Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3 (H. P. Blavatsky)

MỤC LỤC

QUYỂN 3

Trang

CÁC CHÚ THÍCH SƠ BỘ về các Đoạn Kinh cổ và Bốn Lục địa

Thời tiền sử.……….. 21 Tìm mua: Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3 TiKi Lazada Shopee

Giáo Lý Bí Nhiệm trình bày ba Vấn đề mới: (a) Sự Tiến

Hóa Đồng Thời của Bảy Nhóm Người trên Bảy Phần khác nhau của Địa Cầu. (b) Dĩ thái thể sinh ra trước Thể Xác. (c)

Trong Cuộc Tuần Hoàn này, Con Người có trước mọi con thú thuộc loại Hữu nhũ - Các giống người Vô giới tính và

Lưỡng tính - Nguyên kiểu của các Nam tử đầu tiên nơi chư Thần Linh Bí nhiệm của người Phoenicia, v..v.. - Các

Ẩn dụ Ngoại môn dựa vào các Bí pháp Nội môn - Bảy vị

Thần Linh, mỗi Vị Sáng tạo ra một Nhóm người - Ý nghĩa của Hai “Cuộc Sáng Tạo” - Năm Lục địa: (1) Thánh Địa

Bất Diệt; (2) Lục địa Bắc Cực; (3) Châu Lemuria; (4) Châu

Atlantis; (5) Châu Âu - Con Người đã tồn tại cách đây

18.000.000 năm - Các Thời Kỳ Địa Chất - Chí Tuyến ở Cực.

PHẦN 1. NHÂN SINH KHỞI NGUYÊN LUẬN

MƯỜI HAI ĐOẠN KINH TRONG THIỀN ĐỊNH CHÂN

KINH..……….. 41

PHẦN GIẢNG LÝ

ĐOẠN KINH 1 - KHỞI ĐẦU CUỘC SỐNG HỮU HÌNH... 52

Ý nghĩa của từ ngữ “Lha” - Sự khởi thủy của Chiêm tinh học và Tục sùng bái tinh tú - Chư Thiên và Loài người đều bắt nguồn từ cùng một Điểm, NHẤT NGUYÊN Tuyệt

Đối - Huyền Âm là Cơ Sở của khía cạnh Nội Tâm của Bản

Thể Biểu Lộ - Hỗn nguyên khí là nền tảng của Khía cạnh

Giáo lý bí nhiệm

4

Ngoại cảnh của Vạn vật - Thần Lực nối tiếp Hỗn nguyên khí - Adam-Kadmon - Rồng và Rắn - Bí nhiệm Huyền

Linh của Thủy Tinh và Kim Tinh - Bảy Đấng Hành Tinh

Chơn Quân và các Hành Tinh - Các Đấng Quản trị Thiên giới của Nhân loại - Quả Địa Cầu Thập tự giá - Shukra, tức Kim Tinh và Địa Cầu - Huyền học Nhiệm mầu bàn về

Đấng Chưởng Quản Hành Tinh - Đấng Độc Tôn, Đấng Đa

Nguyên và các Đấng Thông Tuệ làm linh hoạt nhiều

Trung Tâm Hiện Tồn khác nhau - Hình mười hai mặt của

Vũ Trụ - Ba loại Ánh sáng - Các Con số Sáng Tạo - Một

Đấng Thánh Linh Nội Vũ Trụ là một Tất Yếu triết học -

Tiến Hóa nhờ vào các Linh từ - Vạn hữu được sản sinh ra trong Thế giới lý tưởng - Adam-Kadmon và Adam -Admi

- Ngôi Sao hoặc Hành Tinh nào cũng có người ở - Trận

Chiến tranh Đầu tiên trên Trời - Căn chủng Đầu tiên thật là Tinh anh - Nay chúng ta đang ở vào Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư.

HAI NHÀ THIÊN VĂN HỌC TRƯỚC THỜI ĐẠI HỒNG

THỦY:

Nãrada và Asuramaya...….. 98

Chiếc gương hậu lai - Các dữ kiện suy ra từ các tác phẩm huyền bí học bí nhiệm.

ĐOẠN KINH 2 - THIÊN NHIÊN KHÔNG ĐƯỢC TRỢ

GIÚP SẼ THẤT BẠI.… 105

Các Bầu hành tinh thay đổi Hoàn cảnh Địa chất và Khí quyển - Các Con quái vật thời Hỗn mang - Các Thể tinh anh Sơ khởi của Con người - Thiên nhiên cần được trợ giúp trong việc tạo ra Con Người Thiêng liêng và Thông tuệ - Chư Thần Linh Ý chí bổ túc cho Con người.

SỰ SÁNG TẠO CÁC ĐẤNG THIÊNG LIÊNG THEO GIÁO

LÝ NGOẠI MÔN.…… 117

Linh Hồn của Vũ Trụ là Nguồn cội của Ngã Thức - Sự sáng tạo Sơ cấp và Cuộc tiến hóa Thứ cấp của Thế giới biểu lộ hữu hình - “Ngày” và “Đêm” của Brahmã - Các

Mục lục

5

Thiên Thần Nổi Loạn - Dân Babylon tường thuật về

“Cuộc Sáng Tạo” - Quan điểm của các Tín đồ phái Ngộ

Đạo.

ĐOẠN KINH 2 - Tiếp theo...……. 126

Các “Linh Hỏa” là một Đại Đoàn Chơn Linh - Mặt Trăng có nguồn gốc xưa hơn Trái Đất nhiều - Thời gian tạo ra vỏ

Quả Đất - Nước là Biểu tượng của Yếu tố Nữ - Kỳ gian của các Thời kỳ địa chất.

NIÊN ĐẠI CỦA NGƯỜI BÀ LA MÔN.. 131

“Bạch Đảo” là một Danh xưng biểu tượng - Các số liệu của Ấn Độ về các Thời kỳ tiến hóa Vũ Trụ - Các Chu Kỳ

Thiên kiếp và các Chu kỳ Chủng tộc - Các Người khổng lồ lương hảo và các Người lùn Tồi bại - Các thời kỳ Địa Chất theo kiến nghị của Khoa học - Tầm quan trọng của Niên đại Đông phương - Vũ Trụ khởi nguyên luận là một Thiên

Cơ sáng suốt - Chúng ta đang ở điểm Thấp nhất của một

Chu kỳ.

ĐOẠN KINH 3 - CÁC TOAN TÍNH THỬ TẠO RA CON

NGƯỜI..…….. 147

Các Nguyệt Tinh Quân - Câu chuyện Abram dựa vào câu chuyện Brahmã - Nhiều loại Đấng Sáng Tạo khác nhau -

Các Agnishvãtta và Barhishad Pitris - Lửa Tinh Thần sống động - Định nghĩa Chơn Ngã con người - Các cuộc Tái sinh Vũ Trụ, tức Chuyển động xoáy ốc Vĩnh cửu của Vũ

Trụ - Con người là một Thần Linh trong một hình hài

Động vật - Giáo lý Huyền bí đặc biệt liên kết Nãrada với các Chu kỳ Thiên kiếp Bí nhiệm - Lửa, Đốm Lửa và Ngọn

Lửa - Dĩ thái thể có trước thể xác - Giống dân Đầu tiên biến mất trong Giống dân thứ Nhì - Tử cung người là một phản ánh của Khuôn viên Thế giới, “Thánh Đô”.

ĐOẠN KINH 4 - SỰ SÁNG TẠO RA CÁC GIỐNG DÂN

ĐẦU TIÊN..… 166

Huyền bí học dạy rằng Giống người đầu tiên được các

Đấng Cao Cả Thiêng Liêng phóng chiếu ra từ Bản Thể của

Giáo lý bí nhiệm

6

Mình - Có một Cuộc tiến hóa Tinh Thần, một Cuộc tiến hóa Tâm Linh, một Cuộc tiến hóa Trí Tuệ và một Cuộc tiến hóa Thú Dục - Bảy loại Tổ phụ: 3 loại Phi thể và 4 loại

Hữu thể - Mười hai Đại Thiên Thần phụ tá Brahmã trong

Công Trình Sáng Tạo - Nguồn gốc của từ ngữ “Bàn Cổ” -

Các Nhật Tinh Quân là “Tâm” của Đoàn thể Thiền Định

Đế Quân - Tại sao “Chư Thiên” lại không chịu sáng tạo và bị “Đọa đày” - Prometheus tiêu biểu cho cái gì? - Các

“Đấng Sáng Tạo” và “Hình bóng”của họ - Các Đấng Sáng

Tạo trong thần thoại Bắc Âu - Chữ Vạn, Biểu tượng thiêng liêng và Huyền nhiệm - Cây Búa của Thần Thor và cây

Búa Tam Điểm - Chhãya là Hình bóng tinh anh - Các Tổ phụ của Chơn Nhơn tinh anh - Con người Sơ thủy là một

Thất bại - Các “Kẻ Nổi Loạn Thiêng Liêng” cứu rỗi chúng ta - Ý nghĩa của Con Rồng, Nguyên khí Nam - Hydrogen thực sự là gì? - Bí nhiệm về Cuộc sáng tạo Thiên Tôn -

Diệu Âm tức Bản quang Shekinah - Cuộc tiến hóa của

Ngũ hành và Ngũ quan - Trình tự Giáng hạ Tiến hóa Nội

Môn.

ĐOẠN KINH 5 - SỰ TIẾN HÓA CỦA GIỐNG DÂN THỨ

NHÌ..……….. 210

Lửa Tinh Thần và Chơn Ngã - TOÀN LỰC vốn có sẵn nơi

Chơn Thần - Chơn Ngã thống ngự được Phàm Ngã sau ba

Căn chủng rưỡi - Bảy Trú sở hay Bảy vùng Địa Cầu - Con người có sẵn Mãnh lực siêu việt được các Năng lực Thiên

Thần - Tinh Thần Thiêng Liêng được tiêu biểu bởi Mặt

Trời hay Lửa - Linh Hồn được tiêu biểu bởi Nước và Mặt

Trăng - Nhân Hồn tức Thể Trí được tiêu biểu bởi Gió tức

Phong - Giống dân thứ Nhất có Tam Hành, nhưng không có Sinh Hỏa - Hỏa, Phong và Thái Dương là Ba mức độ

Huyền bí của Lửa - Giống dân thứ Nhất là Dĩ Thái thể của các Tổ phụ - Luật tiến hóa thúc đẩy các Nguyệt Tinh Quân trải qua mọi dạng Tồn tại trên Địa Cầu - Giống dân thứ

Nhì Vô giới tính và Hãn sinh - Các cách thức sinh sản -

Mục lục

7

Các Phân Thân (Đứa Con) của Yoga tức Giống người tinh anh nguyên thủy - Bảy giai đoạn Sinh dục trong mỗi giống dân - Các giống người Bán thư bán hùng nguyên thủy là một Sự kiện trong Thiên Nhiên - “Phôi Chủng nguyên thủy”, Bản Thể Thiền Định Đế Quân tức Đối Thể của các Tổ phụ - “Các Đứa Con Tranh tối tranh sáng” -

Giống Dân thứ Nhất bị hấp thụ vào Giống dân thứ Nhì -

Con người phát triển một Thể Xác - Ẩn dụ về Leda, Castor và Pollux.

ĐẤNG BÁN THƯ BÁN HÙNG THIÊNG LIÊNG.. 238

Vấn đề Bí ẩn về Sphinx (Nhân Sư) - Đấng Bán thư bán hùng Thiêng liêng phân thành Đàn ông, Đàn bà, Cain và

Abel - Jah-Hovah, Đấng Bán thư bán hùng - So sánh

Thánh kinh với kinh Purãnas - Jah-Hovah là một Danh xưng chung của Đại Đoàn Thiên Thần Sáng Tạo Hành

Tinh - Cain Nội Môn - So sánh các Thần nhân luận của dân Aryan và dân Semite - Tôn danh Thượng Đế của người Do Thái.

ĐOẠN KINH 6 - SỰ TIẾN HÓA CỦA GIỐNG NGƯỜI HÃN

SINH. 250

Nhân loại thuộc Giống dân thứ Ba biến thành Lưỡng tính

- Giống dân thứ Tư nếm mùi Trái Cây Thiện Ác - Giống dân thứ Năm chúng ta nhanh chóng tiến tới Hành thứ

Năm - Căn chủng thứ Nhất không thể bị tổn thương hay

Diệt vong - Giống dân thứ Nhì bị tiêu diệt trong Cơn quằn quại vĩ đại đầu tiên của Cuộc tiến hóa và sự Củng cố quả Địa Cầu trong Thời kỳ Nhân loại.

SƠ LƯỢC VỀ CÁC TRẬN ĐẠI HỒNG THỦY VÀ NOAHS …. 265

Hóa Thân Cá (Matsya-Avatãra) - Trận Lụt Vũ Trụ Đầu tiên liên quan tới cuộc Sáng tạo Nguyên thủy - Trận Lụt thời Châu Atlantis - “Đại Hồng Thủy” là một truyền thuyết Đại đồng Thế giới - Các Biểu tượng của dân Arkite

- Noah người Do Thái và Nuah người Chaldea - Trận Lụt thứ nhì ảnh hưởng đến Căn chủng thứ Tư - “Bạch Đảo”-

Giáo lý bí nhiệm

8

Các ý nghĩa của Ilã.

CON NGƯỜI CÓ THỂ TỒN TẠI CÁCH ĐÂY 18.OOO.OOO

NĂM KHÔNG?... 284

Sự dị biệt giữa Khoa học Thế tục và Nội môn Bí giáo tùy thuộc vào việc chứng minh sự tồn tại của Dĩ thái thể bên trong Thể Xác - Nhân loại Vật chất đã tồn tại trên Trái Đất từ 18.000.000 năm nay - Adam-Galatea - Thoạt tiên Loài người nguyên thủy có một Thể tinh anh Khổng Lồ - Sự tiến hóa chỉ áp dụng cho Phàm Nhơn - Tương tự là Luật chỉ đạo trong Thiên Nhiên - Một “Cơ thể không có các Cơ quan” - Con người là Động vật hữu nhũ đầu tiên trong các Cuộc Tuần Hoàn này - Thời kỳ phát triển Tính Dục,

Vật Chất, Cảm Dục và Tinh Thần chiếm rất nhiều Thời gian - Sự sinh sản Tự phát - Thượng Đế biểu lộ chẳng qua chỉ là Một phần của Toàn thể - Hoàn cảnh Vật Chất cần thiết cho các Giống dân Sơ Khai.

ĐOẠN KINH 7 - TỪ CÁC GIỐNG NGƯỜI BÁN THIÊNG

LIÊNG XUỐNG TỚI CÁC GIỐNG NGƯỜI ĐẦU TIÊN …. 306

Cái gọi là “Sự sa đọa của các Thiên Thần” là Chìa khóa để giải Bí nhiệm về điều Ác - Mãi cho tới Giữa cuộc Tuần

Hoàn này, Con Người chỉ là một Động vật, xét về mặt Trí

Tuệ - Thể Trí chỉ phát triển trọn vẹn trong cuộc Tuần

Hoàn sắp tới - “Lửa Đen” là “Ánh Sáng” Tuyệt đối tức

Minh Triết - Lucifer là Chơn Linh của Toàn giác và tự do

Tư tưởng - Nhiều cuộc Sáng tạo khác nhau - Nguyên khí

Thiêng Liêng, Lưỡng diện, xung đột nơi Con người - Các giống dân nối tiếp nhau kể từ Giống dân tự sinh tự tại: (1)

Giống dân tự sinh; (2) Giống dân thứ Nhì: Hãn Sinh; (3)

Giống dân Lưỡng tính (Bán thư bán hùng) - Các cách thức

Sinh sản sơ khởi: (1) Liệt phân, (2) Nảy chồi, (3) Bào tử, (4)

Bán thư bán hùng trung gian, (5) Tính giao thực sự - Chơn

Thần và các cuộc Tuần hoàn - Sự tiến hóa là một Chu kỳ biến dịch Vĩnh cửu - Sự Sa đọa của các Thiên Thần có liên quan tới các Lý do sinh lý hơn là các Lý do siêu hình -

Mục lục

9

Chư thiên là Loài người được Thần thánh hóa - Các Thiên

Tôn do Quyền năng hiếu động sáng tạo ra - Sinh ra từ

Hình bóng (Bào ảnh sinh) là một cách thức sinh sản Vô giới tính sơ khởi - Thể Trí được phát triển sau khi con người nếm mùi Trái Cây Minh triết - Cảm dục và Tình dục - Daksha là Cha của các Tổ phụ giống như Người đầu tiên - Ý nghĩa Nội môn của Liên Trì Quan Thế Âm (Padmapãni Avalokiteshvara) - Xét về mặt Nội môn, Liên

Trì (Padmapãni) là Đấng gánh vác các Thiên kiếp.

ĐOẠN KINH 8 - SỰ TIẾN HÓA CỦA CÁC ĐỘNG VẬT

HỮU NHŨ: SỰ SA ĐỌA ĐẦU TIÊN..…. 339

Tinh Thần và Vật Chất được quân bình hóa nơi Con người

- Con người là Tổ phụ của các Con thú - Các Thánh Hiền và những Hậu duệ - Shiva là sự Tiến hóa và Tiến bộ được nhân cách hóa - Daksha tiêu biểu cho Giống dân Thứ Ba sơ khai - Động vật học Cổ sơ - Tội lỗi của những Người

Vô Trí.

NGƯỜI TA CÓ THỂ PHẢN ĐỐI NHỮNG ĐIỀU NÓI TRÊN

RA SAO?.……... 348

Chơn Thần chỉ không còn có tính chất con người khi nó đã trở nên Hoàn Toàn Thiêng Liêng - Những người theo thuyết

Darwin đã sai lầm - Con người Bản sơ, không có Thể Trí và Linh Hồn, trở thành Tổ phụ của Loài khỉ.

ĐOẠN KINH 9 - SỰ TIẾN HÓA TỐI HẬU CỦA CON

NGƯỜI..…….. 358

Huyền bí học đã giải thích Các chi tiết trước khi có “Sự sa đọa” như thế nào? Con người không hề mang Dòng máu

Khỉ - Giống người Không xương - Các bậc Thánh Vương và Thánh Sư của Giống dân thứ ba - Tính Đơn Nhất chuyên biệt của Nhân loại cũng có Ngoại lệ - Địa chất học,

Thực vật học và Động vật học ủng hộ Nội môn Bí giáo -

Các Giống dân và Luật trì trệ - Sự phân chia Giới tính -

Giống dân thứ Tư phát triển Ngôn ngữ - Độc âm ngữ,

Giao kết ngữ và Biến cách ngữ - Sự biến đổi của Địa cầu.

Giáo lý bí nhiệm

10

VƯỜN ĐỊA ĐÀNG, RẮN VÀ RỒNG..…. 378

Vườn Địa Đàng là một Trường học - Sự sinh sản của Con người bắt đầu trong phần Sơ khai nhất của Thời đại Trung

Sinh - Các con Lạc đà bay - Các quốc gia thời xưa mô tả các con Quái vật mà họ đã thấy - Các câu chuyện về Con

Rồng - Con Rắn đồng của Moses - Quỷ Vương có thực không? Hai trường phái Pháp thuật - Con Rồng trong các

Thần học Cổ truyền - Ánh sáng và Bóng tối thường trụ, tức Thiện và Ác - Cây Minh Triết Thiện và Ác mọc từ Rễ cây Trường sinh - Các Con Rồng bay.

CÁC “CON CỦA THƯỢNG ĐẾ” VÀ “ĐẢO THIÊNG” …... 411

Một vài thành phố được xây bên trên các Đô thị và Mê lộ cổ dưới đất - Hai Lục địa đã thất tung - Một vài Đảo là di tích của các Xứ sở bao la trước kia - Các di tích của đảo

Easter về các Con người Khổng lồ bản sơ - “Các Con của

Thượng Đế” và các Thầy phù thủy uy dũng - Nghệ thuật và Văn hóa của dân Ấn Độ và dân Babylon.

ĐOẠN KINH 10 - LỊCH SỬ CỦA GIỐNG DÂN THỨ TƯ.. 425

Nghiệp quả của các Đứa Con Minh Triết đã trì hoãn sự lâm phàm của Mình cho tới Giống dân thứ Tư - Chân ý nghĩa của giáo lý dạy về các “Thiên Thần Sa Đọa” - Mọi

Điểm đạo đồ đều phải chế ngự được U Minh giới tức Địa ngục - “Chư Thiên” chuyển sang lâm phàm - Quan điểm

Nội môn Chân chính về Quỷ Vương - Minh Triết Ai Cập dạy về Ánh sáng Sinh hóa của Thượng Đế - Bí nhiệm về

Trọng lượng, Kích thước và Số mục - Thượng Đế của người Do Thái và “Thiên Thần Vật Chất” - Tài liệu Thánh kinh và các Tài liệu khác bàn về Lịch sử Vũ Trụ của Địa

Cầu - Các Hậu quả Vũ Trụ của tính Ích kỷ và Ngã chấp -

Muốn Đào luyện Thế giới Hữu cơ cần phải có các Đấng

Thông Tuệ - Một “Mặt Trời Trung Ương” và Ba Mặt Trời thứ yếu trong mỗi Thái Dương Hệ - Các “Kẻ Nổi Loạn” đã không tạo ra những Con người Vô tội - Lucifer báo trước

Ánh Sáng - Quỷ Vương bị Đọa đày - Con người biến

Mục lục

11 thành Đấng Sáng Tạo ra chính mình và là một Thần Linh

Bất Tử - Sự hy sinh của các Hỏa Thiên Thần có bản chất là

“Minh Triết” và “Bác Ái” - Ý nghĩa Siêu hình của “Lửa

Ma Sát” - Chơn Nhơn chính là Bản Thể của các Đấng

Thông Tuệ Cao Cả - Mô tả các Thiên Tôn - Màu da của các

Căn chủng - Hoàn cảnh vật chất của Con Người và Thiên

Nhiên vào thời Giống dân Lemuria-Atlantis.

GIÁO LÝ CỔ SƠ TRONG KINH PURÃNAS VÀ SÁNG THẾ

KÝ. SỰ TIẾN HÓA VẬT CHẤT..…. 472

Kinh Purãnas bàn về Lịch sử Tự Nhiên - Khoa học bàn về

“Lớp Vỏ” của Con người - Cuộc Tiến Hóa Vũ Trụ được lập lại trong Thời kỳ Thai nghén (Gestation) - Khi Loài bò sát đạt tới Cao tột Phát triển - Cũng như tất cả các Động vật khác, Con người bắt nguồn từ một Tế bào và chuyển sang Loài người - Luật cố hữu Phát triển tiệm tiến - Con khỉ giống người là một sự Sáng tạo Ngẫu nhiên - Ẩn dụ về

Lilith.

TOÀN CẢNH CÁC GIỐNG DÂN SƠ KHAI.…… 493

Biểu tượng ký về Uranus và Kronos - Người Nữ đầu tiên

- Các Giống dân trong Thần thoại Hy Lạp.

ĐOẠN KINH 10 - Tiếp theo...….. 509

Tôn giáo của các Giống dân thứ Ba và thứ Tư - Thời đại

Hoàng Kim - Nguồn gốc Bí nhiệm của mọi Tôn giáo sau này - Các Thiên Thần Sa Đọa chính là Nhân Loại - Con người Thiêng Liêng ngự nơi Người thú - Cuộc Chiến tranh đầu tiên mà toàn Thế giới đều biết.

CÁC NGƯỜI KHỔNG LỒ CÓ PHẢI LÀ ĐIỀU BỊA ĐẶT

KHÔNG?..… 519

Các khoa Địa chất, Tinh đẩu và Thánh kinh có thể cung ứng các Bằng chứng cần thiết - Bằng chứng về các Tác giả

Ngẫu tượng giáo Thời xưa - Vào thời Giống dân thứ Tư,

Con người quay về tục Sùng bái cơ thể, Sùng bái sinh thực khí - Các người Khổng lồ thuộc Giống dân thứ Tư - Các

Bí nhiệm về Thiên Địa được thiên khải cho Giống dân thứ

Giáo lý bí nhiệm

12

Ba - Bốn Đấng Thiên Tôn Thiêng Liêng - Các Con của

Thượng Đế cưới các Con gái của Nhân Loại - Các Thánh

Hiền, các Prajãpati, các vị Bàn Cổ, quý Phu nhân và những

Hậu duệ là Mầm mống của Loài người - Sự cấu hợp giữa

Người và Thú - Các Con vật biết nói - Người câm đi bằng

Bốn chân.

CÁC GIỐNG NGƯỜI CÓ “CON MẮT THỨ BA”. 541

Con người Thiêng Liêng là Kiểu Mẫu mới vào lúc Bắt đầu mọi cuộc Tuần Hoàn - Cái Bè chỉ có nghĩa là Con người -

Kỳ gian của một Ngày ở Cực - Những người Khổng lồ độc nhãn, các Thế nhân Ba mắt - Sự giáng hạ Tiến hóa

Tinh thần và Tâm linh diễn tiến song song với cuộc Tiến hóa Vật chất - Các tạo vật Con người Bốn chân có một

Đầu song lại có ba Con mắt thời sơ khai - Mắt thứ ba thụt vào bên trong - Sinh lý học Huyền linh - Ý nghĩa của Tùng quả tuyến - Vào giai đoạn này, Tùng quả tuyến đã bị mất công dụng Vật chất - Sự Tiến hóa của Mắt - Sự Phát triển

Trọn vẹn của Thể Trí trong cuộc Tuần Hoàn thứ Năm -

“Mắt thứ Ba” nay là một Tuyến - Mắt thứ Ba và Quan hệ của nó với Nghiệp Quả - Số Chơn Thần bị giới hạn -

Nghiệp quả là một Định luật Tuyệt đối và Vĩnh cửu trong

Thế giới Biểu lộ.

CÁC VỊ BÀN CỔ BẢN SƠ CỦA NHÂN LOẠI.… 574

Bảy và Mười bốn vị Bàn Cổ - Danh xưng của Mười bốn vị

Bàn Cổ - Vị Bàn Cổ Sơ khai sinh ra mọi vị Bàn Cổ khác -

Svãyambhuva, Đơn Nguyên Vũ Trụ, biến thành một

Trung Tâm Lực từ trong đó xuất lộ ra một Dãy Hành Tinh

- Ẩn dụ về trận Đại Hồng Thủy thời Bàn Cổ Vaivasvata -

Ý nghĩa Nội môn của Con Cá - Sự khởi đầu của Lục địa thứ Tư - Ý nghĩa của các lớp “Xiêm y” trong kinh Zohar.

ĐOẠN KINH 11 - NỀN VĂN MINH VÀ SỰ DIỆT VONG

CỦA CÁC GIỐNG DÂN THỨ TƯ VÀ THỨ BA... 591

Các Triều đại Thiêng liêng có trước các Quốc vương của

Nhân loại - Các Đô thị bằng Đá và các Dinh thự Khổng lồ

Mục lục

13 đầu tiên của dân Lemuria - Các Triều đại Thiêng liêng phát khởi các nền Văn minh đầu tiên, trau dồi Nghệ thuật và Khoa học - Sự suy đồi của Nhân loại - Ý nghĩa của Bảy

Châu, Bảy Dãy Hành Tinh và cái gọi là Bảy Lục Địa -

Nhân loại chúng ta bắt đầu sinh hoạt trên Địa Cầu với vị

Bàn Cổ Vaivasvata - Xét về mặt Nội môn, Krishna,

Nãrada và Garuda là Biểu tượng của các Chu kỳ và là

Chìa khóa để giải các Ẩn dụ - Những Kẻ tiên phong của

Giống dân thứ Tư chính là người Lemuria - Cấu tạo của

Lục địa của Giống dân thứ Ba - Các Lục địa cũ sẽ tái xuất hiện - Biên giới của Ấn Độ vào thời Tiền sử - Đảo Easter thuộc về nền Văn minh xưa nhất của Giống dân thứ Ba -

Các sự biến đổi Khí hậu - Bốn sự Đổi trục đã làm thay đổi hoàn toàn Bộ Mặt của Trái Đất - Các Chu kỳ bên trong các

Chu kỳ - Sau khi Châu Lemuria bị hủy diệt, vóc dáng của

Con người đã nhỏ dần lại - Trận Lụt ở Châu Atlantis cách đây 850 000 năm - Các di tích của một Lục địa Atlantis -

Các Niên Sử Bí nhiệm còn ghi lại đầy đủ sự Phát triển của các Giống dân - Chỉ có Ký âm pháp Tôn giáo Huyền bí mới biết được Ý nghĩa của các Cổ danh - Các chứng cớ hiện hữu về các Lục địa bị chìm - Các tượng khổng lồ

Bamian - Năm pho tượng là một tài liệu lưu trữ Nội môn về sự Tiến hóa dần dần của các Giống dân.

CÁC TÀN TÍCH CỦA GIỐNG NGƯỜI KHỔNG LỒ MỘT

MẮT VÀ CÁC TẢNG ĐÁ KHỔNG LỒ VỚI TƯ CÁCH LÀ

CHỨNG CỚ VỀ NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ.… 635

Các Tảng đá linh hoạt - Các Di tích của người Druid - Các

Tảng đá lắc lư ở Âu Châu - Các Tảng đá sống động, Biết nói và Cử động - Các “Tổ Tiên” của chúng ta biến thành

Thần Linh trước khi biến thành Người - Mọi Lục địa đều bị Diệt vong - Các người khổng lồ bị diệt vong, chỉ có một

ít là được cứu sống.

ĐOẠN KINH 12 - GIỐNG DÂN THỨ NĂM VÀ CÁC BẬC

THÁNH SƯ... 654

Giáo lý bí nhiệm

14

Đại Long và các Rắn Minh Triết - Các Kim Tự Tháp nhắc nhở chúng ta nhớ tới trận Đại Hồng Thủy ở Châu Atlantis

- Các Địa cực đã bị đảo ngược ba lần.

RẮN VÀ RỒNG TRONG NHIỀU BIỂU TƯỢNG KÝ KHÁC

NHAU..…….. 660

Danh xưng của Con Rồng ở Chaldea và Cung Hoàng Đạo thứ Mười - Rắn tiêu biểu cho Đấng Điểm Đạo - Chư Thần

Linh mà loài người gọi là các Con Rồng - Con Rồng của

Thánh John là Hải Vương Tinh. Biểu tượng của Pháp thuật Atlantis.

CÁC HÌNH TƯỢNG VŨ TRỤ VÀ TINH ĐẨU.…. 663

Các Cao đồ gọi Ngân Hà v.v.. là các “Con Rắn” - Các

Thánh kinh Bái hỏa giáo có nguồn gốc rất xa xưa - Người

Ai Cập đã tượng trưng Càn Khôn như thế nào? - Hai Cực

Huyền bí - Mỗi bậc Đại Cải Cách Thế Giới là một Phân thân trực tiếp của Thiên Đạo - Thượng Đế và Thế giới được nhân hình hóa - Hai Đấng Kabiri là hiện thân của

Đối Cực - Từ nguyên thực sự của danh xưng Lares -

Enoch và những Người khác là ai? - Kabiri là các Đại

Thần Linh Vũ Trụ, Bảy và Bốn mươi chín Linh Hỏa - Các cực và số Thiên giới - Sự phát sinh của các Chữ, Luật Lệ,

Thuật lập pháp, Thuật Kiến trúc, các Phương thức pháp thuật và Công dụng của Y học của Cây cỏ - Sự sản xuất

Ngũ Cốc hay Lúa mì - Rắn là Biểu tượng của bậc Cao đồ.

CÁC ĐẤNG GIÁO HÓA THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA. 680

Các Giống dân chúng ta đã bắt nguồn từ các Giống dân

Thiêng Liêng - Năm kỳ Tái lâm của Hermes - Các Bảng đồng bộ của Ai Cập - Hoàng Đạo Dendera - Bhãrata là

Vùng đất được tuyển chọn Thời xưa - Plato đề cập tới các

Triều đại Thiêng liêng - Ý niệm về điều Ác của Plato - Các

Đấng minh triết đã mang Trái cây và Cốc loại tới Địa Cầu

- Các “Con của Thượng Đế” đã Tồn tại và vẫn đang Tồn tại

- Các “Con của Thượng Đế” sống trà trộn với Thế nhân -

Mục lục

15

Bí nhiệm về Azazel (Thần Khải Hoàn) - Thực ra Quỷ

Vương là Chơn Linh Cao Cả nhất, Minh Triết Huyền Bí trên Trần Thế - Xét về mặt ngoại môn; Quỷ Vương bị xem như là điều Ác.

NGUỒN GỐC CỦA THẦN THOẠI QUỶ VƯƠNG ………. 706

Ai Cập cung cấp Nguồn gốc Tây phương của mình -

Chúng ta phải tìm Nguồn gốc Thế tục Ẩn dụ về trận chiến trên Trời nơi các Thánh điện Điểm đạo - Các Đạo Trưởng

Ai Cập tự xưng là các “Con của Thần Rắn”- Người Druids tự xưng là Rắn - Các thần thoại Rắn và Rồng khác - Hỏa

Thần Agni và các Ẩn dụ Ma Quỷ - Apollo là Nhật Thần -

Cuộc đấu tranh giữa các Cao đồ Ãryan của Giống dân thứ

Năm mới ra đời và các nhà Phù thủy của Châu Atlantis -

Những con Quỷ của Thái Uyên - Các Quyền Năng biểu lộ,

“các Đứa Con và Đàn Thê tử” - Nhật Thần tức là các

Quyền năng Sáng tạo - Minh Triết, Sophia thiêng liêng -

Jehovah là “Địch thủ”của mọi Thần linh khác - Jehovah biến thành Nhân loại - Sự cần thiết của Điều Ác - Các giáo phái Ngộ Đạo do các Điểm Đạo đồ lập nên.

NOAH LÀ MỘT KABIR, VÌ THẾ, Y ẮT PHẢI LÀ MỘT CON

QUỶ..… 728

Tubal Cain là một Kabir - Noah đồng nhất với

Melchisedek-Adam, Cain, Mars với tư cách là một điều

Nhân cách hóa - Cuộc Đại Hồng Thủy thời Noah chưa bao giờ xảy ra.

CÁC TRUYỀN THUYẾT XƯA NHẤT CỦA BA TƯ VỀ CÁC

LỤC ĐỊA Ở CỰC VÀ CÁC LỤC ĐỊA BỊ CHÌM ……… 734

Các huyền thoại của Ba Tư (Irãn) - Thời hạn mà dân

Atlantis sau này bị diệt vong - Niên đại ký Nội môn của

Plato và các Điểm đạo đồ khác - Các Truyền thuyết của Ba

Tư về Hai Giống dân - Con Phượng Hoàng Ba Tư - Núi

Kaf là gì? - Các Lục địa ở Bắc Cực - Huyền bí học chứng tỏ rằng Bắc Á Châu có nguồn gốc cũng xa xưa như Giống dân thứ Hai - Khi Lục địa Bắc Cực biến mất.

Giáo lý bí nhiệm

16

CÁC SUY LÝ CỦA TÂY PHƯƠNG DỰA VÀO CÁC

TRUYỀN THUYẾT CỦA NGƯỜI HY LẠP VÀ KINH

PURÃNAS..… 750

Người Ấn Độ chia Địa Cầu ra thành Bảy Vùng v.v.., xét về mặt Địa lý; Bảy Địa Ngục và Bảy Tầng Trời, xét về mặt Ẩn dụ - Căn cứ của Chư Thần và Chư Quỷ - Bốn Lục địa này đã Hết thời rồi - Các Lục Địa Tương lai được trình bày

Biểu tượng - Vĩ độ và Kinh độ của Hòn Đảo đã Thất tung

- Châu Atlantis của Plato - Núi Hermon và các Con Rồng có cánh.

SỰ “ĐỌA ĐÀY” THEO QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC ………. 763

Các Quyền Năng sáng tạo là một Năng khiếu thiên phú của Minh Triết Thiêng Liêng - Trong Sáng Thế Ký Adam và Eva ám chỉ Giống dân thứ Ba và thứ Tư - Sự sa đọa thực sự - Nhật Tinh Quân và các Đấng Cứu Thế Thiêng

Liêng khác - Tội lỗi Nguyên Thủy và sự lạm dụng Trí Tuệ

Hồng Trần - Bí nhiệm về Prometheus - Đấng Christ có liên hệ với Epaphos - Một Giống dân của Phật và Chúa -

Biểu tượng ký Giống dân không gợi ra sự chính xác về mặt Địa hình - Nguồn gốc của Dân tộc tiên phong

Ethiopia - Aeschylus có được Điểm đạo không? -

Dionysus đã và sẽ là ai? - Thiên tài của Prometheus - Con người sẽ biến thành Người Khổng lồ Tự do.

CÁC ĐOẠN BỔ SUNG TRÍCH TỪ MỘT GIẢNG LÝ VỀ

CÁC CÂU THƠ CỦA ĐOẠN KINH 12.. 788

Các “Đức Phật Xưng tội” - Hoài niệm tập thể không bao giờ bỏ Linh Hồn Thiêng Liêng - Các Tài liệu lưu trữ Xưa nhất về Châu Atlantis - Nơi cung cấp Minh triết nhiệm mầu cho những người Ãryan Sơ khai - Sự Diệt vong của

Châu Atlantis - Sự Vĩ đại của nền văn minh Atlantis -

Thiên văn học và Biểu tượng Gia truyền của Atlantis -

Thời kỳ xuất hiện của Đại Kim Tự Tháp - Ba thứ Hoàng

Đạo - Các Phân chủng của các Căn chủng - Cây phổ hệ của Giống dân chúng ta - Chu kỳ Mạt Pháp - Hoàng Đạo

Mục lục

17

Ai Cập và Hoàng Đạo Hy Lạp.

KẾT LUẬN... 813

Lịch sử “Ghi nơi các Ngôi Sao” - Senzar là thứ Mật mã

Tượng hình sơ khai - Khi Viết là một Nghệ thuật Bí mật -

Thiên nhiên diễn tiến theo Chu kỳ - Giống dân Mới sắp tới

- Giống dân thứ Năm chồng chéo lên Giống dân thứ Sáu -

Nhân loại tương lai của Tân Thế giới - Tiến trình Tự nhiên chịu ảnh hưởng của Luật Nghiệp Quả.

CÁC CHÚ THÍCH BỔ SUNG.. 832

Chú thích: Trong Quyển II, ấn bản 1893, không có chú thích cuối trang nào được chuyển sang bản văn. Quyển II (của cả ấn bản 1893) là Quyển 3 và 4 của ấn bản này. Ban biên tập.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "H. P. Blavatsky":Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3Tiếng Nói Vô ThinhChìa Khóa Minh Triết Thiêng LiêngThiên Nhiên Huyền BíBí Quyết Thông Thiên Học

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3 PDF của tác giả H. P. Blavatsky nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam
Sự dị biệt giữa các nền văn học có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng kể nhất sự dị-biệt về ngôn ngữ từ khi loài người xây dựng Tháp Babel trong tội-lỗi (Sáng thế, XI, 7). Nhờ mầu-nhiệm Cứu thế, sự thống nhất ngôn ngữ nguyên thủy bắt đầu phục hồi khi Chúa Thánh- Thần Hiện Xuống (Công vụ Tông-đồ, II, 4-6) nhưng chỉ thể hiện toàn vẹn khi mạt thế trong cảnh toàn thể loài người đồng thanh ngợi-khen Thiên-Chúa (Khải-huyền- thư, VII, 9). Giáo-hội Công-giáo là bi-tích, là dấu-hiệu khả-kiến của sự phục-hồi thống-nhất nguyên thủy đang thành hình. Đó là một sự thống-nhất trong dị-biệt, thống nhất trong Tình Yêu Thiên Chúa, dị-biệt trong thề-cách diễn đạt với đặc điểm của từng dân-tộc, trong « y-phục rực-rỡ muôn màu » như lời Thành-Vịnh nói về Giáo hội (Thánh Vịnh 104).Bộ sách này có kỳ-vọng trình bày những màu sắc Việt-Nam của y-phục rực-rỡ ấy. Tôi muốn dùng hình ảnh này để nói đến văn học Công giáo Việt-Nam, một nền văn học dung hợp dân tộc tinh và công-giáo-tính, một thành phần bất-khả-phân của toàn thể văn học quốc-gia.
Chuyển họa thành phúc
Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được  lưu hành   rộng rãi  nhất. Nội dung tuy không có gì quá  sâu xa  khó hiểu, nhưng  quả thật  là những điều  nhận thức   vô cùng   thiết thực  và  lợi lạc  trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả  cuộc đời ,  hay nói  theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được lưu hành rộng rãi nhất. Nội dung tuy không có gì quá sâu xa khó hiểu, nhưng quả thật là những điều nhận thức vô cùng thiết thực và lợi lạc trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả cuộc đời, hay nói theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của  tiên sinh   Viên Liễu Phàm , do ông viết ra để kể lại  câu chuyện  của chính  cuộc đời  mình cho con cháu,  đồng thời  cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý  nhân quả , khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và  nỗ lực  làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại  cuộc đời  nhiều  sóng gió  của mình cùng cuộc hội ngộ  ly kỳ  với một nhân vật mà ông  tin chắc  là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được  nội tâm  của chính mình để  nhận ra  và  phân biệt  được những điều  thiện ác  thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ  quyết tâm  “tránh ác làm thiện”, và  cuối cùng  đạt kết quả là  chấm dứt  được những chuỗi ngày  tai họa   liên tục  giáng xuống  gia đình  ông, để có thể sống một cách an vui  hạnh phúc   cho đến   tuổi già . Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được  Đại sư   Ấn Quang  chọn khắc in vào phần  phụ lục  của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng  nghĩa lý  bài văn Âm chất.  Đại sư   Ấn Quang  đã có nhiều hàm ý rất  sâu xa  khi chọn  lưu hành  hai bản văn khuyến thiện này, và  hiệu quả   lợi lạc  của việc này đối với người đọc đã được  chứng minh  một cách  rõ ràng  qua  thời gian . Về bản văn thứ nhất,  tiên sinh   Viên Liễu Phàm  không viết ra như một  nghiên cứu  triết lý, mà như một sự chia sẻ  kinh nghiệm   thực tiễn , bởi chính ông là người đã vận dụng  thành công  những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự  chuyển đổi  được số mạng, thay đổi  cuộc đời  từ những điều  bất hạnh  sang thành an vui  hạnh phúc . Có thể nói, bằng vào những  nỗ lực  cứu người giúp đời không  mệt mỏi   liên tục  nhiều năm, ông đã  thành công  trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không  cầu xin  bất kỳ một  sức mạnh   siêu nhiên  nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong  chúng ta  cũng đều có thể làm được nếu có đủ  quyết tâm , không loại trừ bất cứ ai.  Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của tiên sinh Viên Liễu Phàm, do ông viết ra để kể lại câu chuyện của chính cuộc đời mình cho con cháu, đồng thời cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý nhân quả, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và nỗ lực làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại cuộc đời nhiều sóng gió của mình cùng cuộc hội ngộ ly kỳ với một nhân vật mà ông tin chắc là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được nội tâm của chính mình để nhận ra và phân biệt được những điều thiện ác thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ quyết tâm “tránh ác làm thiện”, và cuối cùng đạt kết quả là chấm dứt được những chuỗi ngày tai họa liên tục giáng xuống gia đình ông, để có thể sống một cách an vui hạnh phúc cho đến tuổi già. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc.Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được Đại sư Ấn Quang chọn khắc in vào phần phụ lục của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng nghĩa lý bài văn Âm chất. Đại sư Ấn Quang đã có nhiều hàm ý rất sâu xa khi chọn lưu hành hai bản văn khuyến thiện này, và hiệu quả lợi lạc của việc này đối với người đọc đã được chứng minh một cách rõ ràng qua thời gian.Về bản văn thứ nhất, tiên sinh Viên Liễu Phàm không viết ra như một nghiên cứu triết lý, mà như một sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bởi chính ông là người đã vận dụng thành công những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự chuyển đổi được số mạng, thay đổi cuộc đời từ những điều bất hạnh sang thành an vui hạnh phúc. Có thể nói, bằng vào những nỗ lực cứu người giúp đời không mệt mỏi liên tục nhiều năm, ông đã thành công trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không cầu xin bất kỳ một sức mạnh siêu nhiên nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong chúng ta cũng đều có thể làm được nếu có đủ quyết tâm, không loại trừ bất cứ ai. 
Lịch sử giáo hội Công giáo
Hầu hết những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên. Khi Phúc Âm được loan truyền cho đến tận cùng trái đất bởi những nhà thừa sai Công Giáo vào nửa đầu thế kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm (1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphalia (1648), nó đã đem lại cho người Công Giáo, Luther và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một Giáo hội Kitô giáo riêng và tín đồ của các giáo phái khác sống tại lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, trong mỗi vùng của Giáo Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu, cũng như để lan tràn đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt qua được những thử thách lớn lao và tồn tại với một sinh lực được đổi mới.
Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ
Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng. Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng. Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao. Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.