Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lương Văn Can: Xây Dựng Đạo Kinh Doanh Cho Người Việt - Nguyễn Hồng Dung

Cùng bạn đọc: Kiếm tiền hay phụng sự xã hội? Bộ sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên “Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới” do Tổ Hợp Giáo Dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua. Chúng tôi đặt tên cho bộ sách này là “Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế giới” với mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là gì?”, “Doanh nhân là ai?”, “Đâu là “đạo” của nghề kinh doanh?” và “Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được xã hội tôn vinh?”... Từ câu chuyện của những huyền thoại doanh nhân thế giới Đội ngũ chuyên gia của PACE cùng các cộng sự đã nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại, đến từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên toàn thế giới, nhằm tìm kiếm “cái đạo”, cái triết lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích là để lý giải xem vì sao họ là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất và kiếm tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời họ lại được xã hội đặc biệt kính trọng? Phân tích từng chặng đường, từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được những nét chung nhất, nói chính xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành những doanh nhân huyền thoại. Đó là sự khao khát, là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc sống và cho xã hội. Họ đã thực hiện được điều đó bằng việc cống hiến cả cuộc đời mình lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế. Vì vậy mà ngày nay chúng ta đã có hàng loạt những câu chuyện về họ: Đó là câu chuyện ông chủ hãng ô tô Ford đã “đặt cả thế giới lên bốn bánh xe”, làm cho trái đất “quay” nhanh hơn khi trao cho đông đảo mọi người trong xã hội cơ hội sở hữu chiếc xe ô tô - vốn trước đó chỉ dành riêng cho giới thượng lưu và những người giàu có. Chỉ một quyết định giải quyết “nhu cầu lưu chuyển” cho xã hội, Henry Ford đã làm thay đổi cuộc sống của tất cả chúng ta. Đó là câu chuyện chàng trai Larry Page tin tưởng tuyệt đối vào sứ mệnh “tổ chức lại hệ thống thông tin thế giới” của mình, kiên trì cùng Google theo đuổi giấc mơ một ngày nào đó, Google sẽ là người dẫn đường cho mọi người tham gia vào thế giới mênh mông của tri thức, thông tin trực tuyến. Đó là câu chuyện chàng thanh niên Akio Morita bằng mọi giá phải đáp ứng nguyện vọng được nghe đài phát thanh để cập nhật thông tin cuộc sống của một nước Nhật hoang tàn sau chiến tranh, đến khát vọng “kiến tạo một nền giải trí tương lai” cho cả thế giới mà Sony đang sống và sáng tạo mỗi ngày. Đó là câu chuyện Jorma Ollila, bằng chiếc điện thoại Nokia cùng những giá trị được tạo ra trong nó, ông không những góp phần định dạng lại đất nước Phần Lan trên bản đồ toàn cầu mà còn kết nối cả thế giới này và làm cho mỗi chúng ta trở nên “gần nhau” hơn. Đó là câu chuyện khi nhắc đến máy tính IBM, có lẽ chúng ta sẽ không thể không nghĩ đến hình ảnh chữ “Think” và người khai sinh ra nó, Thomas Watson Sr. IBM trở thành “gã khổng lồ của thế giới” trong suốt gần 100 năm qua cũng chính là nhờ chữ “Think” đó, mà theo Thomas Watson Sr. thì nó nghĩa là: “Mọi rắc rối đều có thể giải quyết nếu người ta chịu khó suy nghĩ”. Suy nghĩ để phục vụ con người chính là bí quyết thành công của các thế hệ IBM... Đến những câu chuyện mà chúng tôi vẫn thường kể Lời đầu của bộ sách, chúng tôi muốn kể lại với quý vị một vài câu chuyện mà PACE luôn tự hào khi tìm thấy nó trong hành trình “Khát Vọng Doanh Trí” của mình trong suốt những năm vừa qua: Bà chủ một tiệm tạp hóa suốt ngày không vui vì buôn bán ế ẩm. Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “sao tôi không là người giải quyết vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi chuyện thay đổi. Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng mì), một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt). Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất” hoặc “nhà không còn nước mắm”. Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình. Lại thêm chuyện giá cả của bà so với chợ và siêu thị cũng chẳng chênh lệch là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào, bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn có “lợi nhuận” lớn nhất là sự quý mến của mọi người dành cho một người biết kinh doanh như bà. Câu chuyện thứ hai về một cơ sở sản xuất tủ sắt. Người ta thường mua tủ của cơ sở này về để đựng hồ sơ. Một cơ sở bé xíu rất đỗi bình thường thì liệu có mang trong người “sứ mệnh xã hội”? Trong một thời gian dài, cơ sở hoạt động cầm chừng, cho đến một ngày ông chủ của nó thay đổi cách nghĩ: tôi không “bán tủ sắt” nữa, mà sẽ “bán giải pháp lưu trữ hồ sơ văn phòng”. Từ đó, ông và đồng sự tiến hành nghiên cứu để tạo ra những cái tủ sao cho có thể chống được mối, mọt, chống thấm, ngăn tủ này thì có khóa kiên cố để đựng hồ sơ quan trọng, ngăn tủ khác thì không cần khóa để dễ kéo ra kéo vào... Ông cũng chịu khó đi đến các văn phòng để nghiên cứu màu sơn, thay đổi kích cỡ, kiểu dáng... Thế là sản phẩm của ông còn thêm tính năng làm đẹp cho cả văn phòng của các công ty. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của ông đã lột xác và phát triển rất nhanh. Như vậy, doanh nghiệp lớn hay nhỏ tùy thuộc vào vấn đề xã hội mà họ giải quyết được. Bà chủ tạp hóa của khu phố nọ cùng Sam Walton (ông chủ tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart) đều giải quyết vấn đề mua sắm của xã hội thông qua việc mở cửa hàng bán lẻ. Họ chỉ khác nhau về phạm vi: xã hội của bà chủ tiệm tạp hóa là một khu phố, còn xã hội của Sam mang tầm cỡ thế giới. Điều xã hội quan tâm không phải là doanh nghiệp đó kiếm được bao nhiêu mà là họ đã mang lại gì cho cộng đồng. Chẳng hạn, trong khi tỉ phú Nhật, Toyoda (“cha đẻ” của Toyota), với tinh thần ái quốc được người Nhật xem như anh hùng dân tộc thì tỉ phú Nga, Khodorkovsky (ông chủ của Yukos), ông ta là ai trong mắt dân Nga thì chỉ người Nga mới thấu rõ. Sự khác nhau này có lẽ do cách thức kiếm tiền của họ. Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn thường bị hiểu chỉ như là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất, không hề có nghề kiếm tiền, bởi nghề nào thì cũng kiếm tiền cả. Chẳng hạn, luật sư kiếm tiền bằng việc hành nghề luật, bác sĩ kiếm tiền bằng cách chữa bệnh cứu người... Và doanh nhân, người hành nghề kinh doanh, cũng kiếm tiền bằng cách lãnh đạo một doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp đó để giải quyết vấn đề hay đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội. Nhưng điều khác biệt của nghề kinh doanh là trong quá trình hành nghề của mình doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết kiến tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ thể hơn, họ nắm lấy một doanh nghiệp và tập hợp bên mình nhiều thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm hình thành một sức mạnh tổng lực, từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội. Đó cũng chính là lý do mà nghề kinh doanh thường kiếm được nhiều tiền hơn so với những nghề khác và vẫn được cộng đồng xã hội ủng hộ. Nghiên cứu 25 huyền thoại doanh nhân thế giới cho thấy, dù có quá nhiều sự khác biệt nhưng họ đều có chung một tư tưởng chủ đạo: “Kinh doanh là phụng sự xã hội”. Hay nói một cách đầy đủ hơn, “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn”. Cái “đạo” kinh doanh này đã được họ quán triệt ngay từ buổi đầu khởi nghiệp đầy gian khó cho tới lúc thành công. Và sự thật này cũng chính là lý do giúp họ kiếm tiền nhanh nhất, nhiều nhất, bền nhất, còn bản thân họ thì được xã hội tôn vinh, nể trọng, và rồi họ đi vào lịch sử kinh doanh thế giới như những huyền thoại, doanh nghiệp của họ cũng vĩ đại và trường tồn. Như vậy, với một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, luôn khát khao làm cho xã hội quanh mình (có thể nhỏ gọn trong một ngôi làng hoặc rộng lớn bằng cả một hệ mặt trời) tốt đẹp hơn, chính họ, những doanh nhân (dù lớn hay nhỏ, dù “Tây” hay “Ta”, dù “cổ” hay “kim”) luôn được xã hội tôn vinh không phải vì số của cải khổng lồ họ kiếm được, mà vì những đóng góp vô giá của họ vào sự đổi thay của thế giới này. Rồi quá trình định hình của “văn hóa doanh nhân Việt Nam” Song song với những doanh nhân lẫy lừng của thế giới, điều khác biệt ở bộ sách này là chúng tôi đã khởi sự hành trình tìm kiếm những “huyền thoại doanh nhân Việt Nam” để, như một cố gắng, “định vị” xem ông cha ta ngày xưa đã khởi sự kinh doanh như thế nào. Và thật bất ngờ, trong lịch sử Việt Nam đã từng có những Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô... với những tư tưởng kinh doanh có thể gây ngạc nhiên cho đến tận bây giờ. Gần 100 năm trước, một nhà yêu nước, một trí thức lớn và cũng là nhà kinh doanh Lương Văn Can đã khẳng định trên tờThực nghiệp Dân báo: “Đương buổi thế giới cạnh tranh này, các nước phú cường không đâu là chẳng đua tài thi sức ở trong trường thương chiến, văn minh càng tiến bộ buôn bán càng thịnh đạt, buôn bán thịnh thời trong nước giàu mạnh không biết đến đâu là cùng, buôn bán suy thời trong nước nghèo yếu không biết đâu mà kể, cứ xem cái trình độ buôn bán một nước nào cao hay thấp, rộng hay hẹp thời xét được dân nước ấy giàu hay nghèo, văn hay dã. Việc buôn bán thịnh suy có quan-hệ đến quốc-dân thịnh suy như thế, ta há nên coi thường, xem khinh được sao”. Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của Thương học phương châm, cuốn sách giáo khoa đầu tiên của thương giới Việt Nam, cụ Lương Văn Can đã chia sẻ: “Bây giờ phong khí mở rộng, hoàn cầu đi lại như một nhà, đường bộ thì có hỏa xa, đường thủy thì có hỏa thuyền, không trung thì có tàu bay, lại thêm điện báo để thông thư tín, điện thoại để thông âm ngữ, tin tức đã mau, vận tải rất tiện, người mà thông buôn bán thì làm giàu rất tiện...”. Cụ Lương Văn Can còn chỉ ra những điểm hạn chế chính của những người làm kinh doanh Việt Nam thời bấy giờ: Không có thương phẩm, không có thương đạo, không có thương học, không biết giao thiệp, không biết trọng nghề, không có kiên tâm, không có tín thực... Gần 100 năm sau, Người Việt gia nhập kỷ nguyên toàn cầu hóa, ngẫm lại, thấy thắt lòng vì những điều người xưa nói vẫn còn nguyên giá trị. Và dẫu hiện nay chúng ta đang cùng chung sống, làm ăn trong bối cảnh toàn cầu hóa thì doanh trí Việt Nam vẫn đang có một khoảng cách quá xa so với doanh trí thế giới, cả về tư duy và tầm nhìn, cả về cái tâm và cái đạo. Tuy nhiên, cũng trong việc lần giở những trang sử mà ông cha để lại, chúng ta bỗng vui mừng nhận ra những cột mốc quan trọng trên hành trình xây dựng đạo kinh doanh, định hình một nét văn hóa kinh doanh rất riêng của người Việt. Đầu tiên phải kể đến dấu ấn của thời điểm Hồ Chủ Tịch gửi thư cho các giới công thương Việt Nam, vào ngày 13 tháng 10 năm 1945. Bức thư có đoạn viết: “Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công Thương nỗ lực và khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập “Công Thương cứu quốc đoàn” cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân”. Đó không chỉ là một bức thư động viên để “chấn doanh khí” mà còn là sự khẳng định bản chất cơ bản, đạo lý cốt lõi trong nghề doanh thương của nước nhà, đó là: Giới doanh thương hãy hoạt động sao cho “ích quốc lợi dân”, ích nước lợi mình. Rồi một lần khác, tại hội chợ triển lãm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 1958, báo Nhân Dân trích đăng lời Hồ Chủ Tịch: “Những người sản xuất phải cố gắng sản xuất nhanh, nhiều, tốt và rẻ. Hàng làm ra nhanh và nhiều nhưng không tốt và rẻ thì không ai mua. Đồng bào ta nồng nàn yêu nước nên rất muốn dùng hàng của ta sản xuất, nhưng trước nhất người sản xuất phải làm hàng tốt và rẻ. Người sản xuất phải thực thà sản xuất hàng tốt cho đồng bào dùng, không nên làm hàng trưng bày thì tốt mà hàng bán thì xấu. Giá cả phải chăng, không lừa dối người mua. Sản xuất phải thiết thực và đúng hướng, đảm bảo làm nhiều loại hàng tốt và rẻ cần dùng cho đông đảo nhân dân”. Và chắc có lẽ bạn đọc cũng chưa quên cái khoảnh khắc mà Luật công ty năm 1990 ra đời với quan điểm người dân chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Đến đúng 10 năm sau, Luật doanh nghiệp năm 2000 quy định lại: Người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Nghề doanh nhân đã bước sang một giai đoạn mới trong lịch sử kinh thương của nước nhà. Và thật sự, chúng ta cũng không thể quên thời khắc Thủ tướng chính phủ ra quyết định chọn ngày 13 tháng 10 hằng năm là “Ngày doanh nhân Việt Nam”; và không thể quên những hàng tin chạy dài trên trang nhất tất cả các báo: “Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X: Đảng viên được làm kinh tế tư nhân”. Chúng ta tìm thấy gì trong những mốc son ấy? Đó chính là những bước ngoặt góp phần vào sự định hình mỗi ngày một rõ nét hơn của văn hóa doanh nhân Việt Nam. Song cũng qua chính những mốc son ấy, chúng ta biết được rằng, “văn hóa doanh nhân Việt Nam” (còn gọi là “văn hóa kinh doanh Việt Nam” hay “Văn hóa của giới doanh nhân Việt Nam”) đang trong quá trình được định hình. Tuy nhiên, để có được một “văn hóa” như mong muốn thì trước hết cần phải có “tư tưởng”, đồng thời phải xác định được những “yếu tố hình thành” văn hóa cho giới doanh nhân của ta. Và bằng những nghiên cứu của mình trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy rằng, để giải quyết vấn đề “tư tưởng” thì ta phải xác định rõ “doanh nhân là ai?” và “kinh doanh là gì?”. Và lời đáp sâu xa của hai câu hỏi này nằm ở cái “đạo” của nghề kinh doanh, hay còn gọi là “đạo kinh doanh”. Đọc lại cuộc đời và sự nghiệp của cụ Lương Văn Can, không ít người tự hỏi: Cái “thương đạo” (hay gọi là “đạo kinh doanh”) mà cụ vẫn hay nhắc đến thực ra là gì? Phải chăng đó là chữ “tín” trong kinh doanh, là truyền thống buôn bán ngay thẳng, thật thà không gian dối mà bản thân cụ là một điển hình? Phải chăng đó là cách thức liên kết trong làm ăn mà cụ thường gọi là “thương hội” để cùng nhau tạo nên sức mạnh tổng lực đẩy nền kinh tế quốc gia tiến về phía trước? Phải chăng đó là cách đối đãi với khách hàng, đồng sự hay nhân công của mình một cách thấu tình đạt lý, tôn trọng, sẻ chia theo cách đôi bên cùng có lợi? Hay phải chăng, đó là việc cố gắng kiếm được thật nhiều tiền, rồi mang phần lớn số tiền kiếm được đó để cống hiến cho xã hội bằng việc xây trường cho trẻ nghèo, gửi tiền cho kháng chiến, cứu trợ đồng bào gặp thiên tai hay lập quỹ khuyến học, khuyến tài...? Tất nhiên, tất cả những yếu tố đó là một phần của đạo kinh doanh, của truyền thống kinh doanh cao đẹp mà Cụ đã chỉ ra, đã đề cao và kêu gọi mọi người học theo. Nhưng cái “lõi” của “thương đạo”, cái “lõi” của “văn hóa doanh nhân” của giới doanh nhân Việt Nam lại hoàn toàn khác, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn và phản ánh đúng bản chất của nghề kinh doanh hơn: “Kinh doanh, nghĩa là dùng sản phẩm hay dịch vụ của mình như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn”. Còn về các “yếu tố hình thành” văn hóa doanh nhân Việt Nam, hiện nay, theo quan điểm của chúng tôi, bao gồm 08 yếu tố trực tiếp sau: (1) Sự ảnh hưởng của văn hóa doanh nhân thế giới (vì đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã là một bộ phận của doanh nhân thế giới và cùng “sống chung” với doanh nhân thế giới trong môi trường kinh doanh toàn cầu nhiều thay đổi); (2) Chiều dài lịch sử của nghề kinh doanh, buôn bán của Việt Nam (vì “văn hóa” vốn dĩ ít nhiều có tính “di truyền” và kế thừa, kể cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực cho bối cảnh hiện nay. Do vậy, ngoài các dự án nghiên cứu, trong tương lai, cũng có thể sẽ có sự xuất hiện của phòng truyền thống, nhà truyền thống hay bảo tàng doanh nhân Việt Nam, nhằm góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị, những truyền thống kinh doanh cao đẹp mà cha ông chúng ta đã để lại); (3) Quan điểm của Đảng và Nhà Nước Việt Nam về doanh nhân và kinh doanh (vì quan điểm của lãnh đạo quốc gia đối với một giới nào đó trong xã hội đều có ảnh hưởng lớn đến văn hóa của giới này trong xã hội hay trong quốc gia đó); (4) Sự chi phối của văn hóa dân tộc Việt Nam (vì doanh nhân Việt Nam cũng là một nhóm công dân Việt Nam và cũng là một bộ phận trong cộng đồng Việt Nam); (5) Hoạt động thực chất của các hiệp hội, các hội, các câu lạc bộ doanh nhân, doanh nghiệp (vì trong các nhiệm vụ của mỗi tổ chức doanh nhân sẽ có một nhiệm vụ đối ngoại quan trọng đó là góp phần xây dựng uy tín và hình ảnh của giới doanh nhân trong cộng đồng xã hội); (6) Vai trò của các tổ chức giáo dục và đào tạo kinh doanh trên cả nước (vì bất kỳ nghề nào cũng phải học “đạo” trước khi học nghề); (7) Vai trò của các cơ quan chính quyền, các tổ chức phi chính phủ có liên quan tới hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp (như VCCI, ITPC, cơ quan cấp phép, cơ quan thuế...); (8) Cách nhìn của giới văn sĩ, điện ảnh, truyền thông đại chúng... đối với giới doanh nhân. Ở Việt Nam, liệu có thể khẳng định kinh doanh là nghề cao quý? Lần giở lại những trang sử của nước nhà để tìm kiếm những tư liệu, thông tin về nghề kinh doanh Việt Nam là một hành trình đầy thử thách. Một thời gian quá dài, tư tưởng “dĩ nông vi bản” bao trùm cả xã hội đã đẩy nghề buôn bán trở thành một thứ “mạt nghệ”, những người kinh doanh ngày xưa bị định danh chỉ là một “phường con buôn”. Một thời gian quá lâu, tập sách “Thương học phương châm” của cụ Lương Văn Can - tài liệu được xem là sách giáo khoa về kinh doanh đầu tiên của Việt Nam đã bị cố tình quên lãng, vô tình bị se thành bấc đốt đèn trong những khúc quanh buồn thảm của nghề kinh doanh. Một thời gian quá rộng, cái nhìn thiên lệch vẫn ám ảnh xã hội về doanh nhân là “một gã bụng to, mặt mày gian xảo, ngồi chễm chệ trên bàn nhậu, tay ve vuốt cọc tiền và ánh mắt giảo hoạt đầy những toan tính bất chính”. Một thời gian quá xa, những con người làm giàu chân chính bằng việc buôn bán bị dán cho cái nhãn “giai cấp bóc lột”, “tư bản” cùng hàng loạt danh từ tiêu cực khác. Cho đến một ngày, những bậc trí thức mà cả xã hội kính trọng từ Trường Đông Kinh Nghĩa Thục (trong những năm đầu của thế kỷ trước) bước ra phố và mở cửa hàng bán gạo, bước xuống mỏ để khai thác quặng hay bước xuống thuyền để đi buôn vải... Khoảng cách địa lý của “bước đi” này có thể rất gần, nhưng khoảng cách xã hội của nó quả thật là một hành trình vạn lý. Họ sinh ra là nhà nho, nên chẳng biết chuyện tiền nong, hàng hóa. Họ sinh ra để đọc sách thánh hiền, nên chẳng biết chuyện cơm gạo. Họ sinh ra để được xã hội kính trọng, nên thật khó để phơi mặt ra giữa chợ mà kỳ kèo bớt một thêm hai với thế gian. Nhưng họ đã tìm thấy một con đường và tự tin đi về phía chân lý. Cuộc cách mạng trong bản thân mỗi nhà nho khi dám đứng ra làm kinh tế quả thật không nhỏ. Và cuộc cách mạng này đã mang lại một hiệu ứng xã hội tức thì: phải nhìn lại về bản chất của nghề buôn, nghề kinh doanh khi những con người cao quý nhất trong xã hội lúc bấy giờ đã quyết định đi buôn, đi kinh doanh. Một không khí thật sự sôi động dâng lên trong xã hội. Nhà nhà phấn khởi, người người hồ hởi khi biết rằng, mỗi nhà buôn chính là một nhân tố để “Hiệp bãi cát gây nên non Thái / Hiệp ngàn dòng nên cái biển Đông” (Bài ca khuyên hợp thương - Trần Quý Cáp). Những doanh nhân Việt thời sơ khai đã có thể ngẩng cao đầu, cảm thấy tự hào về sứ mệnh mà mình đang tham gia thực hiện, hãnh diện về sự nghiệp bán buôn của mình đang từng chút một xây dựng sự phồn vinh của đất nước. Họ đã định nghĩa lại nghề kinh doanh! Nhưng rồi, mọi thứ thay đổi rất nhanh theo chiều hướng xấu đi, khi mà người Pháp tìm mọi cách để kìm hãm nghề buôn bán: “Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”; “...cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý...” (Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh). Những nhà cai trị đã hành động khẩn cấp như vậy, chỉ vì đã nhìn thấy một tất yếu: dân giàu thì nước mạnh, nghề buôn phát đạt thì quốc gia sẽ tốt đẹp hơn từng ngày. Chính vì những lẽ đó, nên chỉ một thời gian rất ngắn sau khi khai sinh đất nước, Hồ Chủ Tịch đã gửi một bức thư đặc biệt dành cho giới công thương. Bức thư ngắn lắm, nhưng nó chứa đựng toàn bộ ý nghĩa cao quý mà nghề này đang cống hiến cho xã hội. Hồ Chủ Tịch, chứ không ai khác, đã bày tỏ sự tôn trọng hết mức của mình dành cho doanh nhân trong lời đầu tiên của bức thư: “Cùng các ngài trong giới Công Thương”. Chính vì sự xác lập vị thế đặc biệt cao quý của nghề kinh doanh - một nghề đáng tôn vinh trong xã hội, nên sau một thời gian dài chìm trong “bóng đêm” của thời kỳ bao cấp, những doanh nhân Việt đã được trả lại vị thế xứng đáng của mình trong hàng loạt quyết sách sau này: Luật công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 2000, Ngày doanh nhân Việt Nam, Đảng viên được làm kinh tế tư nhân... Chúng tôi và bạn là những người đồng hành Kể từ ngày ra đời, một trong những sứ mệnh quan trọng mà PACE đã tự đặt lên vai mình là cùng bạn góp phần thu hẹp khoảng cách doanh trí giữa Việt Nam và thế giới. Chúng tôi đã thực hiện điều này bằng việc không ngừng nghiên cứu để đưa ra những chương trình đào tạo đỉnh cao của thế giới và phù hợp với người Việt, đồng thời chọn lựa và giới thiệu với bạn đọc những cuốn sách “gối đầu giường” của doanh nhân thế giới cùng những tác phẩm kinh điển nhất mà họ đưa vào danh sách “phải đọc”. Và với sứ mệnh của mình, PACE cũng sẽ đồng hành cùng bạn đọc trong hành trình khôi phục lại những giá trị cao quý, những giá trị vượt không gian lẫn thời gian của cha ông và tổ tiên chúng ta. Để từ đó, chúng ta có thể kết hợp với những giá trị đỉnh cao của nền văn minh nhân loại, một cách tốt nhất, nhằm góp phần hình thành và tôn tạo các “giá trị Việt”. Những “giá trị Việt” này sẽ góp phần làm nền tảng cho việc xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam mới rạng ngời hơn, một nước Việt Nam có thể vững vàng đua tranh thành công cùng thế giới. Nhìn “Tây” sẽ thấy “Đông”, soi “cổ” mà ngẫm tới “kim”, đó là điều mà chúng tôi, những người thực hiện bộ sách, mong muốn được chia sẻ. Bộ sách này cũng là một câu chuyện, một phác thảo cho bức tranh toàn cảnh sinh động và đầy màu sắc về doanh nhân thế giới - những doanh nhân làm thay đổi thế giới, và về một thế hệ doanh nhân tiền bối của Việt Nam cách đây gần 100 năm lịch sử - một thế hệ doanh nhân mà đến ngày nay chúng ta vẫn có thể tự hào. Từ đó, những nỗ lực này sẽ góp phần hình thành văn hóa doanh nhân Việt, một bộ phận quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Chúng tôi xin được gửi lời tri ân trân trọng nhất đến những đồng nghiệp đã hỗ trợ tinh thần cho chúng tôi, đến các cá nhân và đơn vị đã sẵn lòng hỗ trợ thông tin, tư liệu trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, chúng tôi muốn gửi lời cám ơn chân thành đến các tập đoàn hàng đầu thế giới do các doanh nhân huyền thoại sáng lập, cám ơn gia tộc họ Lương, gia tộc họ Bạch,... - hậu duệ của cụ Lương Văn Can, cụ Bạch Thái Bưởi... đã nhiệt tâm giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình “Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới”. Việc triển khai dự án này từ khâu nghiên cứu đến thể hiện thành sách trong một thời gian không dài, cùng những khó khăn trong quá trình đi tìm tư liệu lịch sử về các nhân vật, chắc hẳn bộ sách sẽ khó tránh khỏi những sai sót nhất định. Do vậy, chúng tôi rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những góp ý chia sẻ của bạn đọc gần xa về bộ sách để lần tái bản tiếp theo được hoàn thiện hơn. Chúng tôi, PACE và Nhà Xuất Bản Trẻ, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bộ sách đầy tâm huyết này. Và chúng tôi cũng tin rằng, qua bộ sách này, bạn đọc sẽ có thêm kiến giải về “đạo kinh doanh”, để từ đó, tự mình định nghĩa lại nghề kinh doanh và tự mình khẳng định rằng, kinh doanh là kiếm tiền hay phụng sự xã hội! Thay mặt Nhóm Tác Giả của bộ sách Giản Tư Trung - Người Sáng Lập PACE Sài Gòn, Xuân Đinh Hợi, 2007 Mời các bạn đón đọc Lương Văn Can: Xây Dựng Đạo Kinh Doanh Cho Người Việt của tác giả Nguyễn Hồng Dung.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dốc Hết Trái Tim - Howard Schultz
Cuốn sách là câu chuyện kỳ diệu nhất về kinh doanh trong nhiều thập kỷ qua của một cửa hàng cà phê nhỏ ven sông, giờ thành một trong những công ty khổng lồ. Starbucks chính thức bước chân vào thị trường Việt Nam vào ngày 1/2. Một thương hiệu nổi tiếng thế giới và thành công rực rỡ trên nhiều quốc gia khác như Starbucks liệu có chinh phục được thị trường người dùng vốn rất khắt khe với cà phê và coi cà phê như một trong những nét văn hóa hàng ngày này? Đằng sau thành công của Starbucks là những bí mật gì? Hãy cùng nghiên cứu cuốn sách mang tên Dốc hết trái tim – tựa gốc Pour your heart into it do chính Howard Schultz - người sáng lập ra Starbucks, viết cùng vị tác giả nổi tiếng Dori Jones Yang. Cuốn sách dày 488 trang hoàn toàn không có mục đích kể về cuộc đời ông chủ của Starbucks hay những tư liệu kinh doanh xuyên suốt chiều dài lịch sử thành lập và hoạt động của công ty. Nó đơn thuần nói về niềm đam mê gắn kết những con người thành một đội ngũ vững chắc nhất, liên kết với nhau trong một mạch nối liền của cảm hứng sáng tạo bất tận và những nỗ lực không mệt mỏi vì một mục tiêu và ước mơ chung: dốc hết trái tim vào những gì mình cung cấp cho khách hàng để đem lại cho họ những trải nghiệm tuyệt vời và đặc biệt nhất. Từ một quán cà phê nhỏ ven sông ở Seattle, giờ đây, Starbucks trở thành chuỗi cà phê nổi tiếng thế giới, vượt mặt nhiều đối thủ đình đám và ngày càng có thêm nhiều những cửa hàng và chi nhánh mới mọc lên. Tuy nhiên, sự gia tăng của độ phủ sóng từ các cửa hàng không tỷ lệ nghịch với chất lượng cà phê mà Starbucks cam kết mang đến cho những khách hàng của họ. Điều gì đã khiến cho Starbucks luôn giữ vững được cam kết ấy? Đó, không gì khác chính là đam mê. Chính đam mê đã khiến cho Howard Schultz từ bỏ công việc với khoản lương cực lớn để dấn thân cho đam mê của riêng mình, yêu và truyền cảm hứng tình yêu café Ý cho toàn nước Mỹ… Dốc hết trái tim là một quyển sách truyền cảm hứng, nâng tinh thần cho những ai có niềm đam mê, lòng nhiệt huyết và đang theo đuổi những ước mơ của mình. Quyển sách không nói về cà phê mà về lãnh đạo, niềm đam mê, sự kiên nhẫn, cam kết và tình yêu đối với mọi thứ mà chúng ta làm trong khi những người khác đã từng nghĩ là không thể.  “Nếu bạn dốc hết trái tim vào từng việc mình làm, hoặc vào bất cứ một doanh nghiệp nào thích đáng, bạn có thể đạt được những ước mơ mà người khác cho rằng không thể. Đó là điều viết nên câu chuyện cuộc sống với một kết thúc có hậu. Bất cứ ai, dù đang chuẩn bị khởi nghiệp hay đã là những chủ doanh nghiệp, cũng sẽ tìm thấy trong quyển sách này những bài học tuyệt vời về kinh doanh và nghệ thuật lãnh đạo được gói trong một câu chuyện lôi cuốn như một cuốn tiểu thuyết. Đó là bài học về xây dựng một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội đúng nghĩa” – NXB Trẻ. *** Trí tưởng tượng, ước mơ, và xuất thân hèn kém Chỉ bằng trái tim ta mới nhìn đúng được vạn vật. Những thứ cốt lõi đều không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Antoine de Saint-Exupéry, Hoàng tử bé   Starbuck ngày hôm qua là thành quả của hai nhân tố quan trọng. Nhân tố thứ nhất là Starbucks thời kỳ đầu, thành lập năm 1971, một công ty tràn đầy nhiệt huyết với quyết tâm mang lại cho khách hàng loại cà phê đẳng cấp thế giới và mong muốn chứng tỏ cho khách hàng thấy rằng cà phê có thể trở nên tuyệt vời đến thế nào. Nhân tố thứ hai là tầm nhìn và những giá trị mà tôi mang đến cho công ty: sự kết hợp giữa định hướng cạnh tranh và khao khát muốn tất cả mọi người trong tổ chức đều có thể sánh bước cùng nhau đi đến chiến thắng. Tôi muốn pha cả sự lãng mạn vào từng tách cà phê, muốn can đảm nỗ lực để đạt được điều mà người khác cho rằng không thể, muốn thách thức nghịch cảnh bằng những ý tưởng sáng tạo, và muốn làm tất cả những điều này bằng sự tinh tế và bằng phong cách của riêng mình. Trên thực tế Starbucks sẽ khó lòng đến vị trí ngày hôm nay nếu không có tác động của cả hai nhân tố đó. Vào thời điểm tôi khám phá ra Starbucks, thương hiệu này đã phát  triển được mười năm. Tôi biết được lịch sử hình thành ban đầu của nó qua lời kể của những thành viên sáng lập và tôi sẽ thuật lại cho các bạn nghe câu chuyện đó ở Chương Hai. Trong cuốn sách này, tôi sẽ kể lại câu chuyện theo đúng cái cách mà tôi kinh qua nó, bắt đầu những năm tháng đầu tiên của đời tôi, bởi lẽ đa số các giá trị hình thành nên sự lớn mạnh của Starbucks ngày hôm này bắt nguồn từ một căn hộ chung cư chật chội ở Brooklyn, New York.   XUẤT THÂN HÈN KÉM CÓ THỂ KHƠI DẬY TRONG BẠN CẢ NGHỊ LỰC LẪN TÌNH YÊU Có một điều tôi nhận thấy ở những người theo chủ nghĩa lãng mạn: Họ cố gắng tạo ra một thế giới tươi mới và tố đẹp hơn sự buồn tẻ của cuộc sống thường nhật. Đó cũng chính là cái đích mà Starbucks nhắm tới. Chúng tôi cố gắng biến những cửa hiệu của mình thành một ốc đảo, nơi bạn có thể nghĩ ngơi sau một ngày mệt nhọc, thưởng thức một bản jazz và suy nghĩ vẫn vơ về cuộc sống bên tách cà phê. Những kiểu người nào thường mơ về một nơi như thể? Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi tin rằng khi xuất thanh của bạn càng tầm thường, bạn lại càng có xu hướng muốn dùng trí tưởng tượng của mình để khám phá những thế giới nơi mọi thứ dường như đều có thể xảy ra. Điều này tất nhiên hoàn toàn đúng trong trường hợp của tôi. Khi tôi mới ba tuổi, gia đình tôi  chuyển khỏi căn hộ của bà nội để sống ở Khu Quy Hoạch Bayview vào năm 1956. Khu này nằm ngay trung tâm Canarsie, trên vịnh Jamaica, cách sân bay và đảo Coney khoảng 15 phút chạy xe. Thời đó, Khu Quy Hoạch chẳng tệ chút nào, nó trông khá thân thiện, lại bề thế và sum suê cây cối với khoảng một tá khu nhà xây gạch cao tám tầng, tất cả đều mới toanh. Trường tiểu học P.S. 272 nằm ngay bãi đất quanh Khu Quy Hoạch, có cả sân chơi, sân bóng rổ, và sân trường thì được lát gạch tinh tươm. Thế nhưng, chẳng ai tự hào khi được sống ở Khu Quy Hoạch cả, bố mẹ chúng tôi đều là những người mà ngày nay gọi là “dân lao động nghèo”. Tuy vậy, tôi vẫn có rất nhiều ký ức hạnh phúc trong suốt thời thơ ấu của mình. Lớn lên ở Khu Quy Hoạch góp phần hình thành trong tôi một hệ thống giá trị cân bằng vì nó buộc tôi phải sống hòa đồng với rất nhiều kiểu người khác nhau. Riêng khu chúng tôi đã có tới 150 gia đình, và chúng tôi dùng chung một cái thang máy bé tẹo. Căn hộ nào cũng nhỏ xíu, và gia đình tôi lúc đầu phải nhồi nhét nhau trong một căn chật nêm chỉ có hai phòng ngủ. Bố và mẹ tôi đều xuất thân từ tầng lớp lao động, đã hai đời sinh sống ở nhánh Tây New York thuộc Brooklyn. Ông nội tôi mất sớm nên bố tôi phải thôi học và làm việc khi mới thanh niên. Chiến tranh Thế giới thứ II nổ ra, ông làm quân y cho Quân đội tại Nam Thái Bình Dương, New Caledonia và Saipan, nơi ông mắc bệnh số vàng da và sốt rét. Hậu quả là phổi ông rất yếu, và thường xuyên bị cảm hàn. Chiến tranh kết thúc, ông làm một loạt các công việc tay chân khác nhau nhưng không tìm được việc đúng với ước mơ của mình, bố tôi chưa bao giờ vạch ra được một hướng đi nào cho cuộc đời mình. ... Mời các bạn đón đọc Dốc Hết Trái Tim của tác giả Howard Schultz.
Đạo quân Trung Quốc thầm lặng - Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
Cuốn sách đầu tiên khảo sát sự tăng trưởng chưa từng thấy của đầu tư kinh tế Trung Quốc vào thế giới đang phát triển và tác động của nó ở các quốc gia tiếp nhận, đồng thời đưa ra bức tranh thực tế hiếm hoi về vai trò của người dân Trung Quốc bình thường trong cỗ máy tàn phá khủng khiếp là ‘China, Inc.’ Hai nhà báo thường trú tại Bắc Kinh Juan Pablo Cardenal và Heriberto Araujo đã đi xuyên thế giới từ năm 2009 đến năm 2011 để điều tra cách thức người Trung Quốc thực sự đang biến đổi thế giới đang phát triển theo ý họ. Những gì các tác giả phát hiện là câu chuyện con người, kinh tế, và chính trị, đang làm thay đổi tiến trình lịch sử và chưa bao giờ được khám phá, hoặc tường thuật sâu sắc và trên thực địa. "Đạo quân thầm lặng" theo các tác giả được tạo thành từ số đông người dân Trung Quốc bình thường làm việc trên khắp thế giới - trong ngành dầu mỏ ở Kazakhstan, khai khoáng tại Cộng hòa Dân chủ Congo, xây đập ở Ecuador, bán mạng che mặt ở Cairo - những người đang góp phần vào sự thống trị toàn câu của Trung Quốc và cũng để lại dấu ấn chẳng tốt lành. Tường thuật tại chỗ và tươi mới với ngòi bút xuất sắc, Đạo Quân Trung Quốc Thầm Lặng có đầy đủ lợi thế kinh nghiệm người ngoại cuộc của các tác giả nói tiếng Tây Ban Nha để khám phá ảnh hưởng của Trung Quốc ở nước ngoài trong tất cả các can dự nguy hiểm nhất của nó - chính sách ngoại giao, thương mại, doanh nghiệp tư nhân, và môi trường. *** “Không thể nhìn thấy người Trung Quốc… nhưng đâu cũng có.” Một nhân viên bán hàng Ai Cập ở Cairo nói về người nhập cư Trung Quốc trong thành phố Đối với hầu hết mọi người, ngày đó có lẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa, nhưng đúng 8 giờ 8 phút ngày 8 tháng 8 năm 2008, lịch sử đã sang trang.[1] Khoảnh khắc đó đã đánh dấu thời điểm bắt đầu lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh, lần đầu sự kiện loại này diễn ra ở một nước đang phát triển. Đó là sự kiện bị bao phủ trong tranh cãi và hoài nghi. Ngoài rủi ro do việc thiếu kinh nghiệm của nước tổ chức còn có lo ngại về tình trạng chính trị hóa cuộc tranh tài thể thao, hậu quả cuộc nổi dậy gần nhất trong vô số cuộc nổi dậy bị đàn áp ở Tây Tạng chỉ vừa xảy ra vài tháng trước, và nói chung, của bản chất độc tài của chế độ Trung Quốc. Tuy nhiên, mười tám ngày sau, đại hội thể thao kết thúc bằng một màn biểu diễn hoành tráng khác tương xứng với lễ khai mạc. Trung Quốc đã vượt qua bài kiểm tra cuối cùng: công tác tổ chức xuất sắc và lần đầu tiên nước này trở thành một cường quốc thể thao nổi bật, vượt qua Hoa Kỳ trong bảng xếp hạng thành tích. Song thắng lợi lớn nhất không diễn ra trên đường chạy điền kinh của sân vận động Tổ Chim khổng lồ hay trong bể bơi Olympic hình khối. Thắng lợi thực sự đã diễn ra trên màn ảnh nhỏ với hơn 2 tỷ người theo dõi sự kiện và chứng kiến hình ảnh tươi tắn và đáng yêu của một đất nước hiện đại, tự tin vào khả năng của mình: hình ảnh Trung Quốc thế kỷ 21. Olympic Bắc Kinh 2008 là một chiến dịch PR vô giá cho chế độ Trung Quốc. Sự kiện này không chỉ phục vụ cho việc đánh bóng hình ảnh chế độ trong mắt người dân nước này, mà còn cho thấy Trung Quốc xứng đáng với tầm uy tín quốc tế, giúp lập tức xóa sạch ký ức bi thảm về những chiếc xe tăng trên quảng trường Thiên An Môn, máu đổ ở Tây Tạng, và chà đạp nhân quyền hàng ngày. Các vị nguyên thủ quốc gia chỉ vài tháng trước đe dọa tẩy chay đại hội giờ đây bày tỏ tôn trọng đối tác Trung Quốc hơn bao giờ hết. Trên báo chí, giờ đây người ta chỉ quan tâm đến khía cạnh kinh tế của Trung Quốc, còn những chuyện bất công hay đàn áp xã hội, thật ngạc nhiên, bị gạt ra bên lề. Dường như sau một đêm Trung Quốc đã trở nên “đồng hội đồng thuyền với chúng ta.” Với những người như chúng tôi, từng sống ở Trung Quốc và, từ góc nhìn nghề báo của mình, vốn là những nhân chứng hàng ngày đối với sự lạm dụng, vượt quyền và những nỗi kinh hoàng của chế độ, nên trò khử trùng cho chế độ độc tài lớn nhất thế giới này là điều gì đó chúng tôi nhìn vào vừa ngạc nhiên vừa đau đớn. Chiều hướng đó chỉ tăng lên trong những tháng tiếp theo: sự phấn khích từ Thế vận hội, dịp đã tôn vinh gã khổng lồ châu Á, vừa lắng xuống kịp lúc Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư lớn thứ tư tại Hoa Kỳ, tuyên bố phá sản; ngày 15 tháng 9 năm 2008, chỉ ba tuần sau khi Thế vận hội kết thúc, đánh dấu sự khởi đầu cuộc khủng hoảng đe dọa làm sụp đổ hệ thống tài chính phương Tây. Tình trạng hỗn loạn do sự sụp đổ tài chính ở Hoa Kỳ và Châu Âu, gồm cứu trợ ngân hàng, đóng cửa hàng loạt doanh nghiệp và sa thải hàng triệu công nhân, không chỉ hôm nay vẫn nhìn thấy rõ mà sẽ còn mất nhiều năm nữa để những vết thương này lành hẳn. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, gần như không biết đến cuộc khủng hoảng, nhờ sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tài chính đã giúp ngăn chặn lây lan, và nhờ phản ứng nhanh chóng của Bắc Kinh để tránh suy thoái. Không chỉ thế, trong khi thế giới chung quanh sụp đổ, gã khổng lồ châu Á – với nhu cầu ngày càng tăng và dự trữ ngoại tệ vô hạn – đã nổi lên như chiếc phao cứu sinh giữa đống đổ nát của phương Tây, mua các khoản nợ và cho vay vốn chỗ này, chỗ kia và khắp mọi nơi. Trong chưa đầy một năm, uy tín và vị thế của Trung Quốc trên thế giới xoay 180 độ, từ một chế độ độc tài không đáng tin thành vị cứu tinh của nền kinh tế thế giới. Rõ ràng cán cân quyền lực trên thế giới đã bắt đầu nghiêng về phía Đông. Tháng 11 năm 2009 chúng tôi ngạc nhiên theo dõi Hồ Cẩm Đào và Barack Obama cùng nhau xuất hiện trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc đầu tiên của vị tổng thống này. Thái độ đấu dịu của nhà lãnh đạo Mỹ khi động đến các vấn đề khó chịu truyền thống đối với Bắc Kinh – như nhân quyền – vốn luôn đóng một vai trò nổi bật trong lịch trình ngoại giao của người tiền nhiệm của ông, là một dấu hiệu chắc chắn của sự trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trên vũ đài thế giới. Chỉ vài tuần trước, ông chủ mới của Nhà Trắng đã tiếp cận Trung Quốc với ý tưởng tạo ra G2, một trục Washington – Bắc Kinh để dẫn dắt các công việc của thế giới. Bắc Kinh đã nói không. Tại sao Trung Quốc phải hình thành một liên minh với Hoa Kỳ khi họ đã nắm được vai trò lãnh đạo thế giới trong tay? Với túi căng phồng và uy tín được tân trang, gã khổng lồ cảm thấy tràn đầy sức mạnh. Vì thế, ở giữa các cơ hội do sự đổ vỡ tài chính tạo ra, Trung Quốc bắt đầu bủa rộng lưới. Các khoản đầu tư trị giá hàng triệu đô la, các hợp đồng cung ứng dài hạn nguyên liệu thô, và việc thâu tóm tài sản trên khắp hành tinh cung cấp nhiều bằng chứng rằng cuộc chinh phục thế giới của Trung Quốc đã trở thành một thực tế, từ chỗ chúng tôi ngồi trong văn phòng của mình ở Bắc Kinh, dường như không thể chối cãi. Chúng tôi nhanh chóng bị qui mô của hiện tượng cuốn hút: Bản chất sự bành trướng của Trung Quốc trên khắp hành tinh là gì, một sự bành trướng dựa trên sự im lặng của tiền bạc chứ không bằng sức mạnh quân sự vẫn được các cường quốc khác trên thế giới sử dụng? Có phải quốc gia châu Á này thực sự đang thuộc địa hóa châu Phi? Quan hệ quân sự, kinh tế, hạt nhân giữa Bắc Kinh và Tehran chặt chẽ đến mức nào? Có phải gã khổng lồ này đang thực sự xóa sạch những cánh rừng ở Mozambique? Nước láng giềng Nga đang chịu đựng sự xâm nhập của Trung Quốc như thế nào? Vòi của Trung Quốc đã với xa tới Mỹ Latinh chưa? Lần lượt, những câu hỏi mài sắc tò mò của chúng tôi, nhưng dựa trên thông tin chúng tôi không thể rút ra được câu trả lời nào. Trong khi đó, ngày nào cũng viết về GDP và các biến số kinh tế vĩ mô khác của Trung Quốc đã trở thành thói quen gần như không thể chịu đựng nổi khi chúng tôi có thể nhìn thấy lịch sử đang chuyển dòng ngay trước mắt mình, ở các giếng dầu Angola, các mỏ sắt Peru và những khu chợ Trung Á ngập hàng “Made in China.” “Hãy trở lại với nghề báo thực sự và bắt đầu chúi mũi vào vấn đề này,” chúng tôi bảo nhau, tin rằng cuốn sách này chỉ có ý nghĩa khi tiến hành điều tra tại chỗ. Chúng tôi phải đi đến những nơi nhìn được rõ nhất dấu chân của gã khổng lồ – ở các nước đang phát triển. Nói cách khác, đã đến lúc đi châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, để tự mình nhìn thấy, va chạm và nếm trải cách thức Trung Quốc trở thành một thế lực toàn cầu. Hè 2009 đã gần kết thúc khi chúng tôi bắt đầu cuộc điều tra hai năm toàn tâm toàn ý. Tìm hiểu “thế giới Trung Quốc mới” khởi đầu như cuộc đánh cược, nhưng đã nhanh chóng biến thành nỗi đam mê, cùng với những trao đổi qua thư điện tử đầy ý tưởng điên rồ vào những giờ khuya khoắt trong đêm. Khi chúng tôi tiến tới và bắt đầu hiểu những vấn đề và bí mật cốt lõi của hiện tượng này, cuộc điều tra mở rộng thành nỗi ám ảnh. Thật may mắn, chúng tôi không phải là những người duy nhất quyết định khám phá thêm: Công ty phân tích truyền thông Mỹ Global Language Monitor trong tháng 12 năm 2009 đã công bố “sự nổi lên của Trung Quốc” là câu chuyện được theo dõi chặt chẽ nhất trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình và internet kể từ đầu thế kỷ, thậm chí hơn cả sự kiện 9/11 hay cuộc bầu cử tổng thống Obama. Đối với hai nhà báo chúng tôi, không có gì háo hức hơn việc theo đuổi “tin nổi bật của thập niên.” ... Mời các bạn đón đọc Đạo quân Trung Quốc thầm lặng của hai tác giả Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo.
Ánh Chớp Tư Duy - Mohammed Bin Rashidal Maktoum
Ánh Chớp Tư Duy - Lấy cảm hứng từ những phát biểu tại hội nghị cấp cao chính phủ năm 2013. "Công việc của chính phủ là mang lại hạnh phúc cho người dân." "Chính phủ tương lai sẽ mở cửa dịch vụ 24/7 suốt năm. Các lĩnh vực tư nhân làm được vậy, tại sao lĩnh vực công lại không thể? Chúng tôi muốn chính phủ của mình giống như một hãng hàng không, luôn sẵn sàng từng phút từng giây." "Chính phủ tương lai phải cạnh tranh và phải vượt qua khu vực tư nhân về chất lượng dịch vụ. Chúng tôi muốn chính phủ phải chào đón khách hàng chuyên nghiệp hơn cả khách sạn. Chúng tôi muốn chính phủ phải quản lý quy trình tốt hơn cả các hệ thống ngân hàng." "Một trong những bài học quan trọng nhất trong cả lịch sử cổ đại và hiện đại là sự tiến bộ của các quốc gia , con người và nền văn minh đều bắt đầu từ giáo dục. Tương lai của các quốc gia bắt đầu từ các trường học của họ." *** Vào tháng Hai năm 2013, Hội nghị thượng đỉnh Chính phủ được tổ chức tại UAE. Sự kiện này đã quy tụ nhiều quan chức và chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới, cùng chia sẻ nhãn quan sáng tạo về những cách thức mà các chính phủ có thể dùng để khiến các dịch vụ công trở nên hiệu quả hơn, hiệu năng hơn và tập trung vào người dân hơn.   Trong khuôn khổ hội nghị, tôi tổ chức một phiên hỏi-đáp tương tác. Đó là một buổi đối thoại đầy hứng khởi, cung cấp một cái nhìn tổng quan qua nhiều chủ đề, từ quản lý, lãnh đạo đến cuộc sống cá nhân cũng như những phương tiện và động lực giúp thực hiện những điều đó.   Nhờ vậy, tôi có cơ hội để giải thích và soi chiếu lại. Trong chừng mực nào đó, nó đã trở thành thời điểm để xác định các tư tưởng quan trọng, bao gồm những điều cốt lõi trong tầm nhìn của chúng tôi đối với quốc gia này. Vì thế, tôi cảm thấy chúng tôi cần một cuốn sách để ghi lại những ý tưởng và luận bàn thêm về cuộc đối thoại này.   Cuốn sách này chứa đựng nhiều phạm vi chủ đề và các ý tưởng quan trọng khác nhau. Nó bao gồm nhiều chủ đề chưa thể thảo luận do sự hạn chế về thời gian, cùng những điều mà tôi muốn mở rộng thêm trong một số câu trả lời của mình.   Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tôi muốn làm rõ rằng tôi không phải là một nhà khoa học. Tôi cũng không nghĩ tôi là một nhà triết học thông thái. Mục đích của “tuyển tập những kinh nghiệm, ý tưởng và suy nghĩ” này chỉ đơn giản là vì phụng sự cho đất nước chúng tôi, mang lại nhiều hạnh phúc cho người dân của chúng tôi.   Chúng tôi cầu nguyện Đấng Allah phù hộ cho sự thành công trong sự nghiệp phụng sự đất nước và người dân.   Mohammed bin Rashid Al Maktoum  *** Mới cách đây không lâu, tôi gặp một người nhóm khoảng 500 nhà điều hành quốc tế đến từ các công ty lớn nhất trên thế giới trong một hội nghị tại Dubai. Khi được mời phát biểu, tôi nói với họ là tôi sẽ kể ba câu chuyện, trong đó tóm tắt ba đặc điểm quan trọng nhất của các nhà lãnh đạo kinh doanh.   Câu chuyện đầu tiên diễn ra vào năm 1985 tại Dubai. Một hãng hàng không kiểm soát khoảng 70% của lưu lượng đường bay ở sân bay Dubai đã yêu cầu chúng tôi phải chấm dứt chính sách mở cửa bầu trời, không cấp quyền cho bất kỳ hãng hàng không nào khác hoạt động trên sân bay Dubai. Họ ra tối hậu thư, cho chúng tôi một tuần để thực hiện. Nếu không, họ đe dọa sẽ rút khỏi sân bay và chúng tôi sẽ mất gần 70% lưu lượng chuyến bay đến Dubai.   Chúng tôi từ chối yêu cầu của họ với một lý do đơn giản: Chúng tôi tin rằng sự cạnh tranh và không bảo hộ mậu dịch là điều lành mạnh nhất cho đất nước chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi đã thuê hai máy bay và tạo ra một hãng hàng không mang tên Emirates. Trong một khoảng thời gian ngắn, họ đã buộc chúng tôi phải lập hãng hàng không của riêng mình, một hãng hàng không mà hiện nay được xếp thứ ba trên thế giới.   Bài học đầu tiên chính là sự cạnh tranh luôn làm cho bạn mạnh mẽ hơn và tốt đẹp hơn. Chỉ có những kẻ yếu đuối mới sợ phải cạnh tranh. Đất nước chúng tôi tốt lên bởi vì nó luôn rộng tay chào đón sự cạnh tranh. Nhân viên của chúng tôi tốt lên bởi vì mỗi người đều phải cạnh tranh với nhiều người khác. Đường sá của chúng tôi tốt lên bởi vì chúng tôi muốn vượt qua đường sá ở các nước khác. Ngay cả cơ quan chính phủ của chúng tôi cũng trở nên tốt hơn khi chúng tôi tổ chức nhiều giải thưởng khác biệt nhằm khuyến khích việc cạnh tranh cho vị trí đầu tiên.   Câu chuyện thứ hai diễn ra vào đầu năm 1970. Một nhóm các nhà đầu tư đến gặp tôi và yêu cầu tôi khuyên can cha tôi thực hiện một dự án mà ông đã đặt hết tâm trí của mình vào đó. Dự án đó chính là cảng Jebel Ali.   Nhiều thương gia cho rằng dự án này là không cần thiết và sẽ là gánh nặng cho Ngân khố vì chi phí quá lớn. Tôi đã có một buổi nói chuyện ngắn với cha mình, cầu mong Allah phù hộ linh hồn ông. Sau một lúc im lặng, ông nói với tôi rằng ông đang xây dựng một điều gì đó cho tương lai, một điều mà chúng tôi sẽ không thể xây dựng nếu chờ đợi thêm nữa. Ngày nay, cảng Jebel Ali vẫn là cảng tạo lớn nhất toàn cầu và được xếp vào Top 10 cảng hàng hải bận rộn nhất thế giới. Nó có hơn 60 bến tàu lớn và một khu tự do mậu dịch với hàng ngàn công ty. Hơn nữa, kinh nghiệm của chúng tôi trong lĩnh vực này đã giúp chúng tôi có đủ điều kiện vượt qua 60 cảng khác trên thế giới.   Bài học từ câu chuyện này là chúng ta nên trang bị cho mình một tầm nhìn dài hạn, tham vọng lớn và khả năng nhìn xa trông rộng. Nếu không có tầm nhìn để định hướng đường đi và không có tham vọng vô giới hạn, chúng tôi không bao giờ có thể xây dựng một tương lai tươi sáng cho thế hệ mai sau.   Câu chuyện thứ  ba diễn ra vào năm 1999 khi chúng tôi xem xét xây dựng một khu kinh doanh riêng dành cho các công ty công nghệ. Chúng tôi gọi dự án là Thành phố Internet Dubai. Đầu tư ban đầu tương đối khiêm tốn, nhưng ý tưởng ngày càng phát triển với tham vọng bao trùm cả các lĩnh vực chuyên ngành khác như truyền thông, giáo dục và nhiều hơn nữa. Ngày nay, khu vực này có 4.500 công ty và 54.000 nhân viên, biến Dubai trở thành một thành phố sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ.   Điều này cho chúng ta thấy rằng sự sáng tạo và những ý tưởng tốt có thể xây dựng các quốc gia và thể chế. Tương lai thuộc về những người tạo ra ý tưởng. Hôm nay, UAE là quốc gia duy nhất trong khu vực chính thức được công nhận là một nền kinh tế dựa trên tri thức và đổi mới.   Mục tiêu của chúng tôi là được xếp hạng trong số các quốc gia hàng đầu trên thế giới. Với sự giúp đỡ của một tầm nhìn dài hạn, khả năng cạnh tranh cao, sáng tạo và đổi mới, chúng tôi chắc chắn có thể đạt được điều đó.  ... Mời các bạn đón đọc Ánh Chớp Tư Duy của tác giả Mohammed Bin Rashidal Maktoum.
Nguồn Gốc Nhãn Hiệu - Al Ries & Laura Ries
Trong mấy năm gần đây, một thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên với tần suất lớn và được coi như một vấn đề đáng chú ý trong marketing hiện đại tại Việt Nam là “brand” (nhãn hiệu) và “branding” (xây dựng nhãn hiệu). Trên thế giới, nhãn hiệu không phải là một vấn đề mới. Năm 1990, Viện Nghiên cứu Marketing của Mỹ đã tiến hành một cuộc thăm dò với đối tượng là khoảng 50 hãng quảng cáo hàng đầu về những vấn đề họ quan tâm thì câu trả lời nhận được là: tài sản nhãn hiệu. Nhãn hiệu không phải là sản phẩm, nó là sự nhận biết trong không gian và thời gian, là những gì được tạo ra trong tâm trí và trái tim của người tiêu dùng. Một khi các sản phẩm đã đạt đến mức độ hầu như không thể phân biệt được bằng tính chất, đặc điểm và công năng sử dụng thì nhãn hiệu là yếu tố duy nhất tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm. Nhãn hiệu giúp người ta có sự tin tưởng và cảm thấy an toàn với quyết định mua của mình. Theo thống kê tại Mỹ, bình quân trong một ngày người tiêu dùng tiếp xúc với khoảng 6.000 hoạt động quảng cáo, và mỗi năm có tới hơn 25.000 sản phẩm mới ra đời. Trong một thế giới như vậy, nhãn hiệu là yếu tố giúp người tiêu dùng không bị lẫn lộn, giúp họ vượt qua những lựa chọn ngày càng đa dạng khi mua một sản phẩm hay dịch vụ. Uy lực của nhãn hiệu không chỉ giới hạn trong thị trường hàng hóa tiêu dùng mà thậm chí còn quan trọng hơn trong thị trường hàng hóa sử dụng (công nghệ phẩm). Có thể nói nhãn hiệu là một thứ tài sản vô hình nhưng lại chứa đựng một sức mạnh hữu hình, khi nó quyết định sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ, thậm chí còn tác động đến sự thành bại của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một hướng đi đúng trong xây dựng nhãn hiệu luôn là một thách thức đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Chỉ một bước đi sai lầm trong việc lựa chọn chiến lược phát triển nhãn hiệu mà một tập đoàn lớn như IBM đã bỏ lỡ nhiều cơ hội xâm nhập vào các thị trường mới; trong khi với một cách tiếp cận việc xây dựng nhãn hiệu đúng đắn, một nhãn hiệu mới như Google đã vượt qua Yahoo! để ngay lần đầu tiên xuất hiện đã chiếm lĩnh vị trí thứ 38 trong danh sách 100 nhãn hiệu mạnh nhất thế giới do Interbrand bình chọn năm 2005 (năm 2006 đã vượt lên đứng vị trí 24 với giá trị nhãn hiệu lên đến hơn 12 tỷ đô la). Không ở đâu xa, ngay ở nước ta, có thể thấy nhãn hiệu và việc xây dựng nhãn hiệu có vai trò quan trọng đến thế nào đối với mỗi doanh nghiệp, có những nhãn hiệu điển hình đã vượt ra khỏi biên giới địa lý để đến với thị trường quốc tế như cà phê Trung Nguyên hay món phở Việt Nam… Trong Nguồn gốc nhãn hiệu, các chuyên gia về marketing Al Ries và Laura Ries đã áp dụng thuyết tiến hóa nổi tiếng của Darwin cho quá trình xây dựng nhãn hiệu. Kết quả là một chiến lược có tính sáng tạo và cực kỳ hiệu quả trong việc tạo nên các sản phẩm mới, xây dựng các nhãn hiệu thành công và đạt được tăng trưởng trong kinh doanh đã ra đời. “Những cây sồi cao lớn thường mọc lên từ những hạt giống bé nhỏ”, đó là một câu ngạn ngữ Latin nổi tiếng. Những nhãn hiệu lớn mạnh nhất trên thế giới đều xuất phát từ những ý tưởng rất nhỏ bé. Những nhánh sản phẩm lớn mạnh nhất đều có khởi nguồn từ những chiếc mầm nhỏ. Vậy, trong những mầm xanh và những nhánh sản phẩm của một cây sản phẩm, nhánh nào, mầm nào sẽ sống sót và phát triển, nhánh nào sẽ héo tàn và bị loại bỏ? Theo thuyết tiến hóa của Darwin, nguyên tắc nền tảng của tiến hóa là sự tồn tại của những loài có khả năng thích nghi nhất. Cuộc đấu tranh giữa những cá thể có thể cải tiến các loài trong một giai đoạn kéo dài. Darwin tin rằng tất cả sinh vật sống đều phải đấu tranh khắc nghiệt để sinh tồn và quá trình này sẽ loại bỏ loài động, thực vật nào mang những yếu tố không thể thích nghi được với môi trường. Nguyên tắc cơ bản thứ hai của quá trình tiến hóa bắt nguồn trực tiếp từ nguyên tắc thứ nhất. Đó là nguyên tắc khác biệt hóa. Hai nguyên tắc của tự nhiên vừa nêu trên cũng có thể áp dụng cho lĩnh vực marketing. Cuộc đấu tranh giữa các cá thể (các nhãn hiệu) sẽ làm các loài phát triển. Cuộc đấu tranh giữa các loài (các chủng loại hàng) sẽ thúc đẩy các chủng loại hàng ngày càng khác biệt nhau. Nếu kết quả của hoạt động marketing chủ yếu hướng đến việc bảo đảm đưa đúng sản phẩm đến đúng khách hàng vào đúng thời điểm với giá cả làm hài lòng cả hai bên doanh nghiệp và khách hàng, thì kết quả của hoạt động xây dựng và quản trị nhãn hiệu, trong một góc tiếp cận vừa hẹp hơn vừa chuyên nghiệp hơn, hướng đến việc xây dựng, duy trì và phát triển một tài sản vô hình trong dài hạn, gắn với một quan điểm rõ ràng về văn hóa và chiến lược kinh doanh, không chỉ đòi hỏi một tham vọng lớn, một quyết tâm cao, một tầm nhìn rộng của giới lãnh đạo doanh nghiệp, mà còn đòi hỏi khả năng tìm kiếm những cơ hội xây dựng những nhãn hiệu mới và năng lực tổ chức được một bộ phận tác nghiệp sắc sảo vận dụng linh hoạt các kỹ thuật xây dựng nhãn hiệu. Những phân tích tình huống phong phú trên nhiều lĩnh vực thị trường trong cuốn sách này sẽ giúp người đọc có một cái nhìn đa chiều hơn về việc đó. Việc so sánh quá trình xây dựng nhãn hiệu với các quy luật sinh học và thuyết tiến hóa của Darwin - những lý thuyết của một ngành khoa học hoàn toàn khác - có vẻ là một ý tưởng khá mới mẻ và táo bạo. Tuy nhiên dưới ánh sáng của các quy luật này, việc xây dựng nhãn hiệu trở nên vô cùng rõ ràng và đơn giản. Trong Nguồn gốc nhãn hiệu, các tác giả đã đưa người đọc xuyên suốt quá trình hình thành và duy trì một nhãn hiệu: từ việc những ý tưởng mới được phát triển như thế nào, tầm quan trọng của việc là nhãn hiệu đầu tiên và việc tạo ra một chủng loại hàng hóa mới cho đến việc định vị nhãn hiệu để cạnh tranh, vai trò của Quan hệ công chúng (PR), việc bảo vệ nhãn hiệu và khả năng nhận biết thời điểm nên từ bỏ một nhãn hiệu hiện đang tồn tại. Với những phân tích và so sánh thực tế, dễ hiểu, với văn phong dí dỏm và khối lượng thông tin dồi dào, Nguồn gốc nhãn hiệu thực sự là cuốn sách không thể thiếu về chủ đề này. * Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Nguồn gốc nhãn hiệu của tác giả Al Ries và Laura Ries, hai nhà chiến lược và tư vấn marketing nổi tiếng thế giới, tác giả của nhiều cuốn sách kinh điển về quản trị marketing. Trong Tủ sách AlphaBiz/Marketing và Bán hàng, cùng với những cuốn đã xuất bản như 22 quy luật vàng trong xây dựng nhãn hiệu, 11 quy luật vàng trong xây dựng nhãn hiệu trên Internet của cùng tác giả, trong thời gian tới Công ty Sách Alpha sẽ xuất bản cuốn P&G, 165 năm xây dựng nhãn hiệu thương mại của Trường Quản trị Kinh doanh Harvard… Nhượng quyền thương hiệu và cấp li-xăng (Franchising & Licensing), Cuộc chiến nhãn hiệu (Brand Warfare) và nhiều cuốn sách có giá trị khác. Với tủ sách này, chúng tôi mong muốn cung cấp những kiến thức kinh doanh thực tế và hữu ích, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về nhãn hiệu và việc xây dựng nhãn hiệu ngày càng tăng của các doanh nhân, những người làm trong lĩnh vực kinh doanh, những nhà nghiên cứu, các sinh viên ngành quản trị kinh doanh và marketing cũng như độc giả quan tâm, qua đó đóng góp phần nào vào quá trình xây dựng và phát triển các nhãn hiệu Việt Nam. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để có thể tiếp tục giới thiệu các ấn phẩm ngày càng chất lượng hơn. LÊ TƯỜNG VÂN Công ty Sách Alpha *** Bộ Sách PR Xây Dựng Thương Hiệu & Doanh Nghiệp gồm có: 1. Tập trung để khác biệt, tác giả: Al Ries, Laura Ries; 2. Nguồn gốc nhãn hiệu, tác giả: Al Ries, Laura Ries; 3. Sáng tạo, tác giả: Marty Neumeier, 4. Đảo chiều, tác giả: Marty Neumeier, 5. Khoảng cách, tác giả: Marty Neumeier, 6. Quản trị thương hiệu, tác giả: Patricia F. Nicolino, 7. Chiến lược thương hiệu châu Á, tác giả: Martin Roll, 8. Quản trị thương hiệu cá nhân và công ty, tác giả: Hubert K. Rampersad. *** 23 năm đã trôi qua kể từ ngày cuốn sách đầu tiên của Al Ries: Cuốn Định vị: Cuộc chiến giành chỗ đứng trong tâm trí khách hàng (Positioning: The battle for your mind) được xuất bản. Thật trùng hợp, 23 năm cũng là khoảng thời gian từ khi Charles Darwin hoàn thành chuyến đi lịch sử trên con tàu HMS Beagle tới ngày ra đời cuốn sách vĩ đại của ông. Thời gian đã sàng lọc mọi ý tưởng và quan niệm để chúng trở nên tinh tế và chọn lọc hơn! Và dẫu cho đã có hàng ngàn trang viết về nhãn hiệu thì chúng tôi tin rằng tầm quan trọng của vấn đề này vẫn cần phải được nhắc lại một lần nữa. Chúng tôi tin rằng vẫn tồn tại những nguyên tắc cốt yếu đang hoạt động mà chưa từng được tách bạch, định nghĩa hay giải thích. Chúng tôi cũng tin rằng nguyên tắc này mang tính nền tảng tới mức mà chỉ có một phép so sánh duy nhất có thể xứng tầm với nó, nằm trong cuốn sách nổi tiếng về sinh học của Darwin, cuốn Nguồn gốc các loài. Đó là quy tắc về biến dị, quy tắc có sức chi phối thế giới mạnh nhất nhưng người ta lại hiểu về nó ít nhất. Những điều xảy ra trong tự nhiên cũng xảy ra trong thế giới hàng hóa và dịch vụ. Mọi chủng loại hàng rốt cuộc đều sẽ biến đổi để tạo thành hai hay ba chủng loại hàng mới, như vậy sẽ liên tục tạo ra các cơ hội để xây dựng nhãn hiệu. Tác động tương tác giữa tiến hóa và biến dị là hình mẫu giúp chúng ta hiểu được thế giới nói chung và thế giới nhãn hiệu nói riêng. Thuyết tiến hóa đã được đông đảo mọi người thừa nhận, nhưng chỉ riêng thuyết tiến hóa không thể giải thích được sự đa dạng, phong phú của muôn loài cư ngụ trên mặt đất, kể cả những loài kỳ dị nhất. Nếu không có biến dị thì bản thân sự tiến hóa không thể tạo ra một thế giới phong phú, trong đó có vô số sinh vật từ những loài đơn bào tới những loài có kích thước khủng long. Thế giới của nhãn hiệu cũng như vậy. Nhãn hiệu đã “tiến hóa” để trở nên mạnh hơn và thống trị thị trường nhưng chính sự biến đổi đã tạo điều kiện cho ra đời những chủng loại hàng mới và những nhãn hiệu mới. Việc so sánh quá trình xây dựng nhãn hiệu với những quy luật sinh học có vẻ lạ lùng nhưng chúng tôi thiết nghĩ rằng không có phép so sánh nào giải thích việc xây dựng nhãn hiệu lại rõ ràng và đơn giản hơn thế.   Mời các bạn đón đọc Nguồn Gốc Nhãn Hiệu của tác giả Al Ries & Laura Ries.