Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Nguyền Hai Trăm Năm - Khôi Vũ

Sức hấp dẫn của Lời Nguyền Hai Trăm Năm trước hết là ở cốt truyện. Có hai câu truyện được kể cùng một lúc. Đó là kiểu cấu trúc khá mới lạ vào thời điểm cuốn tiểu thuyết xuất hiện. Trước đây nhiều nhà văn dùng kỹ thuật kể truyện trong kể truyện để tạo môt cấu trúc kép. Khôi Vũ có cách cấu trúc song song. Anh kể  hai câu truyện, xen kẽ nhau, lấy mốc thời gian từng năm để định chương : Câu truyện năm đời của dòng họ Lê, từ 1802 đến 1988, và câu truyện Hai Thìn trở về làng biển Cát  từ 1977 đến 1988. Người đọc bị hấp dẫn bởi hai câu truyện, nhưng đồng thời cũng cảm thấy thật thú vị khi nhận ra Khôi Vũ đã khéo léo cài đặt, ráp nối hai tuyến nhân vật và sự kiện trong những không gian và thời gian khác nhau, để đi tới một kết thúc toàn vẹn, giải quyết mọi vấn đề của cả quá khứ và hiện tại   Vấn đề của quá khứ là lời nguyền của họ Vũ. Bốn đời họ Lê đã phải làm ác mới có con trai nối dòng, kể cả Thích Huệ Mẫn, dù hối hận về hành động tội ác của mình, dù đã tu hành, vẫn muốn con mình là Hai Thìn phạm tội. Đến đời thứ năm, Hai Thìn không tin sự ứng nghiệm của lời nguyền, anh nhất quyết từ chối làm xấu, làm ác. A chọn cuộc sống tự do tuyệt đối, sống với lương tâm của mình, cương quyết không làm gì trái với lương tâm. Anh đã thắng được lời nguyền. Anh chết trong lòng yêu thương của nhân dân, để lại một đưá con trai.   Điều thú vị của cốt truyện nằm trong tư tưởng  của tác phẩm này. Nhìn kỹ vào tội ác 4 đời họ Lê đã làm, đó là những tội ác gì ? hầu hết là tội  phản bội, từ đó gây ra cái chết bi thương cho đồng đội, cho nhân dân. Ông tổ thứ Nhất làm phản triều Nguyễn, Ông tổ thứ Hai là Gia Trí đã phản bội Trương Định. Ông tổ thứ ba là Châu Toàn đã phản bội Tòng Mật (bà cả Mọi). Tổ thứ tư là Phú Quý (Hai xung phong) đã phản bội đảng mình, làm hại đồng chí.  Hai Thìn là đời thứ năm cũng bị quyến rũ phản bội lại nhân dân trong việc đòi lại đình thờ tổ.   Đọc Lời Nguyền Hai Trăm Năm, người đọc nhận ra bản chất của hiện thực, của cõi người này, từ xưa đến nay là sự phản bội. Người ta vì quyền lợi cuả cá nhân mình mà sẵn sàng phản bội, sẵn sàng bán đứng tất cả, sẵn sàng gây ra tội ác cho đồng đội, đồng chí, đồng bào mình. Khôi Vũ đã phản đối mạnh mẽ cái tưởng như định mệnh không thay đổi ấy  bằng hành động đấu tranh tích cực của Hai Thìn. Giá trị thực của đời người là nghiã tình với cộng đồng, với người dân làng xã, là cống hiến công sức cho sự sống chung. Sự tồn tại đích thực của một con người phải là sự tồn tại tự do, thẳng thắn, bao dung. Nhờ thế anh được biển tặng cho anh tất cả những gì anh đã bị tước đoạt mất, cả ước mơ cháy bỏng là có được đưá con trai nối dòng. Nhưng hạnh phúc lớn nhất mà anh có được là những gì anh đã cống hiến cho dân làng. Anh ra đi thanh thản trong sự yêu thương cuả mọi người. *** Hai Thìn trở về làng biển Cát. Điều ấy ai cũng nghĩ sẽ phải xảy ra. Vậy mà khi nó xảy ra thì mọi người lại hoài nghi chưa ai tin ngay đó là sự thật. Tận đến lúc Hai Thìn tuyên bố: - Tôi trở lại sống chết với bà con sống chết với Biển cả. Người ta mới vui mừng truyền tai nhau cái tin vua biển lại về với biển. Trông Hai Thìn không khác xưa là bao. Vẫn vóc người cao lớn nước da người miệt biển màu bánh mật vững chãi mà kiêu bạc. Cái áo montagut anh mặc hôm đó màu mỡ gà vẻ phong trần rất hợp với hoàn cảnh của anh một người phiêu bạt trở về. Gió biển ào vào từ ngoài khơi hỏi anh: - Vua biển có khoẻ không? Anh trả lời theo cách của mình: - Vẫn chưa ai vật ta chết nổi! Gió biển quấn quít: - Ở lại đây đừng đi đâu nữa nghe chưa? Anh gật đầu: - Phải! Ta ở lại đây chẳng đi đâu nữa. Rồi ta sẽ thu xếp đưa cả vợ con ta về đây ở! Gió biển dâng anh vị mặn của muối: - Hãy nếm đi vua biển! Cho da thịt hồng hào săn chắc lại! Anh cảm ơn theo cách của mình: - Nói với Biển cả dùm ta: ta là một hạt muối của Biển cả! Khá lâu sau gió biển mới chịu từ giã anh. Nó đến chuyện trò với rừng phi lao rì rào rì rào... Những cây phi lao nghiêng người vào bờ nhìn cho rõ hơn vua biển sau một năm xa cách... Lũ trẻ con xúm quanh Hai Thìn đều là đệ tử của ông già Bảy nhao nhao hỏi: - Con gì vậy chú Hai? - Con chim đại bàng chú Hai bắt trong rừng phải hôn? - Hay là chú Hai mua của ông bán thuốc dạo? Bao nhiêu tiền vậy?     Hai Thìn quay cổ nhìn con ó lửa đậu trên vai mình. Con ó bấu những cái móng đã tầy của nó lên vai áo anh vì sợ gió biển thổi nó ngã nhào xuống cát. Nó hỏi anh: - Đây là đâu? Những người kia là ai? Anh đáp: - Đây là làng biển Cát quê hương ta. Còn những người kia người lớn là bạn bè ta trẻ nhỏ là cháu con ta. Ó lo ngại: - Tôi không quen với lũ gió có vị mặn. Hay là cho tôi trở lại với rừng đi? Anh an ủi nó: - Không sao đâu! Rồi mi sẽ quen với tất cả. Giống như mi đã quen ta vậy! Hai Thìn trả lời lũ trẻ nhỏ: - Đây là con ó lửa mà chú Hai bắt ở rừng kinh tế mới! Lũ trẻ lại nhao nhao lên tranh nhau hỏi: - Cái mỏ nó quắp xuống coi dữ quá. Nó có cắn mình không hả chú Hai? - Không! Nó hiền lắm. Chú Hai dạy nó rồi. - Nó ăn gì? - Ăn thịt ăn cá ... - Cá ở làng mình thiếu chi cho nó ăn mệt nghỉ phải hôn chú Hai? - Ừa! ... Mời các bạn đón đọc Lời Nguyền Hai Trăm Năm của tác giả Khôi Vũ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.
Người Thầy Thuốc - Noah Gordon
“Người thầy thuốc” (Noah Gordon) là câu chuyện về một cậu bé người Anh vượt qua địa giới châu Âu để đến Ba Tư với ước mơ trở thành thầy thuốc. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh London (Anh) thế kỷ 11. Lên chín tuổi, Rob Cole và đàn em thơ mất mẹ. Không lâu sau người cha qua đời. Phường hội thợ mộc chia lũ trẻ bơ vơ về các gia đình nuôi nấng. Rob được một phó cạo kiêm thầy lang hay say xỉn bảo hộ. Từ đó, với hành trang đặc biệt là năng khiếu dự cảm cái chết (với những nỗi kinh hãi, bi thương), Rob rong ruổi khắp nước Anh trên một chiếc xe ngựa… Định mệnh đã sắp đặt cho cậu gặp gỡ với một thầy thuốc, người khiến Rob muốn đến được Ba Tư, chạm vào gấu áo vị thầy thuốc nổi danh trong lịch sử y học - Abu Ali at-Husain ibn Abdullah ibn Sina. Trên con đường chông gai đó, dù có lúc phải từ bỏ tình yêu, đối mặt với cái chết, hay đội lốt một người khác, Rob Cole vẫn dần bước. Anh muốn trở thành thầy thuốc. Với “Người thầy thuốc,” Noah Gordon đã kể một câu chuyện ấn tượng về thời kỳ Trung cổ với những chất liệu sinh động liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, tôn giáo, y học… Những trang sách cũng là những câu chuyện đẹp về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và nghị lực vượt qua nghịch cảnh, theo đuổi ước mơ. “Người thầy thuốc” được bình chọn là một trong mười cuốn sách được yêu thích nhất mọi thời đại tại Madrid Book Fair năm 1999. Nhà văn Noah Gordon sinh năm 1926 tại Mỹ. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của ông là lịch sử y học và vấn đề y đức. Bên cạnh đó, lịch sử, văn hóa Do Thái cũng là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của ông. Noah Gordon từng được trao nhiều giải thưởng văn học của Tây Ban Nha, Italy và Mỹ... *** "Cuốn tiểu thuyết lôi cuốn của Gordon tái tạo thế kỷ 11 mạnh mẽ đến mức độc giả bị cuốn theo hàng trăm trang sách bởi đợt thủy triều của trí tưởng tượng và những chi tiết lịch sử xác thực." - Publishers Weekly. "Người thầy thuốc mang màu sắc The Pillars of the Earth của Ken Follett, nhưng với sự phát triển sâu hơn ở cả cốt truyện lẫn nhân vật... Quả là một cuốn sách mở mang đầu óc và khó quên." - Zoltaire's Blog. "Câu chuyện phiêu lưu tràn ngập cảm hứng về cuộc tìm kiếm tri thức y học diễn ra trong một thế giới đầy bạo lực, mê tín và thành kiến." - Library Journal. *** Noah Gordon sinh năm 1926 ở Worcester, Massachusetts, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và Anh ngữ ông theo nghề làm báo. Trong thời gian làm biên tập viên khoa học cho một tờ báo ở Boston ông đã có một số truyện ngắn ra mắt bạn đọc đăng trên các báo hàng đầu ở Mỹ. Ông đã nổi tiếng ngay với tiểu thuyết đầu tay The Rabbi (Giáo sĩ Do Thái). Các tác phẩm tiếp theo The Death Commitee, The Jerusalem Diamond, Shaman... cũng đều trở thành sách bán chạy. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của Gordon là lịch sử y học và y đức. Phần sau sự nghiệp, ông tập trung nhiều hơn vào chủ đề Tòa án dị giáo và lịch sử văn hóa Do Thái. Ông từng nhận các giải thưởng Que Leer Prize (Tây Ban Nha) và Boccaccio Literary Prize (Ý), James Fenimore Cooper Prize for Best Historical Fiction (Mỹ)...   Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Noah Gordon.
Người Đẹp Trong Khách Sạn - Hoàng Minh Tường
Người đẹp trong khách sạn là tiểu thuyết được xuất bản năm 1990  Có một lần, sau ba tháng làm việc ở Băng Cốc, nơi đặt trụ sở văn phòng UNESCO khu vực, Pôn Vericơn trở về căn phòng của mình ở khách sạn Hoa Sen. Người ta đã chuẩn bị cho anh một bữa ăn hết sức thịnh soạn với những món ăn mà anh ưa thích. Ngồi xuống bàn ăn mà mắt Pôn cứ nhìn đi đâu đó, tựa hồ như anh vừa bị mất một cái gì, thiếu vắng một cái gì. Và anh cứ ngồi hút hết điếu xì gà này tiếp điếu khác, chai rượu vang còn nguyên trước mặt, những món ăn nguội ngắt. *** Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần Hoàng Minh Tường từng trải qua các nghề dạy học, viết báo và viết văn. Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần vừa phát hành đã bị thu hồi. Tiểu thuyết Đồng chiêm, Nhà xuất bản Thanh niên (1979) Đầu sông, (1981) Những ngả đường, Nhà xuất bản Công an nhân dân (1986) Gặp lại dòng sông, Nhà xuất bản Lao động (1986) Những người ở khác cung đường, Nhà xuất bản Giao thông vận tải (1988) Con hoang (1989) Người đẹp trong khách sạn (1990) Giá như được yêu một người (1994) Thủy hỏa đạo tặc, Nhà xuất bản Văn học (1996) Đen và béo, Nhà xuất bản Kim Đồng (1997) Đồng sau bão, Nhà xuất bản Văn học (2000) Ngư phủ, Nhà xuất bản Công an nhân dân (2005) Thời của thánh thần. Nhà xuất bản Hội nhà văn (2008) Gia phả của đất. Nhà xuất bản Phụ Nữ (2013) Nguyên khí. Nhà xuất bản Dân Khí,NgườiViêtshop,(2014) Le temps des Genies Invincibles - Nhà xuất bản La Fremillerie - Paris,(2014) Thi sĩ sang sông - Bản dịch tiếng Hàn Quốc - Nhà xuất bản B books - Seul,(2015) Thời của Thánh Thân Bản dịch tiếng Nhật - Nhà xuất bản Đại học Ngoại ngữ Tokyo - Tokyo,(3/2016) Những mảnh Rồng Nhà xuất bản Vipen,Berlin,Đức (2018) Truyện ngắn Cưới lại, Nhà xuất bản Hà Nội (1992) Gã viết thuê, Nhà xuất bản Hội nhà văn (1999) Những mảnh đời khác nhau, Hoàng Minh Tường, Phạm Ngọc Chiểu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới (1986) Những chuyện tình xưa cũ,Nhà xuất bản Hoi nha van, (2000) Nàng Êva mù, Nhà xuất bản Lao động (2005) Cá hóa Rồng, (2006) Khoảng xanh non, (2007) Ngôi nhà ma,(2013) Bút ký, phóng sự Đa thê: Nhà xuất bản Lao động (1995) Nghìn lẻ một nàng dâu (2002) Thôn quê liệt truyện (2006) Chuyện một người thầy (2007) Bình minh đến sớm, Nhà xuất bản Kim Đồng (1986, 1990), Nhà xuất bản Trẻ (2000) Bạn văn ngoài vùng phủ sóng, Nhà xuất bản Hội nhà văn (2011) Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Trong Khách Sạn của tác giả Hoàng Minh Tường.