay đang chiếm xu thế bởi những hành động ngộ nghĩnh, những lời nói ngô nghê, giản dị hay có thể đan xen vài yếu tố thô tục,… đều khiến cho mọi người lăn đùng ra cười, bầu không khí trở nên náo nhiệt. Nhưng ít ai biết rằng, những trò đùa thú vị ấy chỉ mang tính giải trí trong ngắn hạn, chỉ có thể phá tan khoảng không gian lạnh giá trong khoảng thời gian nhất định. Với Anh em nhà Javna - Gordon và John, việc hài hước trong con chữ và những câu truyện cười lại mang đến lợi ích to lớn hơn hết. Điều khác biệt giữa trò đùa thú vị và trò đùa tuyệt đỉnh là gì? Trò đùa tuyệt đỉnh không chỉ khiến bạn cười – nó làm bạn suy nghĩ.  Đời như một trò đùa. Tác giả: Gordon và John Dịch giả: Đặng Ly Gồm 341 trang, 100 câu chuyện kèm theo bài học cuộc sống và chiêm nghiệm. Nội dung – Ý nghĩa sách Chúng ta có thể làm bất cứ thứ gì điên rồ, nói những điều tào lao nhất trên đời để khiến những người ta yêu thương nở nụ cười. Chúng ta cũng đã quen với nụ cười tinh thần sau những vấp ngã và rút ra hàng loạt những bài học kinh nghiệm, mất mát, khó khăn. Nhưng để tiếng cười của ta kết thúc ở vị trí nhân văn, con đường chúng ta đi qua tốt hơn hết là những suy nghĩ và chiêm nghiệm trong những câu chuyện, lời kể…đặc biệt là truyện ngụ ngôn, truyện cười… Khi cười, chúng ta sẽ cởi mở hơn với các ý tưởng mà ta có thể lờ đi với dạng lời khuyên “nghiêm túc”. Đó là lí do trong suốt nhiều năm, mọi người vẫn dùng những câu truyện cười để truyền tải những bài học cuộc sống có ý nghĩa lớn lao. Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện hài hước trong tất cả lĩnh vực cuộc sống, từ gia đình, bạn bè, xã hội đến cả tâm lí học, đạo đức học. Bạn sẽ rất ngạc nhiên với việc chúng có liên quan đến cuộc sống thường nhật như thế nào. Bởi vì chúng được đúc kết từ những kinh nghiệm cá nhân và các hành trình tác giả đã đi qua. Đối tượng nên đọc sách Cuốn sách là sự kết hợp giữa những chuyện cười và sách self-help. Qua những câu chuyện nhân văn và ý nghĩa, tác giả sẽ cung cấp cho chúng ta những bài học cuộc sống và những chiêm nghiệm quý giá. Từ đó giúp các bạn có đam mê với việc “hài hước có ý thức”, các bạn đang chập chững bước vào nghề viết lách có thêm những kiến thức, vốn từ vựng và cách diễn đạt. Đối với những bạn đang tìm kiếm những câu chuyện ngắn có tính giáo dục và muốn truyền đạt với thế hệ trẻ, cuốn sách là một lựa chọn không thể bỏ qua. Hơn nữa, ngay chính một người đã trưởng thành và đứng tuổi cũng phải cần suy ngẫm và học hỏi rất nhiều từ những câu chuyện trong sách. Suy cho cùng, với những câu truyện cười ngắn và lối dẫn dắt độc giả đến suy ngẫm, cuốn sách phù hợp với mọi lứa tuổi. Một trong những câu chuyện đáng suy ngẫm TRONG “NGUY” CÓ “CƠ” “Tất cả chúng ta đều đối mặt với hàng loạt cơ hội lớn được ngụy trang tài tình như những tình huống bất khả thi.” -Charles Swindoll- Một người đàn ông trẻ từ một thành phố lớn đến vùng nông thôn và mua một con lừa của người nông dân địa phương với giá 200 đô la. Người nông dân cầm tiền và nói rằng ngày hôm sau ông ta sẽ mang con lừa tới. Chiều hôm sau người nông dân đến nhà người đàn ông với một chiếc xe ba gác trống không. “Xin lỗi, thưa ông. Tôi có tin xấu,” người nông dân nói. “Con lừa chết rồi.” “Ồ, vậy thì hãy trả tôi 200 đô la đây,” người đàn ông nói. “Xin lỗi ông,” người nông dân trả lời. “Tôi không thể trả lại tiền được – tôi đã tiêu hết rồi.” Người đàn ông nghĩ một lát rồi nói. “Thôi được rồi, vậy thì hãy trả lại con lừa chết cho tôi.” “Ông định làm gì với nó?” người nông dân hỏi. “Tôi sẽ đem nó ra làm phần thưởng cho trò xổ số,” người đàn ông trả lời. “Ông không thể đem một con lừa chết ra để chơi xổ số được,” người nông dân kêu lên. “Chắc chắn là tôi có thể,” người đàn ông bình tĩnh trả lời. “Tôi sẽ không nói cho bất cứ ai biết rằng nó đã chết.” Vài tuần sau đó, người nông dân bất ngờ gặp lại người đàn ông và hỏi chuyện gì đã xảy ra với con lừa chết. “Tôi đã đem nó ra làm phần thưởng cho trò xổ số,” người đàn ông nói với người nông dân. “Tôi đã bán được 300 vé với giá 2.5 đô la/vé và thu được tiền lãi là 547.5 đô la.” Choáng váng, người nông dân thốt lên, “Trời! Không có ai phàn nàn gì ư?” “Chỉ có gã trúng số,” người đàn ông đáp lời. “Vì vậy, tôi trả lại cho hắn ta 2.5 đô la.” BÀI HỌC CUỘC SỐNG - CHIÊM NGHIỆM Điều gã trai kia làm trong câu chuyện trên là trái đạo đức và pháp luật, nhưng bạn không thể làm gì ngoài việc ấn tượng với khả năng của gã trong việc xoay chuyển tình thế - nghĩa là biến tình huống tệ hại thành một cơ hội thành công. Đối mặt với một tình huống khó khăn, tất cả chúng ta có khuynh hướng nói rằng, “Thế đấy, mình hết cửa rồi!” Nhưng như gã trai kia đã chứng tỏ vẫn có một lựa chọn. Thay vì từ bỏ, hãy nắm lấy cơ hội để làm cho nổi kinh hoảng lắng xuống và cho bản thân mình một cơ hội để thích ứng với hoàn cảnh mới. Sau đó hãy hướng vào sự sáng tạo của bạn và xem những ý tưởng nào sẽ xuất hiện. Làm như vậy vài lần và nó sẽ bắt đầu thành bản năng thứ hai. Bạn sẽ ngạc nhiên và hài lòng trước tài khéo léo của mình. Đây là một trong những câu chuyện theo format của sách. Một câu chuyện kèm theo sau đó là bài học cuộc sống và chiêm nghiệm. Bố cục sách rất rõ ràng và dễ hiểu, nhưng để đọc sách thêm hiệu quả bạn cần cân nhắc một vài mẹo nhỏ. Một vài mẹo nhỏ khi đọc sách Mặc dù các câu truyện được đánh số nhưng đó không thực sự là xếp hạng của chúng. Bạn có thể tự do chọn những câu chuyện với những tiêu đề thu hút để đọc và nghiền ngẫm. Theo kinh nghiệm đọc sách của mình, mình xin khuyến khích các bạn chỉ đọc một câu chuyện mỗi lần để có thêm thời gian ngẫm nghĩ và nhấm nháp bài học. Điều này có thể giúp ta nhớ lâu hơn lời răn dạy của chuyện và khiến cho cuốn sách được đọc trong khoảng thời gian dài. Đời như một trò đùa bởi vì chỉ có những trò đùa tạo nên cuộc đời Khá là phi lý nhưng hoàn toàn là sự thật rằng khi ai đó được hỏi “Bạn nghĩ như thế nào là cuộc đời?” Hầu hết mọi người đều đánh giá: Cuộc đời là những chông gai, khó khăn, cạm bẫy, rào cản…ở phía trước, “Cuộc đời chưa bao giờ là những lời mời ngọt ngào” của bất kì ai. Nhưng mấy ai hiểu được rằng, cuộc đời của chúng ta vốn dĩ rất yên bình và nhẹ nhàng…nếu như chúng ta nghĩ thế. Một tinh thần sống lạc quan và một hành trang vững trãi sẽ không bao giờ là thừa nếu bạn sẵn lòng bước trên con đường của bạn. Suy cho cùng, những chông gai, khó khăn, cạm bẫy, rào cản ấy cũng chỉ là những trò đùa của cuộc đời sẵn sàng ngăn cản sự sẵn lòng của bạn. Đừng để những trò đùa ấy khiến bạn gục ngã nhé! Vì rốt cuộc, Đời chỉ là một trò đùa thôi! Review chi tiết bởi: Trịnh Cát Viên – Bookademy Mời bạn đón đọc Đời Như Một Trò Đùa của tác giả Anh Em Nhà Javna.