Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Gặt Đỏ

MÙA GẶT ĐỎ - KHO BÁU BỊ ĐÁNH MẤT. Một tay súng đơn độc đi vào trong thị trấn. Anh ta sẽ dọn dẹp nó dù muốn hay là không? "Người chiến đấu với quái vật phải cẩn thận nếu không muốn trở thành một con quái vật khác". Được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Đây cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó có Yojimbo (1961), A Fistful of Dollars (1964) và Blood Simple (1984)… Truyện được mở đầu bằng việc Hãng thám tử tư Continental cử một đặc vụ tới Personville - thành phố đang chìm đắm trong bạo lực và sợ hãi dưới sự cai trị của các băng đảng tội phạm và đám quan chức tham nhũng - theo yêu cầu của Donald Willsson, chủ bút tờ báo địa phương và là người đang muốn lấy lại trật tự, công bằng cho thành phố. Nhưng khi nhân viên đặc vụ đó tới nơi thì phát hiện ra khách hàng của mình đã bị bắn chết. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu. *** Dashiell Hammett (1894 - 1961) là một trong những tác giả tiên phong của thể loại tiểu thuyết trinh thám đen, với các tác phẩm tiêu biểu như Mùa gặt đỏ (1929), Chim ưng Malta (1930) và Chìa khóa thủy tinh (1931). Những tiểu thuyết của ông thường mang phong cách mạnh mẽ, gay cấn, lối viết ngắn gọn, không hoa mỹ, tiết tấu nhanh, hấp dẫn, đậm mùi súng đạn. Mùa gặt đỏ, tác phẩm đầu tay của Hammett, mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại trinh thám đen, đồng thời là hình mẫu cũng như nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả trinh thám sau này: một bầu không khí nhớp nhúa ở phần tối của xã hội; một hình ảnh “người hùng không hoàn hảo” với quan niệm về công lý không hoàn toàn đồng nhất với pháp luật. Người thám tử vô danh ấy đến thành phố tội lỗi đó như một lãng khách độc hành thấy việc bất bình ra tay nghĩa hiệp, để rồi bắt đầu “mùa gặt”, mang lại bình yên cho thành phố… *** Review sách Mùa Gặt Đỏ Mùa gặt đỏ được xuất bản lần đầu vào năm 1929, Mùa gặt đỏ (Red Harvest) là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh điển của Dashiell Hammett - người được coi là "ông tổ" của thể loại trinh thám đen - hard-boiled. Tôi đã khá băn khoăn khi quyết định đọc hay không vì không muốn sa đà liên tục vào trinh thám. Thế nhưng vì một vài lí do, tôi vẫn đọc. Có thể vì thế mà tâm trạng đã không tốt khi tiếp cận cuốn sách. Truyện Trinh thám về những thế lực bên rìa công lý, kiểu mafia, mở đầu bằng cái chết của thân chủ khi chưa kịp làm việc với tay thám tử mà mình mời về. Nhiều nhân vật liên quan, nhiều vấn đề nổi cộm của thế giới thu nhỏ Personville được phơi bày. Theo như thỏa thuận từ trước, Personville vẫn sẽ được "thanh tẩy", cho dù cái giả phải trả là có thể khiến nó bị nhấn chìm trong biển máu.Tiết tấu càng ngày càng nhanh với sự mưu mô, toan tính cả bằng trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong việc siết cò với những pha hành động tương đối kịch tính. Truyện thuộc dang trinh thám đen, hành động kịch tính và mang tính giải trí. Cơ bản có lẽ tại tôi không thích văn phong hơi khô của tác giả (hay dịch giả)??, hội thoại, lời văn ngắn gọn, súc tích. Tôi cũng không thích bìa, không thích tên gọi, chỉ an ủi được là việc biên tập đã ổn hơn khá nhiều so với những cuốn sách trước đây của PM. Tạm gác lại, biết đâu một ngày nào đó sẽ có hứng thú đọc lại và biết đâu sẽ thích. Cho tạm 3* vì cuốn sách chưa đủ hấp dẫn khiến tôi bị cuốn hút cũng như tò mò. Hồng Khánh 14.9.2019 *** Người phụ nữ trong bộ đồ xanh và người đàn ông trong bộ đồ xám Lần đầu tiên tôi nghe thấy Personville được đọc lái thành Poisonville là từ một gã tóc đỏ đầu đường xó chợ tên Hickey Dewey tại khách sạn Con Tàu Lớn ở Butte. Hắn cũng phát âm shirt thành shoit. Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì về cách hắn đọc tên thành phố, nhưng rồi tôi thấy những người đã phát âm đúng chữ “r” nhưng vẫn đọc sai như vậy. Tôi chỉ cho rằng việc đám trộm cướp dùng từ richardsnary thay cho dictionary thật quá sức nhạt nhẽo. Vài năm sau, khi đến Personville, tôi mới hiểu rõ hơn. Tôi gọi tới tờ Herald từ một bốt điện thoại tại ga, yêu cầu được nói chuyện với Donald Willsson và sau đó bảo anh ta rằng tôi đã tới. “Anh có thể tới nhà tôi lúc mười giờ tối nay được không?” Anh ta nói, giọng quả quyết. “Số 2101 đại lộ Mountain. Bắt một chiếc xe điện, xuống ở chỗ đại lộ Laurel, rồi đi bộ theo hướng Tây hai dãy nhà.” Tôi hứa sẽ có mặt. Rồi tôi tới khách sạn Great Western, vứt mấy chiếc túi xuống và ra ngoài ngắm nhìn thành phố. Thành phố này không đẹp. Hầu hết chủ thầu xây dựng ở đây đều có gu thẩm mỹ lòe loẹt. Có thể ban đầu họ đã đạt được mục đích. Rồi những lò luyện kim mọc lên sừng sững bên một ngọn núi ảm đạm ở phía Nam đã hun mọi thứ trong lớp khói màu vàng xỉn. Thế là chúng ta có một thành phố xấu xí với bốn mươi ngàn dân, nằm trong một khe hẻm xấu xí giữa hai ngọn núi xấu xí bị ô nhiễm vì sự khai mỏ. Bao trùm lấy nó là bầu không khí ám đầy bụi, như thể vừa chui ra từ ống khói của lò luyện kim. Người cảnh sát đầu tiên mà tôi gặp rõ ràng cần phải cạo râu. Người thứ hai có vài chiếc cúc bị đứt trên bộ đồng phục tồi tàn. Người thứ ba đứng ở giữa giao lộ chính của thành phố, giữa Broadway và phố Union, với một điếu xì gà trên miệng. Sau đó thì tôi không để ý đến họ nữa. Vào lúc chín giờ rưỡi, tôi bắt một chiếc xe điện và đi theo hướng mà Donald Willsson đã chỉ. Nó đưa tôi tới một ngôi nhà có hàng rào bao quanh bãi cỏ. Người giúp việc ra mở cửa bảo tôi rằng ông Willsson không có nhà. Trong khi tôi đang giải thích rằng mình có hẹn với anh ta thì một người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh, khoảng dưới ba mươi tuổi, bận bộ đồ vải crepe màu xanh bước tới. Ngay cả khi cười, sự lạnh nhạt vẫn ẩn hiện trong đôi mắt xanh của cô ta. Tôi giải thích lại một lần nữa. “Chồng tôi hiện không có nhà.” Âm giọng địa phương mờ nhạt khiến phát âm của cô ta hơi nhịu. “Nhưng nếu đã có hẹn thì chắc anh ấy sẽ về sớm thôi.” Cô ta dẫn tôi lên tầng, tới một căn phòng nhìn về hướng đại lộ Laurel. Căn phòng được sơn hai màu nâu đỏ và có rất nhiều sách. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa da, nửa quay về phía người đối diện, nửa hướng về phía lò sưởi đang đỏ than, và cô ta bắt đầu tìm hiểu về chuyện giữa tôi và chồng cô ta. “Anh sống ở Personville à?” Cô ta hỏi trước. “Không. San Francisco.” “Nhưng đây không phải lần đầu anh tới Personville, phải vậy không?” “Đây là lần đầu tiên.” “Thật ư? Anh nghĩ sao về thành phố này?” “Tôi chưa quan sát đủ để có thể đưa ra ý kiến.” Đó là một lời nói dối. Tôi đã thấy đủ. “Tôi vừa mới tới lúc chiều.” Sự tò mò biến mất khỏi đôi mắt lấp lánh của cô ta. Rồi cô ta nói: “Anh sẽ thấy rằng đây là một chốn ảm đạm.” Rồi cô ta tiếp tục soi mói, “Tôi cho rằng tất cả các thành phố mỏ đều giống như thế này. Anh có tham gia vào ngành khai mỏ không?” “Hiện tại thì không.” Cô ta nhìn đồng hồ trên mặt lò sưởi và nói: “Donald thật thiếu chu đáo khi hẹn anh tới rồi lại để anh ngồi đợi, giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Đã quá giờ làm việc lâu quá rồi.” Tôi đáp rằng không sao. “Có lẽ đây không phải là vấn đề công việc.” Cô ta bóng gió. Tôi không trả lời. Cô ta cười, tiếng cười cộc lốc và có phần chói tai. “Thường thì tôi không tọc mạch thế này đâu”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng anh quá kín đáo đến mức tôi không thể không tò mò. Anh không phải dân buôn rượu lậu đấy chứ? Donald đổi người rất thường xuyên.” Tôi để cô ta tự suy diễn và nở một nụ cười. Chuông điện thoại reo dưới tầng. Cô Willsson duỗi đôi chân đi dép lê xanh về phía lò sưởi đang đỏ than và vờ như không nghe thấy gì. Tôi không hiểu tại sao cô ta nghĩ thế là cần thiết. Cô ta bắt đầu, “Tôi sợ rằng mình sẽ ph…”, và dừng lại, nhìn về phía cô hầu đứng bên cửa. Người giúp việc nói rằng đầu dây bên kia muốn gặp cô Willsson. Cô ta cáo lỗi rồi ra ngoài. Cô ta không đi xuống tầng dưới mà nói qua máy điện thoại kéo dài, trong tầm nghe của tôi. Tôi nghe được, “Tôi, Willsson nghe đây… Vâng… Xin lỗi?… Ai đấy?… Anh có thể nói to lên không?… Gì cơ?… Vâng… Vâng… Ai đó?… A lô! A lô!” Rồi có tiếng dập máy và tiếng bước chân của cô ta vang lên trên hành lang. Tôi châm một điếu thuốc và nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của cô ta dưới thềm. Rồi tôi tới bên cửa sổ, vén rèm lên, nhìn xuống đại lộ Laurel và thấy phía sau ngôi nhà là một nhà để xe màu trắng. Ngay sau đó, một người phụ nữ mảnh mai đội mũ và bận áo khoác tối màu vội vã đi ra chỗ nhà để xe. Đó là cô Willsson. Cô ta lái chiếc Buick hai chỗ đi. Tôi quay lại ghế và chờ đợi. Bốn mươi lăm phút trôi qua. Lúc mười một giờ năm phút, tiếng phanh ô tô rít lên bên ngoài. Hai phút sau, cô Willsson bước vào phòng. Cô ta cởi mũ và áo khoác ra. Mặt cô ta trắng bệch, đôi mắt ủ dột. “Tôi vô cùng xin lỗi”, cô ta nói với khuôn miệng mím chặt chuyển động nhát gừng, “anh đã mất công ngồi đợi vô ích rồi. Tối nay chồng tôi sẽ không về nhà.” Tôi nói rằng tôi sẽ liên lạc với anh ta tại Herald sáng mai. Tôi đi về và tự hỏi tại sao mũi dép bên trái của cô ta lại dính thứ gì đó sẫm màu và ướt giống như máu vậy. • • • Tôi đi bộ đến Broadway và bắt một chiếc xe điện. Qua ba dãy nhà lớn ở phía Bắc khách sạn, tôi xuống xe để xem đám đông đang làm gì quanh lối vào Tòa thị chính. Tầm ba, bốn mươi người đàn ông và lác đác vài phụ nữ đang đứng trên vỉa hè, nhìn vào một cánh cửa gắn biển Sở Cảnh sát. Đám đông bao gồm những người công nhân mỏ và lò nung vẫn mặc nguyên đồ bảo hộ, những anh chàng mặc đồ lòe loẹt vừa bước ra từ tiệm bi-a và vũ trường, những gã chải chuốt với khuôn mặt nhợt nhạt, những người mang vẻ ngoài trì độn của một ông chồng đứng đắn, vài người phụ nữ cũng trì độn và đứng đắn y như vậy cùng vài ả gái điếm. Đến bên rìa đám đông, tôi dừng lại cạnh một người đàn ông nghiêm nghị mặc bộ đồ xám nhàu nhĩ. Khuôn mặt và đôi môi dày của anh ta trông cũng xám xịt, mặc dù nhìn qua anh ta không quá ba mươi tuổi. Khuôn mặt anh ta rộng, đường nét thô kệch và sáng sủa. Anh ta đeo một chiếc cà vạt đỏ thắt kiểu Windsor trên chiếc áo sơ mi bằng vải flannel màu xám. “Chuyện gì ồn ào vậy?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta cẩn thận nhìn tôi trước khi trả lời, như thế muốn chắc chắn rằng thông tin sẽ được gửi đi một cách an toàn. Mắt anh ta cũng xám như bộ đồ, nhưng trông chúng không hề mềm như thế. “Don Willsson đã đến ngồi bên tay phải của Chúa, nếu Chúa không ngại nhìn vào những vết đạn.” “Ai đã bắn anh ta?” Tôi hỏi. Người đàn ông gãi đầu và đáp lại: “Một kẻ nào đó mang súng.” Tôi muốn thông tin, chứ không phải sự hóm hỉnh. Tôi sẽ thử vận may với một người khác trong đám đông nếu gã đeo cà vạt đỏ này không khiến tôi hứng thú. Tôi bảo: “Tôi mới đến thành phố. Cứ diễn vở Punch và Judy* với tôi đi. Người lạ thì phải chịu thôi.” “Quý ngài Donald Willsson, chủ biên của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, mới được tìm thấy trên phố Hurricane, bị một kẻ vô danh nào đó bắn chết.” Anh ta nói một lèo bằng giọng đều đều. “Hết cảm thấy bị tổn thương rồi chứ?” “Cảm ơn.” Tôi đưa tay ra và chạm vào đầu chiếc cà vạt thắt lỏng của anh ta. “Có ý nghĩa gì không? Hay chỉ đeo vậy thôi?” “Tôi là Bill Quint.” “Hóa ra là anh!” Tôi kêu lên, giả bộ như mình đã biết cái tên này. “Chúa ơi, tôi rất mừng được gặp anh!” Tôi rút chiếc ví chứa danh thiếp ra và lục lọi trong đống danh thiếp mà tôi đã kiếm được bằng nhiều cách, ở nhiều nơi khác nhau. Tấm màu đỏ là cái tôi muốn tìm. Trên đó ghi tôi là Henry F. Neill, thủy thủ được đào tạo bài bản, thành viên cấp cao của Hiệp hội Công nhân Công nghiệp Thế giới*. Không một chữ nào là sự thật. Tôi đưa tấm danh thiếp cho Bill Quint. Anh ta đọc kỹ nó, cả mặt trước lẫn mặt sau, rồi trả lại và nhìn tôi từ đầu đến chân một cách ngờ vực. “Chẳng có gì để nhìn nữa đâu.” Anh ta nói. “Anh định đi đâu?” “Đâu cũng được.” Chúng tôi đi cạnh nhau, rẽ vào sau góc phố một cách bâng quơ. “Điều gì đã đưa anh tới đây, nếu anh là một thủy thủ?” Anh ta chợt hỏi. “Sao anh lại nghĩ vậy?” “Có tấm danh thiếp đó.” “Tôi còn có một cái ghi rằng mình là tiều phu nữa cơ.” Tôi nói. “Nếu anh muốn tôi trở thành thợ mỏ, tôi sẽ làm một cái ngay trong ngày mai.” “Anh không kiếm được đâu. Tôi điều hành ở đây.” “Thế nếu anh nhận được điện báo từ Chi* thì sao?” Tôi hỏi. “Mặc xác Chi! Tôi điều hành ở đây.” Anh ta hất đầu về phía nhà hàng và hỏi, “Uống gì không?” “Kiếm được không đã.*” Chúng tôi bước vào nhà hàng, leo lên các bậc thang và bước vào một căn phòng nhỏ với một dãy bàn dài trên tầng hai. Bill Quint gật đầu và nói, “Hullo!” với vài cậu trai và cô gái, rồi đưa tôi vào một trong nhũng căn buồng có màn che màu xanh lá nằm thẳng hàng dọc bức tường đối diện quầy bar. Chúng tôi dành hai giờ để uống rượu whiskey và nói chuyện. Người đàn ông trong bộ đồ xám cho rằng tôi chẳng liên quan gì tới tấm danh thiếp mà tôi vừa cho anh ta xem, cũng như những danh tính khác mà tôi đã đề cập. Anh ta cũng không cho rằng tôi là một thành viên cấp cao của Hiệp hội. Với vai trò là thủ lĩnh quan trọng của IWW ở Personville, anh ta cho rằng nhiệm vụ của mình là phải tìm ra sự thật về tôi, đồng thời không để mình bị dò hỏi ngược lại trong khi đang làm việc đó. Với tôi thế cũng chẳng sao. Tôi hứng thú với các vấn đề ở Personville. Anh ta thì không bận tâm tới chuyện đó mà chỉ tập trung vào tấm thẻ đỏ của tôi. Và đây là những gì tôi moi được từ anh ta: Trong vòng bốn mươi năm, Elihu Willsson - cha của người đàn ông bị giết đêm qua - đã sở hữu trái tim, linh hồn cũng như xác thịt của Personville. Lão là chủ tịch và cổ đông lớn nhất của Tập đoàn Khai mỏ Personville cũng như ngân hàng First National, là chủ sở hữu của tờ Herald Buổi sáng và Herald Buổi tối, những tờ báo duy nhất của thành phố, và đồng sở hữu gần như tất cả các doanh nghiệp quan trọng khác. Cùng với khối tài sản đó, lão cũng nắm trong tay một Thượng nghị sĩ Mỹ, vài dân biểu, thống đốc bang, thị trưởng thành phố và hầu hết các cơ quan lập pháp của bang. Elihu Willsson là Personville, và gần như là toàn bộ bang. Hồi chiến tranh, IWW - khi đó đang lan rộng về phía Tây - đã giúp đỡ Tập đoàn Khai mỏ Personville. Nói giúp đỡ là không hoàn toàn chính xác. Họ đã sử dụng sức mạnh để đòi hỏi quyền lợi. Elihu già buộc phải chấp nhận và nín nhịn chờ thời. Chuyện xảy ra vào năm 1921. Việc kinh doanh gặp khó khăn. Elihu già không quan tâm xem liệu có phải đóng cửa tạm thời hay không. Lão xé hết những bản thỏa thuận trước đó và đá đám công nhân trở lại tình trạng khó khăn trước thời chiến. Tất nhiên là các công nhân đã yêu cầu sự giúp đõ. Bill Quint được trụ sở chính của IWW ở Chicago cử đến để giải quyết tình hình. Anh ta phản đối bạo loạn hay đình công. Anh ta khuyên họ hãy sử dụng một mánh cũ, trở lại làm việc và phá hoại từ bên trong. Nhưng điều đó là không đủ với các công nhân của Personville. Họ muốn tên mình được biết đến, muốn tạo ra lịch sử. Vậy là bạo loạn nổ ra. Nó kéo dài tám tháng. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Chính các thành viên của Hiệp hội cũng phải đổ máu. Elihu già đã thuê các tay súng, lực lượng chống bạo loạn, vệ binh quốc gia và thậm chí là cả quân đội để chiến đấu cho mình. Khi đám tàn quân cuối cùng bị tiêu diệt, công đoàn của Personville chỉ còn là một xác pháo nổ tan tành. Nhưng, Bill Quint nói, Elihu già không biết gì về lịch sử nước Ý. Lão thắng, nhưng đã đánh mất quyền lực ở thành phố và tiểu bang. Để đánh bại đám thợ mỏ, lão đã để cho đám lính đánh thuê được tự do lộng hành. Khi cuộc chiến kết thúc, lão không thể loại bỏ chúng. Lão đã trao thành phố vào tay chúng và không đủ mạnh để lấy lại. Personville là một miếng mồi ngon và chúng đã chiếm lấy nó. Chúng giúp lão thắng cuộc chiến, và chiến lợi phẩm chúng yêu cầu là thành phố. Lão không thể công khai chống lại chúng. Chúng quá mạnh so với lão. Lão phải chịu trách nhiệm với những gì chúng đã làm trong cuộc bạo loạn. Khi câu chuyện tới được đó thì cả Bill Quint và tôi đều đã chếnh choáng. Anh ta bỏ kính xuống, gạt mớ tóc lòa xòa trước mặt và đưa câu chuyện về thì hiện tại: “Giờ kẻ mạnh nhất trong số chúng có lẽ là tay Pete Người Phần Lan. Thứ chúng ta đang uống đây cũng thuộc sở hữu của hắn. Rồi đến Lew Yard. Hắn có một tiệm cho vay trên phố Parker, chuyên thu tiền bảo lãnh và dính líu tới hầu hết các sự vụ nóng sốt của thành phố - đó là theo những gì người ta nói, và khá thân với Noonan - cảnh sát trưởng. Tay Max Thaler - biệt danh Kẻ Thầm Thì - cũng có rất nhiều bạn. Một gã da màu lươn lẹo có vấn đề ở cổ họng. Không thể nói được. Một tay cờ bạc. Ba kẻ đó, cùng với Noonan, đã giúp Elihu điều hành thành phố của lão - giúp nhiều hơn những gì lão muốn. Nhưng lão buộc phải hợp tác với chúng, hoặc là…” “Người bị bắn tối nay - con trai của Elihu - vị trí của anh ta là ở đâu?” Tôi hỏi. “Ông già đặt đâu thì gã ngồi đó, lúc nào cũng vậy.” “Ý anh là lão già đã khiến anh ta…?” “Có thể, nhưng tôi không cho là vậy. Tay Don đó chỉ vừa mới về nhà và bắt đầu điều hành tờ báo cho lão già. Lão quỷ già này, sắp xuống mồ đến nơi mà vẫn không để cho ai tóm đuôi mà không cắn lại. Nhưng lão phải cẩn trọng với đám kia. Lão đã mang con trai và người vợ quốc tịch Pháp của gã từ Paris về và sử dụng gã như một con khỉ trong rạp xiếc - một chiêu trò chết tiệt của một người cha. Don bắt đầu tiến hành cải tổ tờ báo. Dọn sạch sự tham nhũng và thối nát - đồng nghĩa với việc loại bỏ cả Pete, Lew và Kẻ Thầm Thì, đấy là nếu nó thành công. Anh hiểu rồi chứ? Nước cờ của lão già đã khiến chúng lâm vào thế bị động. Tôi đoán chúng chán chuyện đó rồi.” “Có gì đó sai sai trong suy đoán của anh.” Tôi nói. “Cái chốn đê tiện này còn cả đống thứ sai hơn nhiều. Uống đủ rồi chứ?” Tôi nói đã đủ. Chúng tôi xuống phố. Bill Quint bảo rằng anh ta đang ở trong khách sạn Miners trên đường Forest. Đường về của anh ta đi qua khách sạn của tôi, vậy nên chúng tôi đi cùng nhau. Có một gã cao lớn trông giống một tay cớm mặc thường phục đứng trước khách sạn của tôi, đang nói chuyện với một gã ngồi trong chiếc Stutz du lịch. “Trong xe là Kẻ Thầm Thì.” Bill Quint bảo tôi. Tôi bỏ qua người đàn ông lực lưỡng và thấy khuôn mặt trông nghiêng của Thaler. Hắn còn trẻ, da sậm và nhỏ con, với gương mặt đẹp như tượng tạc. “Hắn trông dễ thương đó.” Tôi nói. “Ừ hứ”, người đàn ông mặc đồ xám đồng ý, “và thuốc nổ cũng thế.” Mời các bạn đón đọc Mùa Gặt Đỏ của tác giả Dashiell Hammett & Nguyệt Minh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Bị Truy Nã
Hiếu Tân (dịch)   Ly kỳ, thương tâm, với những nhân vật mang tính cách mà bạn đọc không thể nào bỏ qua, Kẻ bị truy nã là tác phẩm trinh thám xuất sắc vế thế giới hậu 11 tháng Chín của John Le Carré, một trong những tác giả hay nhất trong thể loại tiểu thuyết tình báo thế kỷ 20, người góp mặt trong danh sách “50 nhà văn Anh vĩ đại nhất sau năm 1945” do tờ Times bình chọn. *** Một trong những tác giả hay nhất trong thể loại tiểu thuyết tình báo thế kỷ 20. Giữa đêm tối mịt mùng, một thanh niên Nga gần chết đói được chở lậu đến Hamburg, trong chiếc ví đeo trên cổ hắn là  một số tiền mặt đáng ngờ. Gã là một người Hồi giáo mộ đạo. Hay là không? Gã xưng tên là Issa. Một cuộc điện thoại bất ngờ gọi tới văn phòng Tommy Brue, chủ ngân hàng tư nhân Anh sắp phá sản trên đất Đức. Cuộc chuyện trò ngắn ngủi giữa chủ ngân hàng dạn dày với nữ luật sư trẻ xinh đẹp đã khởi đầu cho một cú lật nhào cuộc sống của tất cả những người liên quan. Cùng lúc, Issa và chiếc chìa khóa mở tài khoản Lippizzaner bí mật trở thành mục tiêu săn đuổi và giành giật của cả ba cơ quan tình báo khét tiếng phương Tây, nhân danh “Cuộc chiến chống khủng bố”. Ly kỳ, thương tâm, với những nhân vật mang tính cách mà bạn đọc không thể nào bỏ qua, Kẻ bị truy nã là tác phẩm trinh thám xuất sắc vế thế giới hậu 11 tháng Chín của John Le Carré, một trong những tác giả hay nhất trong thể loại tiểu thuyết tình báo thế kỷ 20, người góp mặt trong danh sách “50 nhà văn Anh vĩ đại nhất sau năm 1945” do tờ Times bình chọn. *** Lời khen tặng dành cho Kẻ bị truy nã “Tăm tối, xuất sắc, mê hoặc” - Independent on Sunday “Đầy sức mạnh” - Guardian “Một trong những lời đáp hư cấu phức tạp nhất trước cuộc chiến chống khủng bố từng được xuất bản” - Guardian, Anh “Kẻ bị truy nã mang trong nó mọi yếu tố có thể khiến tác giả của nó trở  thành một trong những người quan sát quan trọng nhất trong giai đoạn lịch sử này của chúng ta.” - Telegraph, Ấn Độ “Nếu ngày nay tiểu thuyết ly kỳ trở thành một thể loại mang tính thời sự nhất thì đó hẳn là nhờ công của ngài le Carré.” - Il Sole, Ý “Vừa lôi cuốn vừa đáng tin đến khủng khiếp.” - La Repubblica, Ý “John le Carré vẫn có tài năng và sinh lực bền bỉ mà nhiều nhà văn trẻ phải ghen tị… Cùng với Kẻ bị truy nã, ông đã cống hiến cho chúng ta một trong những tiểu thuyết hay nhất của mình, đậm đặc những đặc điểm đã làm nên thương hiệu của ông: những đoạn đối thoại được chạm khắc tinh xảo, phân tích tâm lý sâu sắc và sự lộn xộn của hoạt động tình báo quốc tế.” - Libre Belgique, Bỉ “Một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất mà ông đã viết. Có lẽ là quyển hay nhất, có thể lắm... Đây là cuốn sách mạnh mẽ nhất, đầy khí lực nhất của Le Carré. Nó liên quan rất nhiều đến nhịp điệu kể chuyện hầu như hoàn hảo và chất văn xuôi thú vị của nó, nhưng còn liên quan nhiều hơn đến những xúc cảm của độc giả của nó... Một cuốn tiểu thuyết phi thường.” - New York Times Book Review “Giống như Graham Green trước ông, Le Carré sành sỏi thu lượm thông tin trong khi dẫn dụ người đọc vào chính cái cơn mê cuồng vì tò mò đã lôi cuốn các nhân vật của ông...Một câu chuyện được xử lý tốc độ một cách tuyệt khéo, được chế tác một cách dị thường.” - San Francisco Chronicle “Chắc chắn là một trong những quyển hay nhất của ông - có cốt truyện phức tạp, hành văn đẹp, có sức đẩy, đầy tinh thần trách nhiệm đạo đức, nhưng có tính thời sự như những tít báo hàng ngày.”- Los Angeles Times “Le Carré vẫn cứ là đẳng cấp trên so với những hàng xóm của ông trong danh sách các sách bán chạy nhất. Con sư tử đáng nể của tiểu thuyết trinh thám và chính trị ly kỳ tiếp tục khẳng định rằng thể loại này không rời bỏ một giọng điệu đạo đức, cũng như không nên từ bỏ ngôn ngữ thuyết phục.” - Chicago Sun-Times “Le Carré [viết] với một độ kiềm chế tao nhã và một thính giác tuyệt vời. Những đoạn đối thoại của ông căng và sắc nhọn... Le Carré tinh tế trong phân tích những đấu đá tranh giành tệ hại trong nội bộ làng tình báo.” - Boston Globe “Một tập hợp tính cách tuyệt vời, phức tạp, mà chỉ Le Carré mới làm ra nổi.” - Washington Times “Một tiểu thuyết tình báo cực hay... Trong bản cáo trạng về cuộc chiến chống khủng bố, Le Carré đã vẽ nên chân dung chung của những người vô tội bị kẹt trong cái mạng lưới bủa vây bừa bãi của nó.” - GQ “Căng thẳng trong diễn biến, linh hoạt đầy màu sắc khi mô tả khung cảnh Đức và đầy tinh thần truy cầu sự thật khi trình bày Cuộc chiến chống khủng bố.” - Seattle Times “Văn xuôi [của Le Carré] là vô song.” - Newsweek “Một cuốn sách đẹp - cuốn hay nhất của ông... Không nhà tiểu thuyết Anh nào - và rất ít nhà văn kiệt xuất trên thế giới - viết về những sự kiện chính trị hiện thời một cách sắc bén và đầy tưởng tượng như Le Carré.” - Sunday Times (London) “Một cốt truyện phức tạp, thỏa mãn... Văn của Le Carré giữ được vẻ trong sáng và không hào nhoáng; nó trần trụi như những gián điệp của ông, những kẻ đội lốt hơn là chơi dao găm.” - Telegraph “Le Carré xử lý các chất liệu của ông bằng những nét nhẹ nhõm mong manh hiếm hoi, thường thiếu vắng trong những chân dung hiện thời về chống khủng bố: nó là một thứ thôi miên đen, lung linh.” - Independent on Sunday “Vị trưởng lão trong làng tiểu thuyết gián điệp ly kỳ... Ông không bao giờ để lọt khỏi tầm mắt những chiều kích con người trong các nhân vật của ông. Hấp dẫn và đầy những pha hồi hộp.” - Mail on Sunday “Đối thoại của Le Carré đột ngột, nhịp nhàng và hóm hỉnh.” - Sidney Morning Herald “Một nhà tiểu thuyết được ban tặng tài năng gần như một sự kết hợp kỳ lạ giữa những điểm ưu việt nhất của Graham Green và Joseph Conrad.” - Weekend Australian “Một trong những quyển sách hay nhất của ông.” - L’Express “Một kiệt tác văn chương quyến rũ.” - Die Zeit *** Một nhà vô địch quyền Anh hạng nặng người Thổ đang thơ thẩn khoác tay mẹ đi dạo dọc một đường phố Hamburg thì không thể trách anh ta không nhận ra mình đang bị một gã trai gầy nhom mặc áo choàng đen theo dõi. Melik Lớn, như anh được biết đến và ngưỡng mộ trong vùng này, là một chàng trai thân hình đồ sộ, râu ria tua tủa, trông nhếch nhác và tốt bụng, với nụ cười tự nhiên toác đến mang tai và mớ tóc đen buộc lại sau gáy như cái đuôi ngựa, dáng đi lắc lư, nghênh ngang, không có mẹ đi bên thì anh cũng đã choán hết nửa vỉa hè. Ở tuổi hai mươi anh đã là một người nổi tiếng trong cái thế giới nhỏ bé của mình, mà không chỉ về tài nghệ trên võ đài: anh còn là đại biểu trẻ được câu lạc bộ thể thao Hồi giáo bầu lên, ba lần chiếm ngôi á quân trong Giải Vô địch Bắc Đức môn bơi bướm 100 mét, và như thể thế vẫn còn chưa đủ, anh còn là thủ môn xuất sắc trong đội bóng đá ngày thứ Bảy. Giống như phần lớn những người to con khác, anh quen được người ta nhìn hơn là nhìn người khác, đó là một lý do nữa vì sao gã trai còm nhom theo dõi anh đã ba ngày đêm liền mà chưa bị phát hiện. Hai người lần đần tiên chạm mắt nhau khi Melik và mẹ anh, Leyla, từ văn phòng du lịch al-Umma bước ra, vừa mua vé máy bay để về dự đám cưới em gái của Melik ở làng quê họ bên ngoài Ankara. Melik cảm thấy có ai đang nhìn mình chằm chằm, anh đảo mắt nhìn quanh thì đối mặt với một gã trai cao bằng anh, gầy đét, với bộ râu lởm chởm, đôi mắt sâu hoắm đỏ ngầu và một chiếc áo choàng đen dài đủ trùm đến ba lão phù thủy. Gã có chiếc khăn trùm đầu hai màu đen trắng quấn quanh cổ và một chiếc túi yên lữ hành bằng da lạc đà đeo trên vai. Gã trân trân nhìn hết Melik rồi qua Leyla mẹ anh. Rồi gã lại nhìn sang Melik, không chớp mắt, nhưng khẩn cầu anh bằng đôi mắt trũng sâu, tha thiết. Tuy nhiên cái vẻ khốn quẫn tuyệt vọng của gã trai chẳng có gì để Melik phải bận tâm cho lắm, vì văn phòng du lịch nằm ở bìa một phòng đợi nhà ga xe lửa chính, nơi đủ loại linh hồn tội lỗi - những người Đức lang thang, người châu Á, người Ả-rập, người Phi và người Thổ Nhĩ Kỳ như anh, nhưng kém may mắn hơn - suốt ngày lảng vảng, chưa kể đến những người cụt chân ngồi xe lăn chạy điện, những tay buôn ma túy và khách hàng của chúng, những kẻ ăn mày và chó của họ, và một chàng cao bồi bảy mươi tuổi đội mũ rộng vành mặc quần cưỡi ngựa bằng da đính bạc. Vài người có công việc, còn một số ít chẳng có chuyện quái gì để đứng trên đất Đức này mà may mắn lắm là được dung túng theo một chính sách bần cùng có chủ ý, trong khi chờ lệnh trục xuất tức khắc, thường đến với họ vào lúc rạng sáng. Chỉ những kẻ mới đến hoặc những kẻ ngang ngạnh điên rồ mới dám liều mạng. Những kẻ sống chui bất hợp pháp khôn ngoan hơn bao giờ cũng tránh xa các nhà ga. Một lý do chính đáng nữa để bỏ qua gã trai kia là bản nhạc cổ điển mà ban quản lý nhà ga cho mở oang oang hết cỡ trong khu vục này của phòng đợi, phát ra từ những bộ loa nhắm kỹ. Mục đích của nó còn lâu mới là để lan tỏa ra cảm giác bình yên và hạnh phúc tới các thính giả, mà là để tống cổ họ đi. Bất chấp những trở ngại ấy, khuôn mặt của gã trai gầy nhom vẫn in hằn lên ý thức của Melik và trong một khoảnh khắc thoáng qua anh cảm thấy ngượng vì hạnh phúc của mình. Tại sao anh lại phải ngượng nhỉ? Một điều tuyệt diệu vừa xảy ra, và anh nóng lòng gọi điện cho em gái để báo rằng mẹ của họ, Leyla, sau sáu tháng săn sóc người chồng ốm nằm chờ chết, và sau một năm khóc thương ông đến tan nát cả cõi lòng, đang mừng quýnh lên vì sắp được về dự đám cưới con gái, và đang cuống lên về đủ chuyện, nào không biết nên mặc gì, nào của hồi môn có đủ lớn không, nào chàng rể mới thật bảnh trai khiến ai cũng tấm tắc khen, cả em gái của Melik cũng khen. Vậy thì tại sao Melik lại không được huyên thuyên với mẹ? Anh đang làm thế, thật say sưa, suốt quãng đường về nhà. Là do sự im lặng của gã trai gầy guộc kia, lúc sau anh xác định thế. Những nếp nhăn trên một gương mặt còn trẻ như mặt mình, vẻ mặt mùa đông của hắn vào một ngày xuân đẹp đẽ. • • • Hôm ấy là thứ Năm. Và vào tối thứ Sáu, khi Melik cùng Leyla vừa ra khỏi nhà thờ thì gã lại xuất hiện, vẫn gã trai đó, vẫn chiếc khăn và áo choàng rộng quá khổ đó, núp mình trong bóng tối một khung cửa đầy bụi bẩn. Lần này Melik nhận thấy cái thân hình gầy trơ xương đó có dáng đứng nghiêng nghiêng, như thể gã vừa bị đấm bật ra và giữ nguyên góc nghiêng lệch ấy cho đến khi có ai bảo gã đứng thẳng lên được rồi. Và cái nhìn rực lửa thậm chí còn mãnh liệt hơn hôm trước. Melik nhìn thẳng vào đôi mắt trân trối ấy, anh ước giá mình chưa nhìn, và anh nhìn lảng đi. Và cuộc chạm trán lần thứ hai này càng ít có khả năng xảy ra bởi vì Leyla và Melik rất hiếm khi đi nhà thờ, ngay cả một nhà thờ ôn hòa dùng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Từ 11/9, các nhà thờ Hồi giáo ở Hamburg đã trở thành chốn nguy hiểm. Vào nhà thờ không nên vào, hay vào đúng nhà thờ nhưng gặp thầy tế không nên gặp, thế là ta có thể thấy mình và gia đình nằm trong danh sách theo dõi của cảnh sát đến hết đời. Không ai nghi ngờ rằng gần như trong mỗi hàng tín đồ cầu nguyện đều có những kẻ mật báo đi đêm với chính quyền. Không một ai, dù là người Hồi giáo hay chỉ điểm cho cảnh sát, hay cả hai, có thể quên rằng thành Hamburg đã từng là nơi vô tình chứa chấp ba tên không tặc ngày 11/9, chưa nói đến những đồng bọn của chúng, thành viên của nhóm khủng bố, những kẻ âm mưu, hoặc quên rằng Mohammed Atta*, kẻ lái chiếc máy bay đầu tiên đâm vào tòa Tháp Đôi, đã thờ vị thần đầy thịnh nộ của hắn trong một đền thờ bình thường ở Hamburg. Mohammed Atta (1968-2001) là sinh viên Ai Cập học ở Đức cuối những năm 1990. Cùng với Ziad Jarrah, Marwan al-Shehhi và Ramzi Binalshibh lập thành cái gọi là Chỉ bộ Hamburg. Nhóm này sau đó liên kết với al-Qaeda, và Atta là tên không tặc khống chế chiếc máy bay đầu tiên đâm vào tòa Tháp Đôi, 11/9/2001. Mời các bạn đón đọc Kẻ Bị Truy Nã của tác giả John Le Carré.
Gai Hướng Dương
Là một câu chuyện giản dị mà giàu tính nhân văn về cuộc đời hai người phụ nữ: Kotani Natsuko và Ishida Tetsuko. Kotani Natsuko có một sở thích, đó là xoay đám đàn ông trong bàn tay nhỏ của mình. Mặc dù cô ta không có ngoại hình đẹp, chẳng giàu có, thậm chí còn không có một công việc ổn định, thế nhưng bằng cách nào đó, đàn ông luôn cảm thấy vui vẻ khi ở cạnh cô ta và tình nguyện mở ví rút tiền cho cô ta. Và mỗi khi gặp rắc rối, Natsuko lại nhờ một người họ hàng xa giúp đỡ. Đó là luật sư Ishida Tetsuko. Lần đầu tiên là khi Tetsuko hai mươi tư tuổi và bắt đầu làm luật sư, sau đó, với tần suất năm, bảy năm một lần, mối quan hệ khách hàng – luật sư giữa hai người kéo dài suốt gần năm thập kỷ. Rốt cuộc thì Kotani Natsuko là loại phụ nữ như thế nào? Trong đầu người đàn bà được đàn ông nhận xét là “xinh đẹp rực rỡ như mặt trời mùa hè” nhưng lại bị phụ nữ đánh giá là “lẳng lơ, tham lam” ấy chứa đựng những suy nghĩ gì? Đây là những thắc mắc mà không chỉ luật sư Tetsuko, ngay chính người đọc tiểu thuyết cũng sẽ đặt ra một cách rất tự nhiên. Rồi từng chút, từng chút một, hình tượng một Kotani Natsuko mạnh mẽ, đầy sức hút nhưng cũng không kém phần ranh mãnh, ích kỷ sẽ hiện ra chân thực và sống động trước mắt người đọc. *** Dẫu kể Gai hướng dương kể về cuộc đời của hai người phụ nữ, một Natsuko rực rỡ đầy sức sống như mặt trời nhưng lại ích kỷ dối trá, còn Testsuko lại cứng cỏi nghiêm nghị như một samurai cô độc, thì tôi vẫn luôn tìm thấy niềm vui khi khám phá về những nhân vật phụ bên cạnh hai con người ấy. Tôi vô cùng yêu thích cặp đôi văn thư Miyuki và luật sư Ogiwara. Cả hai người đều đã có gia đình nhưng họ quan tâm đến nhau theo một cách rất riêng. Miyuki lớn hơn Tetsuko 8 tuổi nhưng rất để ý đến các thay đổi nhỏ xíu. Cô không thích sự cẩu thả bừa bộn, cô để ý đến từng vết nhăn trên áo của Ogiwara. Chỉ nhìn qua cách gấp khăn của Ogiwara là Miyuki đã biết vợ chồng anh ly thân. Sau này Miyuki còn ghét cô gái mà Ogiwara đang hẹn hò, bởi việc đó khiến anh thay đổi quần áo đang mặc, không đặt lịch làm việc trước,… nói chung là vô tổ chức. Những tưởng Miyuki có tình cảm với Ogiwara nhưng có vẻ không như vậy, mối quan hệ giữa họ cao cả hơn cả tình yêu. Đó là tình giữa những con người đã gắn bó với nhau suốt nhiều năm liền. Review sách gai hướng dương Ngược lại, Ogiwara rất tin tưởng vào con mắt nhìn người của Miyuki, luôn hỏi ý kiến của cô trước khi nhận một vụ nào đó. Phong cách của Miyuki là luôn tiếp đón những người xa lạ như người thân, chứa trong đó bao nhiêu tình cảm. Mỗi câu nói của cô đều kéo tâm trạng người ta tốt hơn, cảm thấy gần gũi và sẵn sàng chia sẻ thông tin. Có lần cô ấy đã nói với theo một đứa trẻ, người đến văn phòng luật sư yêu cầu văn phòng đừng để cha mẹ ly hôn, rằng “Cháu có muốn mình hạnh phúc không?.. Cháu phải học cách chấp nhận những điều không thích cũng như nỗi buồn. Như thế mới dễ sống hơn được.” Cái câu nói ấy đã khiến cả Tetsuko và tôi phải suy nghĩ. Liệu cố gắng sửa chữa hoặc thay thế một cái gì đó mình không thích có phải là điều khiến mình hạnh phúc? Dù luôn liên kết với nhau theo một cách nào đó, nhưng cả Miyuki và Ogiwara đều vẫn rất quan tâm đến gia đình nhỏ của riêng mình. Ogiwara đã nhờ Tetsuko mua hoa để tặng cho con gái trong một buổi hẹn riêng với cô bé. Theo lời Ogiwara thì cô bé dù còn nhỏ mà đã cư xử như một bà cụ non và muốn được đối xử như một phụ nữ chân chính. Còn Miyuki dù rất yêu thích công việc tại văn phòng luật sư nhưng cũng quyết định rằng mình đã đến tuổi nghỉ ngơi. Bởi cô nhìn thấy bóng lưng người chồng khi về già sao mà nhỏ bé đến đáng thương, đó là khoảnh khắc Miyuki mong muốn được ở bên chồng cho đến cuối đời. Câu chuyện giữa người với người trong Gai hướng dương kéo dài hơn 40 năm, không chỉ là giữa mối oan gia giữa Natsuko và Tetsuko mà còn là tình bạn đẹp đẽ của Miyuki và Ogiwara. Đó mới thực sự là tri kỷ. Trương Thu Hoài Review *** Hay quá! Để viết lời bình của cuốn tiểu thuyết này, tôi đã đọc lại cuốn sách. Tuy đã đọc rồi nhưng cũng có nhiều đoạn khiến mắt tôi cay cay. Ví như đoạn nhân vật chính và đối tượng ngồi xem lại cuốn băng ghi âm lời nhắn nhủ của người đã khuất. Hoặc lúc chiếu lại bằng máy DVD cầm tay lời xin lỗi của người chồng đối với vợ cũ. Đó là đoạn Iso-kun đi cùng Ishida Tetsuko, và cậu ta đã khóc sướt mướt. Trong lòng tôi cứ nhủ thầm, Iso-kun, không được khóc đâu đấy, thế mà ngay cả tôi cũng khóc theo. Và cảnh cuối cùng khiến tôi cay mắt là lúc cao trào của truyện. Ôi, tôi thật muốn kể ngay với các bạn tại đây, nhưng thế thì mất hết cái hay, nên phải nhịn thôi. Phải giới thiệu về nội dung trước chứ nhỉ! Giờ chúng ta đi theo trình tự nhé! Đây là câu chuyện về một bậc thầy lừa đảo. Cuốn sách kể về cuộc đời chìm nổi của Kotani Natsuko, một kẻ lừa dối bẩm sinh, vô cùng ích kỷ và chuyên dựng chuyện. Cách nhanh nhất để hình dung về nhân vật này là qua lời nhận xét: “Nat-chan ấy mà, có tài năng thiên bẩm đấy, tài năng khiến cho đàn ông nhận ra được ước mơ của mình.” Thủ pháp này của tác giả cũng thật tài tình. Cô ta đến ngồi cạnh một người đàn ông bên quầy bar, hỏi anh ta nếu trúng số một triệu yên thì sẽ làm gì. Anh chàng kia liền bảo sẽ đi du lịch nước ngoài, thế là câu chuyện tiếp tục theo kiểu đi đâu rồi lúc nào, vân vân. Thực tế là anh ta chẳng trúng số, thậm chí chắc chả bao giờ mua xổ số, thế mà lại trái qua hai tiếng đồng hồ vui vẻ bên nhau. Khi ra về, cứ thử bảo là tháng sau mình không có tiền để trả tiền nhà xem, thế nào anh chàng chẳng lẳng lặng đem hết tiền trong túi ra đưa cho. Ngày hôm sau, cô ta lại ngồi cạnh một anh chàng khác bên quầy bar, rồi cũng chuyện trò rằng nếu trúng số một triệu yên, anh ta sẽ làm gì. Ngoài ra, xếp hạng mười điều vui vẻ trong cuộc đời cũng là phong cách của Natsuko. Cho dù cuộc đời có khổ đau thế nào thì cũng có một, hai việc vui, thế rồi cố gắng phân loại cái nào hơn, cái nào kém. Nhớ đến những lúc vui vẻ, con người ta sẽ trở nên dễ chịu. Bằng cách này, Natsuko đã giúp thay đổi tâm trạng cho một bệnh nhân mà cũng chẳng phải là con mồi của cô ta. Thật là một kẻ lừa đảo thú vị! Người chồng trước của Natsuko, Yoshiaki, đã nói như thế này: “Như cô biết đấy, cô ấy là người chỉ biết đuổi theo giấc mơ. Thấy tôi từ bỏ ước mơ, cô ấy khích lệ rằng không sao đâu, ai rồi cũng sẽ gặp phải chướng ngại, nhưng trên chướng ngại đó cũng sẽ có bao nhiêu là đường thông. Mắt con người chỉ để ý đến chiều cao của chướng ngại mà không biết nếu nhìn cẩn thận sẽ có đường vượt qua. Cô ấy đã đánh giá nhầm về tôi như thế đó. Lúc cô ấy ở bên, tôi như được ban cho phép màu.” Cô ta chẳng phải xinh đẹp tuyệt trần, nhưng lại khiến người khác bị hấp dẫn. Ở cùng Natsuko, chẳng hiểu sao mọi người lại thấy vui vẻ, cười nói liên tục. Tuy cô ta nói dối, tuy cô ta ích kỷ, tuy cô ta phiền phức, nhưng đó là người phụ nữ đầy sức hút. Việc tạo nên một nhân vật Natsuko như thế là điều tuyệt vời nhất của cuốn sách này, làm nên một nửa thành công cho câu chuyện. Vậy nửa còn lại là gì? Nếu nhìn vào cấu tứ của cuốn sách, chúng ta sẽ hiểu. Có nghĩa là, cách kể chuyện thông qua nhân vật luật sư Ishida Tetsuko. Đối với Tetsuko, Natsuko là cháu của em gái bà ngoại, là họ hàng xa. Lúc còn là một luật sư mới vào nghề, Tetsuko ở độ tuổi hai mươi tư cảm thấy không mấy thân thiết với người họ hàng mười bảy năm không gặp này. Hơn nữa, người này còn để lại ấn tượng xấu trong cô. Năm bảy tuổi, đến thăm nhà bà ngoại, cô gặp cô bé Natsuko cùng tuổi. Bà ngoại yêu thích may và nên đã may cho hai cô bé hai bộ váy giống nhau, và cho hai cô mặc thử luôn. Ngày hôm sau, chiếc: váy của Tetsuko bị xé tan tành, vứt trong máy giặt. Thủ phạm chính là Natsuko nhưng cô ta không hề nhận lỗi. Với một người như thế, làm sao thấy thân thiết được? Rồi mười bảy năm sau, cô ta gọi điện đến bảo là đang gặp rắc rối nên muốn gặp mặt trao đổi. Từ đó về sau, cứ vài năm, Natsuko lại liên lạc bảo là bị đòi tiền bồi thường, đang gặp rắc rối. Mối quan hệ giữa họ bắt đầu như thế. Lần thứ hai gặp mặt là năm năm sau, lần tiếp theo là bảy năm sau. Sau đó là bốn năm, bảy năm, chín năm, chín năm, sáu năm. Trong khoảng thời gian đó, Natsuko kết hôn rồi ly hôn, yêu trai trẻ, lừa người già, làm công nhân vệ sinh ở bệnh viên, làm nakai ở ryokan. Mỗi lần gặp là một lần nghề nghiệp thay đổi. Nơi ở cũng chuyển hết nơi này sang nơi khác, Hirosaki, N agoya, Wakayama, Yamaguchi, mỗi lần Tetsuko đều đến tận nơi. Mối quan hệ có thể gọi là nghiệt duyên giữa họ cứ thể duy trì. Dĩ nhiên trong quá trình này, Tetsuko cũng dần già đi. Ở chương một, cô ấy là một luật sư tập sự ở Văn phòng luật Ogiwara, hai mươi bốn tuổi, đến chương cuối, cô ấ đã nghỉ huu, là một bà lão bảy mươi mốt tuổi. Đây là một câu chuyện trải dài qua bao năm tháng như vậy, nhưng xin lưu ý rằng chưa một lần nào Natsuko xuất hiện độc lập, toàn bộ đều là qua lời kể của người khác. Đó là những đối tượng tố cáo Natsuko, hoặc là người quen ở nơi đó, là chủ quán nơi Natsuko thường đến. Thủ pháp này được sử dụng xuyên suốt cuốn sách. Không hề có câu thoại nào từ Natsuko cả. Xin chủ ý rằng, cảnh Tetsuko gặp Natsuko thường được miêu tả dưới dạng hồi tưởng, ví dụ: “Bốn tiếng trước lúc gặp Natsuko, bên khóe miệng bà ấy đã xuất hiện nếp nhăn tuổi tác.” Natsuko chưa từng xuất hiện ở bề nổi của câu chuyện. Triệt để đến mức như vậy, có thể thấy đây chính là ý đồ của tác giả. Dĩ nhiên, nội tâm của nhân vật Natsuko cũng không hề được miêu tả. Đây chính là đặc điểm lớn nhất của cuốn sách. Vì lý do đó, hình ảnh của thiên tài lừa đảo này mang sắc thái phong phú và có chiều sâu, càng ngày càng phát triển. Một điểm quan trọng nữa, đó là song song với việc miêu tả cuộc đời của thiên tài lừa đảo Kotani Natsuko, cuốn sách còn dành phần lớn đất để miêu tả cuộc đời của luật sư Ishida Tetsuko. Từ lúc còn là luật sư tập sự, không biết làm thế nào để thu xếp công việc, rồi dần dần biết việc hơn, tích lũy kinh nghiệm, cho đến khi nghỉ hưu. Cuộc đời của nhân vật được miêu tả rất sống động và chân thực. Khác với một Natsuko luôn rực rỡ và giỏi xã giao, Ishida Tetsuko không cởi mở, bạn bè cũng chẳng có, chỉ biết đến công việc. May mắn thay, cô được vào làm luật sư tập sự ở Văn phòng luật Ogiwara. Cô không nghĩ đến việc ra riêng, có lẽ là vì tôn trọng nhân cách của luật sư Ogiwara. Một lý do nữa là Miyuki đã hỗ trợ rất tốt cho cô, cũng như rất giỏi trong việc quyết toán. Luật sư tập sự mới của văn phòng Isozaki cũng là một thanh niên tốt. Tetsuko còn có người bạn thân là chồng cũ Sakaguchi, một người chị cá tính, và một người anh tuy vô dụng nhưng không thể nào ghét được. Tuy có lúc này lúc khác, nhưng có thể nói rằng Tetsuko đã may mắn gặp được họ. Nhưng cô có người bạn thực sự nào không? Cô có thực sự hạnh phúc không? Vụng về, cô đơn, dường như lúc nào cũng có thể bị sự trống rỗng nhấn chìm, chúng ta có thể thấy mình trong một Tetsuko như thế. Chúng ta không thể sống như Natsuko, nếu được vậy thì không biết sẽ tuyệt đến mức nào. Nhưng cuộc đời là thế, rất nhiều chuyện có muốn cũng chẳng được. Đúng vậy, cho nên tôi mới bị cuốn sách này thu hút. Lúc nhận ra điều này, tôi nhớ đến đoạn cuối. Cho dù không có bạn bè, mỗi ngày đều làm bạn với nỗi cô đơn thì cũng đừng chán nản với cuộc đời. Những lời trong bức thư cuối khiến tôi xúc động. Đây là cuốn tiểu thuyết hay, một kiệt tác của Katsura Nozomi. Nhà phê bình văn nghệ Kitagami Jiro Mời các bạn đón đọc Gai Hướng Dương của tác giả Nozomi Katsura.
Vụ Án Mạng Thứ Sáu
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của "Vua trinh thám Việt" - nhà văn Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lí trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Vụ án mạng thứ sáu là tác phẩm tiếp theo trong Series truyện Thám tử Kỳ Phát, đánh dấu sự trở lại của Kỳ Phát sau một thời gian ở ẩn. Đón chờ chàng thám tử tài ba của chúng ta là một vụ án khá hóc búa. Hai cụ già, có thân phận và hoàn cảnh không liên quan gì đến nhau nhưng lại lần lượt bỏ mạng bởi một sợi dây thừng siết chặt quanh cổ. Thủ phạm sau khi ra tay đã để lại những lời cảnh báo đầy ngạo mạn, tự xem mình là "sứ giả" được Trời sai xuống để "hóa kiếp" cho các cụ già tới số. Bí mật ẩn sau những vụ án mạng này là gì? Thân phận thật sự của kẻ giết người là ai? Liệu Kỳ Phát có thể tìm ra thủ phạm trước khi có thêm những nạn nhân mới. *** Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Vụ Án Mạng Thứ Sáu Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Kỳ Phát giết người: Một hôm, nhận được thư của Cúc, Kỳ Phát vội vàng tới gặp tình cũ. Chồng Cúc mới qua đời, đứa con trai tên Hoàn lại bị bắt cóc, khiến cho nàng vô cùng hoang mang, đau đớn. Cùng lúc đó, một cậu bé tên Hoàn khác cũng mất tích. Kỳ lạ là trong cả hai vụ, hai gia đình đều bị trộm đột nhập nhưng chỉ mất mấy đôi đũa. Ai là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả mọi chuyện? Kỳ Phát phải làm gì để tìm được con trai Cúc? Bí mật nào ẩn giấu đằng sau hai vụ bắt cóc và những đôi đũa bị đánh cắp? *** Qua con đường Sông Máng ngoằn ngoèo khúc khuỷu, tới gốc đa cụt, rẽ theo con đường điện thoại lối hai trăm thước thì đến đầu làng Văn Bối. Người ta có cảm tưởng như vừa bước vào một ngôi đền rộng lớn, vì ở đây, cổng làng dựng theo kiểu tam quan, và từ đó trở đi, đường lát toàn bằng đá phiến màu xanh biếc, bên lề lại có hàng thông, tiếng reo theo gió vi vu... Ngay cổng làng có hai dãy hàng quán: mấy lều bán nước, một hiệu thợ giày, một nhà chữa xe đạp, còn thì toàn hàng thịt chó. Ở đây, hình như có mấy tay chuyên môn làm thịt chó đã nổi tiếng từ xưa ở Hà Nội, vẫn thường được triệu đến khi các nhà quyền quý muốn thiết khách phương xa một bữa tiệc thịt chó cầu kỳ. Tới đây, chàng thiếu niên chợt dừng bước, ngơ ngác nhìn quanh, vì như thoáng nghe tiếng gọi: - Ông Kỳ! Ông Kỳ! Không thấy ai là người quen thuộc, chàng lại toan cất bước, ngờ rằng cặp tai mình bị huyễn hoặc theo dư âm của tư tưởng vừa thoáng qua. Nhưng không, quả có tiếng người gọi: - Ông Kỳ! Tiếp đó là tiếng người vừa hỏi, vừa cười ha hả: - Ông Kỳ Phát, ông đã chóng quên anh em thế? Kỳ Phát nhận ra người gọi mình là một người vào trạc tứ tuần, nhỏ bé, vận một bộ com-lê màu rêu rộng thùng thình, dáng chừng mua lại của một hàng quần áo cũ nào đó, đầu đội một chiếc mũ cát-két bằng da báo. Người ấy rướn cổ nhòm ra, trước một cửa hàng thịt chó, những toan chạy theo ra hẳn nếu Kỳ Phát không dừng bước. Sự thực, tuy ngờ ngợ quen quen, Kỳ Phát cũng chưa nhận ra là ai cả. - Ông Kỳ, thì ông hãy vào đây đã nào, ông hàng đây không lấy tiền chỗ ngồi của ông đâu mà sợ. Ông hàng thịt chó cũng đon đả tiếp: - Nhà cháu vừa pha ấm nước ngon lắm! Người đội mũ cát-két vênh mặt lên bảo ông chủ hàng: - Uống nước là thế nào? Hôm nay thì ông Kỳ phải ở lại đây xơi rượu đã! Và thấy Kỳ Phát có vẻ lúng túng, chưa biết trả lời ra sao thì người ấy lại phá lên cười: - Lòng người chóng thay đổi thực, ông quên tôi chứ tôi quên ông thế nào được? Vậy ông không phải họ Kỳ tên Phát, là chàng trinh thám muôn đời vẫn còn trẻ mãi trong lòng người ư? Ông quên thiên hạ, đã bao năm nay kín tiếng bặt hơi, nhưng thiên hạ quên ông sao được, người ta vẫn nhớ ông mãi, nhớ ông là người anh hùng trong bao vụ án rắc rối ly kỳ như vụ “Nhà sư thọt”, “Ba viên ngọc bích”... Người ấy nói nhiều quá, làm cho Kỳ Phát ngượng và không còn cách nào hơn là bước vào hàng: - Tôi gần đây không được khỏe lắm nên trí nhớ kém đi nhiều... Người ấy vỗ vào vai chàng, gật gù đỡ lời: - Nào tôi có dám trách gì ông đâu! Năm, sáu năm rồi còn gì nữa! Nhưng để tôi nói ông nghe... Thế này thì ông sẽ nhớ ra ngay tức khắc: tôi chính là bác Ba “thợ cạo” vẫn ngồi làm ở cửa nhà ông... gì này này, bạn ông ấy mà... Kỳ Phát reo lên mừng rỡ: - Bác Ba Hùy! Người đội mũ cát-két cũng reo lên nhắc lại: - Ba Hùy, đúng rồi, chắc ông không bao giờ lại ngờ “tha hương ngộ cố nhân” đấy nhỉ? Kỳ Phát không ngờ, vì chàng không bao giờ tưởng tới lại có thể gặp ở chỗ hẻo lánh này người thợ cạo mà chàng vẫn gọi đùa là Ba Hùy, người mà bạn chàng, hoặc chàng, mỗi khi đi vắng lại khóa cửa dặn: - Này, bác Ba Hùy, hễ có ai gọi hỏi gì thì bác nói giùm rằng chúng tôi đi hai hôm nữa mới về nhé! Bác Ba Hùy, vì hàng ngày vẫn bắc chiếc ghế vải ngồi cắt tóc cho khách ngay ngoài cửa nhà này, nên đã thành một “nhân viên thường trực” không lương cho hai chàng thanh niên ưa hoạt động. Kỳ Phát ngắm nghía Ba Hùy lại một lần nữa, rồi cười bảo: - Trông bác sang thế này, khác hẳn trước, thì tôi nhận ra sao được! Ba Hùy vỗ vào túi áo rồi đặt chiếc mũ cát-két xuống, trả lời: - Nghĩa là cũng “hình thức” cả thôi, ông ạ. Được cái tản cư thế này com-lê com liếc hay quần nâu áo vải, ăn vận thế nào cũng được, láo nháo chẳng ai để ý đến ai cả. Quay lại ngắm nghía Kỳ Phát, giây lâu, Ba Hùy tiếp: - Trông ông thì vẫn thế, chẳng thay đổi chút nào cả. Vẫn cặp mắt sáng nhanh, vẫn cái cười nửa miệng, còn cách ăn vận đối với ông thì chẳng kể được, ngay thời bình cũng vậy, ông luôn luôn thay hình đổi dạng đố ai nhận ra được nữa là... Ngừng lại một phút để suy nghĩ bác lại tiếp: - Đã hai lần tôi gặp ông đi qua đây, song không dám gọi vì thấy ông đi vội, và lại tôi cũng ngại sợ ông bận việc gì. Kỳ Phát mỉm cười, lắc đầu bảo: - Tôi có bận gì đâu, ít lâu nay chẳng làm gì, chỉ nằm một chỗ xem sách nên sinh ra lười, không giống như ngày xưa luôn luôn ưa hoạt động... Ba Hùy nhìn Kỳ Phát chăm chú giây lát, bỗng thở dài nói: - Nếu thế thì tiếc lắm nhỉ, tôi cứ tưởng rằng óc trinh thám của ông vẫn còn ưa tìm tòi hoạt động nên muốn hiến ông một vụ... Bỗng Ba Hùy dừng bặt, bước sấn lại bên Kỳ Phát, nắm chặt lấy hai vai chàng, nhìn sát lại gần thật kỹ, rồi ha hả cười lớn: - Có thể chứ, Kỳ Phát bao giờ cũng là Kỳ Phát của thời xưa. Tôi thấy mắt ông sáng quắc hẳn lên khi thoáng nghe có chuyện ly kỳ bí mật, tôi biết chắc rằng ngọn lửa thiêng trong lòng chàng thanh niên trinh thám số một của nước Việt Nam vẫn cháy bất diệt suốt ngàn đời... Kỳ Phát mỉm cười, kéo Ba Hùy ngồi xuống rồi bảo: - Điều này tôi nhận xét thì chắc không sai được, đó là ông Ba Hùy của tôi dạo này nói nhiều lắm, thao thao bất tuyệt, tôi không tài nào theo kịp được. Quay lại phía ông hàng thịt chó, Kỳ Phát vui vẻ tiếp: - Mà rượu của ông hàng chắc hẳn phải ngon lắm, nên ông bạn tôi đây càng uống càng ngọt giọng nói nhiều... Ba Hùy gật gù cười khi, ngắt lời Kỳ Phát: - Chết chửa, mải chuyện lôi thôi quên ngay mất điều cốt tử. Rượu hàng đây là của lò ngon nhất Đồng Văn, uống ngọt giọng mà say phải biết. Ông hàng cho thêm đũa chén ra đây, ông Kỳ phải uống với tôi một bữa thực là say túy lúy! Kỳ Phát lắc đầu từ chối: - Thôi, ông để cho khi khác. Ông cũng chẳng còn lạ gì, tôi có uống được rượu đâu, góc chén hạt mít thì đã gọi là say túy lúy, mặt bấy giờ sẽ hệt như Quan Công hiển thánh... Ba Hùy vẫn không lưu ý đến lời Kỳ Phát, vẫn ung dung lấy giấy bản lau đũa chén cho chàng rồi rót rượu: - Điều ấy không can hệ gì mấy, ông Kỳ ạ! Tôi chỉ muốn biết: ông thích tôi kể cho ông nghe vụ án ly kỳ hiện đương làm cho nhà chuyên trách vùng này rối như tơ vò không? Kỳ Phát gật đầu: - Điều ấy thì đã hẳn rồi, ông còn hỏi tôi thì khí thừa một chút! Ba Hùy gật gù đắc ý: - Vậy thì ông Kỳ ạ, ông không nên từ chối gì hết, hãy uống rượu và nhắm món rựa mận đi đã, ông sẽ thấy rằng ông hàng đây quả đã xứng danh là vô địch trong khoa nấu nướng thịt cầy... Kỳ Phát lắc đầu: - Ngồi chơi với ông thôi, chứ uống rượu thì chịu, tôi có uống được đâu... Ba Hùy ngắt lời: - Không nói lôi thôi gì hết, tôi chỉ biết có một điều kiện: ông có thích nghe chuyện thì đánh chén thịt chó với tôi, bằng không thì tôi nhất định nửa lời cũng không nói nữa... Kỳ Phát biết rằng Ba Hùy đã nắm được nhược điểm của mình, đành đấu dịu: - Vâng, thì tôi xin uống rượu thôi, chứ còn thịt chó thì chịu... - Sao lại chịu? “Sống ở trên đời chén miếng dồi chó” mà lại! - Không, tôi không biết ăn thịt chó thực! - Lại không biết! Cái gì mà đầu tiên người ta chẳng không biết, vậy rồi mà cũng biết tất. Ông Kỳ Phát ạ, ông không nên thoái thác, ông xơi một hớp rượu, rồi nhắm một miếng chả chó xem nó có “thú lý tình” không? - Tôi không biết ăn thực! - Tôi đã bảo không sao mà lại, rồi biết tất. Vả lại, ông chớ có quên, tôi chỉ có một điều kiện, ông phải đánh chén thịt chó với tôi, nếu không... Ngừng lại một phút, Ba Hùy nheo cặp mắt tinh nghịch nhìn Kỳ Phát: - Mà vụ án ly kỳ đặc biệt ông ạ, một án mạng, hai ba án mạng, rồi không chừng năm sáu án mạng nữa tiếp theo... Kỳ Phát gợi chuyện: - Ông nói đúng đấy, đã có hai ba thì sẽ tiếp theo năm sáu là thường, nhưng phải biết rõ người bị giết đầu tiên đã. Ông có thấy gì đáng để ý... Ba Hùy cười ha hả, gắp một miếng chả chó đặt vào bát Kỳ Phát rồi tủm tỉm cười: - Tôi tuy vô phép ông mà uống trước mất non một cút rượu rồi, nhưng tôi vẫn chưa đến nỗi say đâu, ông ạ, và không say, lẽ tất nhiên tôi không dại gì mà ông chưa đánh chén với tôi, tôi đã khờ khạo đi nói chuyện cho ông nghe về vụ án, dù là một đoạn mở đầu! Nào, xin rước ông, ta hãy đưa cay đi đã, rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Kỳ Phát biết Ba Hùy đã nhất định đưa mình vào con đường cụt, khó thoát lối nào được nữa. Chàng gắp miếng chả chó lên rồi lại ngần ngại đặt xuống bát. Ba Hùy khuyến khích: - Ông cứ xơi thử mà xem, ngọt hơn thịt bò mà đậm hơn thịt gà, ông ạ, ăn một miếng thịt chó làm đúng cách thì dư vị còn ngon đến ba ngày sau không ít... Người ta vẫn nói, sức mạnh của tuyên truyền lợi hại thực, có nói thành không, không thành có là thường. Kể ra thì Ba Hùy tuyên truyền cho cái sự ngon lành của món ăn hoàn toàn Việt Nam ấy cũng đã mạnh, nhưng Kỳ Phát lúc nhắm miếng thịt chó đầu tiên trong đời vẫn thấy rùng mình ghê rợn, và chàng vội vàng tợp ngay một hớp rượu đưa cay... Ba Hùy ha hả cười lớn: - Khá lắm, có thể chứ, biết mùi rồi, chỉ sợ từ nay ông lại chẳng ngày nào cũng lại đây đánh chén thịt chó tì tì! ... Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Thứ Sáu của tác giả Phạm Cao Củng.
Đứa Con Xa Lạ
Đứa con xa lạ là tiểu thuyết của nhà văn Anh - Rachel Abbott. Tác phẩm vừa được Nguyễn Xuân Hồng dịch, Nhà xuất bản Văn học và Văn Việt Books phát hành. Câu chuyện mở đầu bằng một vụ tai nạn khó hiểu trong một đêm không trăng. Caroline Joseph lái xe đưa con gái sáu tuổi Natasha về nhà sau bữa tối cùng họ hàng thì nhận một cuộc điện thoại bí ẩn. Sau cuộc điện thoại, chiếc xe của cô bị trượt trên đường và lật ngửa. Caroline qua đời còn con gái cô - Natasha - biến mất không dấu vết. Sáu năm sau, Natasha đột ngột xuất hiện trong nhà như một bóng ma bí ẩn. Bố cô là David lúc này đã đi bước nữa với Emma và có cậu con trai nhỏ tên Olive. Natasha đối xử với bố và dì như những kẻ thù với sự lạnh lùng, tàn nhẫn mà khó ai ngờ một đứa trẻ 12 tuổi có thể làm được. Cô bé cũng không hé một lời về sáu năm qua của mình và vì sao cô có thể quay trở về. Cuộc điều tra của cảnh sát dần hé lộ thân phận của Natasha. Ngoài sự căm hận với bố, Natasha còn phải đứng trước lựa chọn hoặc làm theo hoặc bị những kẻ điều hành giết. Trong thời gian đó, chính Natasha bị cảm hóa bởi sự kết nối lạ lùng với người mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ.Trong khi David cố tìm cách để kết nối lại với con gái, vợ anh là Emma cảm thấy bất an trước sự xuất hiện lạ lùng của Natasha. Khi Emma ra ngoài để tránh sự ngột ngạt trong gia đình, con trai cô Olive đã bị Natasha giao cho những kẻ bí ẩn. Tác phẩm cũng dần hé lộ người liên quan tới vụ tai nạn của Caroline Joseph năm nào. Sâu xa của vụ việc là những mối quan hệ làm ăn bí hiểm, những lựa chọn, đấu tranh để giữ gìn hạnh phúc... *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Thêm mười phút nữa, và cô sẽ an toàn ở nhà. Caroline Joseph rùng mình khoan khoái vì chuyến đi dài đằng đẵng sắp kết thúc. Chưa bao giờ cô thích việc lái xe ban đêm và cô luôn cảm thấy hơi mất kiểm soát. Từng cặp đèn pha tiến đến gần dường như đều hút cô về phía chúng, thứ ánh sáng màu trắng của chúng soi tỏ không gian trong xe, trong khi cô nắm chặt vô lăng, cố hướng chiếc xe thẳng về phía trước. Nhưng giờ thì không còn lâu nữa. Cô mong được đem Natasha đi tắm nước ấm, uống một cốc sô cô la nóng, và ủ con bé trên giường. Sau đó cô có thể dành nốt thời gian còn lại của buổi tối cho David. Anh đang gặp chuyện gì đó bực bội, và Caroline nghĩ rằng nếu họ có thể ngồi trước đống lửa cùng với một ly rượu vang khi Natasha đã say ngủ thì cô có thể thuyết phục được anh nói ra mọi chuyện. Chắc chắn phải là chuyện gì đó liên quan đến công việc. Cô liếc nhìn cô con gái quý báu của mình qua gương chiếu hậu. Tasha đã sáu tuổi - hay sáu ba phần tư, như cách cô vẫn thích đem khoe - mặc dù thân hình mảnh khảnh của con bé khiến nó trông nhỏ tuổi hơn. Mái tóc vàng nhạt của nó buông thành những lọn quăn mềm mại trên vai, và những đường nét thanh tú của nó thỉnh thoảng lại sáng bừng lên trong thứ ánh sáng vàng khi họ đi qua những ngọn đèn đường. Mắt con bé nhắm chặt, và Caroline mỉm cười trước vẻ bình an của con bé. Hôm nay Tasha thể hiện tính cách dịu dàng như thường lệ, chơi rất vui vẻ với anh chị em họ trong khi đám người lớn bận rộn làm theo lệnh bố của Caroline. Ông cụ đã đưa ra một “chỉ dụ” - lần này tuyên bố rằng Caroline, cùng với các anh chị em và gia đình của họ, phải đến dự một bữa tối trước dịp Giáng sinh. Bình thường, tất cả mọi người đều vâng lời. Tất cả mọi người có nghĩa là trừ David ra. Đường rẽ vào những con hẻm dẫn tới nhà họ vùn vụt tiến lại gần, Caroline liếc nhìn Natasha lần chót. Khi họ rời khỏi đường chính và xa dần những khung cửa sổ của các cửa hiệu đèn đuốc sáng choang, quầng sáng màu hổ phách của những ngọn đèn đường cao vút, khoang sau xe chìm vào bóng tối. Con bé ngủ suốt cả chuyến đi, nhưng lúc này bắt đầu cựa quậy. “Con ổn chứ, Tasha?” Caroline hỏi. Đứa bé chỉ làu bàu đáp lại, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn để trả lời trong lúc đưa mu bàn tay dụi dụi mắt. Caroline mỉm cười. Cô đạp nhẹ phanh và chuyển số để rẽ. Tất cả những gì cô phải làm là chạy nốt vài dặm đường cuối cùng của chuyến đi này, dọc theo những ngõ phố hẹp có hàng giậu hai bên, chìm sâu trong bóng tối, và rồi cô có thể nghỉ ngơi. Cô chợt thấy lo lắng về David. Anh biết cô rất ghét lái xe buổi tối, và lẽ ra anh có thể cố gắng - vì Natasha, nếu không phải vì cô. Hôm nay cả hai người đều nhớ anh. Có một chuyển động đột ngột bên trái thu hút ánh mắt của Caroline, và cô xoay đầu về phía đó, tim cô đập nhanh trong lồng ngực. Một con cú xà thấp xuống hàng giậu, phần ngực trắng xóa của nó bắt trọn quầng ánh sáng từ đèn pha của cô, sáng rỡ trên nền trời đen. Cô thở phào. Trời không có trăng, và mặt đường đen kịt trên các ngõ phố dẫn tới ngôi nhà của họ lấp loáng những hạt sương. Mọi thứ xung quanh cô dường như yên tĩnh hoàn toàn, như thể cả thế giới vừa dừng lại, và giờ nếu con cú bay đi thì cô là vật duy nhất vẫn còn chuyển động. Caroline biết, nếu cô mở cửa sổ, sẽ chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng động cơ xe ầm ì khe khẽ. Phía trước hay đằng sau đều chẳng có ánh sáng, và trong phút chốc, nỗi sợ bóng tối rất tự nhiên của cô nhăm nhe ụp xuống. Cô rướn người về phía trước, bật radio với âm lượng nhỏ, cảm thấy bình tâm nhờ sự vui tươi của những ca khúc dịp lễ. Chẳng mấy cô sẽ phát ngán với những âm thanh này nhưng ngay lúc này, sắc thái vui vẻ thường lệ của chúng khiến cô thấy thư thái. Cô mỉm cười khi điện thoại trên ghế ngồi cạnh mình bắt đầu reo. Chắc chắn rằng đó là David muốn hỏi khi nào cô về, cô chỉ hơi liếc nhìn màn hình, nhưng đúng khoảnh khắc cuối cùng cô nhận ra, cuộc gọi đến từ một số đã được ẩn. Cô chạm vào màn hình và hủy cuộc gọi. Dù là ai thì cũng cứ đợi tới lúc cô về đến nhà đã. Cô đánh lái bằng một tay để cua nhanh trong lúc đặt điện thoại trở lại ghế ngồi, khiến chiếc xe hơi trượt đi trên mặt đường lạnh lẽo. Cô cảm thấy hơi hoảng. Nhưng chiếc xe vẫn vững, và cô lại thở bình thường. Caroline ngoặt thật cẩn thận ở những chỗ tiếp theo, nhưng đôi vai căng cứng của cô trùng xuống khi cô chạy đến một đoạn đường thẳng có bờ giậu cao che chắn, cùng những đường rãnh sâu dọc hai bên. Caroline rướn sát vào kính chắn gió, đăm đăm nhìn sâu vào màn đêm. Đèn pha xe cô đang rọi vào một khoảng tối thẫm hơn - có gì đó trong ngõ phố phía trước. Cô hơi đạp phanh và ve một số, chạy chậm lại vẻ phòng xa. Cô chuyển tiếp về số hai để tiến gần vật cản, hãi hùng nhận ra đó là một chiếc xe hơi, xoay nghiêng chắn ngang đường, hai bánh trước của nó vùi xuống rãnh bên mé phải đường. Cô nghĩ mình nhìn thấy một bóng đen trong xe, như thể có ai đó đổ gục trên vô lăng. Khi Caroline chầm chậm tiến về phía chiếc xe, tim cô bỗng đập rộn, cô nhấn nút để hạ kính cửa sổ. Trông như có người cần được giúp đỡ. Điện thoại lại reo vang. Ý nghĩ đầu tiên của cô là mặc kệ, nhưng nếu đã xảy ra một vụ tai nạn thì cô có thể cần gọi thêm hỗ trợ. Cô vớ lấy điện thoại trên ghế và trả lời cuộc gọi, nhận ra tay mình đang run bắn. “A lô?” “Caroline, em về nhà chưa?” Đó là một giọng nói cô mơ hồ nhận ra, nhưng không sao xác định rõ được. Mắt cô không rời vật cản phía trước trong lúc cô dừng lại và mở dây an toàn. “Vẫn chưa. Nhưng sao? Ai đấy?” “Nghe anh này. Cho dù em làm gì, em cũng đừng dừng xe lại. Cho dù có chuyện gì xảy ra, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng dừng xe lại.” Người đàn ông nói nhỏ và nhanh. “Về nhà. Về thẳng nhà. Em nghe anh nói không?” Vẻ hoảng hốt của giọng nói trong điện thoại tương ứng với tâm trạng lo lắng dần tăng của chính Caroline. Cô ngập ngừng. “Nhưng có một chiếc xe nằm ngang đường, và trông như có người bên trong. Có thể họ bị bệnh, hoặc họ vừa gặp tai nạn. Tại sao tôi không thể dừng lại? Có chuyện gì vậy?” “Cứ làm như lời anh đang bảo, Caroline. Đừng ra khỏi xe. Đạp chân xuống ngay và chạy qua chiếc xe đó, đừng có dừng lại vì bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì. Cứ làm đi.” Giọng nói khẩn trương, gấp gáp. Caroline cảm thấy nỗi sợ dâng lên trong cổ họng. Chuyện này là sao? Cô liếc nhìn gương chiếu hậu, và quyết định. Cô ném điện thoại di động lên ghế cạnh mình, nắm lấy vô lăng bằng cả hai tay. Chiếc xe nằm bẹp kia dài và thấp, choán hầu hết bề rộng mặt đường với hai bánh sau hơi hẫng khỏi mặt đất vì ca-pô chếch xuống rãnh. Không có nhiều chỗ để vòng qua phần thùng sau của chiếc xe, nhưng cô có thể làm được. Cô phải làm được. Cô đạp mạnh chân xuống sàn. Lốp xe trượt trên mặt đường lạnh lẽo, nhưng vẫn bám được, và cô đánh xe sang trái. Bánh xe bên trái cô leo lên bờ đường bên dưới hàng giậu và chiếc xe lượn một góc khá nguy hiểm. Cô xoay vô lăng trở lại bên phải và chiếc xe của cô nện mạnh xuống, hướng thẳng mé bên kia đường. Caroline lại đánh lái sang trái để chỉnh thẳng hướng, động cơ rồ lên khi cô tăng tốc. Đột nhiên cô cảm thấy mình bắt đầu trượt đi. Cô cuống cuồng xoáy vô lăng hết hướng này lại hướng khác, nhưng cho dù cô làm gì, chiếc xe vẫn chẳng nghe lời. Băng phủ mặt đường, và cô đang đi quá nhanh. Cô nhớ đã được dặn cách lái xe ở chế độ trượt, nhưng cách đó cũng không ổn. Trong đầu cô vụt lóe lến một cái tên. Cô đột nhiên nhận ra ai vừa gọi cho mình. Nhưng tại sao lại là anh ta? Cô gọi to tên anh ta, nhưng cô biết rằng lúc này anh ta chẳng thể làm được gì. Mắt cô bị hút về phía gương, về phía khoang sau tối om của chiếc xe, nơi tất cả những gì cô nhìn thấy là màu trắng trong đôi mắt mở to, hãi hùng của Natasha. Cô đạp mạnh chân phanh, nhưng chẳng ăn thua. Chiếc xe trượt nghiêng, va vào bờ đường lần nữa, chồm lên một góc và bật tung, lăn lông lốc, va mạnh qua hàng giậu và đâm sầm xuống rãnh, cơ thể gãy rời của Caroline văng đi rồi nằm yên nửa trong nửa ngoài ô cửa sổ để ngỏ. Viên cảnh sát lái xe dọc theo những ngõ phố hẹp, tận hưởng khoảnh khắc bình yên hiếm hoi trong thời khắc sắp đến Giáng sinh. Một người giấu tên gọi đến báo có một chiếc xe hơi văng khỏi đường ở đâu đó quanh đây, nhưng theo nhân viên điều phối, người gọi đến không cung cấp thêm được chi tiết nào nữa. Viên cảnh sát hy vọng vụ này chỉ là một gã đần nào đó phá xe vì bị cạn xăng hoặc trục trặc. Anh đã phải xử lý quá đủ đám say xỉn vào cái mùa tiệc tùng này rồi, và một chiếc xe xinh xắn bị bỏ lại sẽ lại khiến anh phải rời khỏi đường một lúc - thậm chí có khi đến hết ca trực luôn. Dần dần anh nhận ra rằng không thể tìm được sự lạc quan ấy của mình. Những ánh đèn khiến anh phải tin. Không ai vứt bỏ xe của mình mà đèn vẫn sáng cả, và đằng trước anh còn nhìn thấy một ngọn đèn trắng đứng yên, chiếu sáng quắc, soi tỏ những hàng cây trơ trụi bên đường. Lúc anh lại gần hơn, quầng ánh sáng chói chang từ cặp đèn pha khiến anh lóa mắt. Anh dùng mu bàn tay che bớt mắt, hết sức thận trọng tiến lại gần phòng trường hợp có người nằm trên đường mà anh không thể nhìn thấy. Anh tiến đến cách chiếc xe khoảng hai mươi mét và tắt động cơ. Ngay lập tức anh thấy rằng tình hình rất tệ. Chiếc xe bị lật ngửa, phần trước ghếch lên một bên bờ hẻm. Nhưng chính tiếng động mới khiến anh rùng mình sởn tóc gáy. Xen lẫn với tiếng nổ đều đều êm ả của động cơ xe đắt tiền vang lên trong không gian thôn dã tĩnh mịch xung quanh, chính là nhạc nền rất huyền ảo không lẫn đi đâu được của bài White Christmas của Bing Crosby. Tiếng nhạc thư thái tuôn vào không khí buổi đêm lạnh lẽo qua một ô cửa để ngỏ, nơi đầu của một người phụ nữ thò ra ở một góc rất khó tin khiến viên cảnh sát không cần đến gần chiếc xe cũng biết cô ấy đã chết. Anh chầm chậm tiến lại phía chiếc xe dựng ngược để tắt động cơ, và cả tiếng nhạc. Anh đã có thể hít thở trở lại. Giờ thì đây chỉ là một vụ tai nạn giao thông trên đường với duy nhất một chiếc xe gặp nạn, mặc dù rất thảm khốc. Anh với lấy bộ đàm. Trong lúc đợi nhân viên cấp cứu đến, biết rõ rằng họ chẳng thể làm gì hơn là xác nhận những gì anh đã biết, viên cảnh sát tiến hành chặn đường, gọi nhóm chuyên gia đến điều tra vụ tai nạn và đề nghị kiểm tra trên hệ thống máy tính cảnh sát toàn quốc về chiếc xe để xác định chủ sở hữu. Anh vớ lấy một chiếc đèn pin cực mạnh trong ngăn hành lý của mình và rọi quanh ngõ phố, rọi xuống hào, dọc theo bờ đường, cố tìm kiếm xem có ai từng tìm cách bò ra khỏi chiếc xe, có thể bị thương, hoặc thứ gì đó trên đường có thể là nguyên nhân khiến chiếc xe bị mất lái không. Chẳng có gì cả. Con đường trống trơn. Viên cảnh sát thấy nhẹ người khi không khí yên ắng bị phá vỡ bởi những tiếng còi rúc càng lúc càng gần, và chỉ vài phút sau xe cứu thương vụt đến, ánh đèn của xe làm hiện ra một người đi xe đạp một mình đang ngập ngừng tiến lại hiện trường. Người đàn ông nhảy xuống xe và đứng cách một quãng. Viên cảnh sát tiến lại phía anh ta. “Xin lỗi, thưa ông - ông cần lùi lại.” “Vâng, thưa ngài sĩ quan. Tôi chỉ đang trên đường về nhà thôi.” “Tôi hiểu, nhưng tôi không thể để ông đi qua đoạn đường này vào lúc này, thưa ông. Tôi tin chắc ông thông cảm chuyện đó.” “Có người bị thương à? Trông như xe của Caroline Joseph. Tôi nói có đúng không?” Người đi xe đạp hỏi. “Lúc này tôi chưa khẳng định được, thưa ông.” Người đàn ông ngó qua viên cảnh sát để nhìn chiếc xe rõ hơn. “Tôi nhìn thấy kia là cô ấy thì phải? Ôi lạy Chúa. Cô ấy chết rồi, phải không?” Anh ta nhìn viên cảnh sát, miệng há ra vì sốc. “David tội nghiệp. Đó là chồng cô ấy. Anh ấy sẽ suy sụp mất.” Viên cảnh sát không nói gì. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ người đàn ông cách hiện trường vụ tai nạn càng xa càng tốt cho tới khi lực lượng hỗ trợ đến, nhưng ngay cả từ khoảng cách này, vẫn nhìn thấy rất rõ phần đầu của người phụ nữ. “Không có Natasha đi cùng cô ấy sao?” Người đi xe đạp hỏi, giọng anh ta run lên. “Cô gái bé bỏng của cô ấy? Đứa bé đáng yêu nhất.” Viên cảnh sát lắc đầu, có phần nhẹ người. “Không, thưa ông. Ghế cho trẻ con có ở phía sau nhưng thật may là trống không. Không có ai khác ở trong xe.” Mời các bạn đón đọc Đứa Con Xa Lạ của tác giả Rachel Abbott.