Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne

Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Linh Hồn Xám - Philippe Claudel
Trong một thành phố nhỏ ở hậu phương, đàn ông con trai không phải ra chiến trường vì một nhà máy ở đây đang cần họ. Trong khi cách đó không xa, biết bao sinh linh đang chịu cảnh thịt nát xương tan thì một vài án mạng có nghĩa lý gì? Thế nhưng, có một cái chết che lấp cả hàng ngàn cái chết, có một cái chết xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, cái chết của Hoa bìm bìm, một bé gái mười tuổi. Khi xác con gái của chủ quán Bourrache được tìm thấy bên một bờ kênh thì cả thành phố bàng hoàng, dò xét nhau, thậm chí nghi ngờ nhau. Ai đã giết chết bé gái này? Thủ phạm đáng ngờ nhất là Pierre-Ange Destinat, một quan chức làm nghề kết án tử hình, một ông kiểm sát trưởng. Nhưng thằng nhóc người Bretagne, một kẻ đào ngũ, sau một đêm bị hành hạ dã man, đã thú nhận mình là thủ phạm. Viên cảnh sát chịu trách nhiệm điều tra về vụ án lại là một kẻ đang chán sống, đã thấy quá nhiều điều ghê tởm, phải đối mặt với cái chết thê thảm của người vợ yêu... Có thể nói màu xám bao trùm lên toàn bộ tác phẩm này: không khí tỉnh lẻ ảm đạm, yên tĩnh và đầy bí ẩn, cô đơn và lo lắng, tòa Lâu đài tường gạch và ngói đá đen, khu nhà máy rộng lớn với những ống khói chọc trời, đời sống nội tâm của người kể chuyện, sự bí ẩn trong con người ông kiểm sát trưởng. Chính một nhân vật trong tiểu thuyết này đã thốt lên: “Những thằng đểu cáng, những bậc thánh nhân, em đã thấy bao giờ đâu? Chẳng có gì thật là đen, cũng chẳng có gì thật là trắng. Chỉ có màu xám là vượt trội. Con người và linh hồn của họ cũng vậy... Anh là một linh hồn xám, xám một cách dễ thương, như tất thảy chúng ta...” Cuốn tiểu thuyết của tác giả Philippe Claudel đã đoạt giải Renaudot 2003- một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất của Pháp, được tạp chí Lire uy tín bầu chọn là quyển sách hay nhất năm 2003. Cuốn sách cũng được dịch ra 25 thứ tiếng và đã được dựng thành phim. *** Trước mắt quý bạn đọc là ngót 300 trang cuốn tiểu thuyết Những linh hồn xám (Les Âmes grises) của Philippe Claudel, tác giả mà người Việt Nam đã biết qua các tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt như Cháu gái ông Linh (La Petite fille de Monsieur Linh) , Thế giới không trẻ con (Le Monde sans les enfants) . Ông cho in tác phẩm đầu tay, Meuse l'oubli , năm 37 tuổi (1999). Hai năm liên tiếp sau đó, người đọc đón nhận ba cuốn khác của ông: Quelques-uns des cent regrets, J'abandonne, Au revoir Monsieur Friant . Nhưng phải đến Les Âmes grises , tác phẩm thứ năm, tài năng của tác giả trẻ này mới thật sự được khẳng định. Năm 2003, Những linh hồn xám được trao giải Renaudot (cùng với Goncourt, Renaudot là giải văn chương có uy tín ở Pháp). Theo tổng kết của các báo Le Nouvel Observateur, Le Point, L'Express , đây là một trong những tác phẩm được người đọc tìm mua nhiều nhất và được bình chọn là một trong những cuốn sách hay nhất năm 2003. Sự thành công của tiểu thuyết này càng được khẳng định vào năm 2005, khi nó được chuyển thành bộ phim cùng tên do Yves Angelo đạo diễn. Cùng năm ấy, hàng loạt các bài của các nhà phê bình quen thuộc viết về Những linh hồn xám được đăng trên những tờ báo lớn ở Pháp. Béranghère Adda viết trên Le Parisien (04/11/2003), Alain Salles trên Le Monde (05/11/2003), Annie Coppermann trên Les Echos (29/9/2003), Philippe Lancon trên Libération (11/9/2003). Như một việc làm phá cách, Le Figaro đăng tải đến 2 bài của Eric Ollivier (04/9/2003) và Francois Nourisser (20/9/2003). Cũng thế, trên tờ Le Point sau bài của Sebastien Fumaroli (28/8/2003) là bài viết nồng nhiệt của Marie-Francoise Leclère (20/11/2003)... Bốn năm lao động sáng tạo say mê của Phililppe Claudel để hoàn thành tác phẩm Những linh hồn xám hoàn toàn xứng đáng được nhận những lời khen tặng, đánh giá cao của giới phê bình cũng như công chúng chọn lọc của nước Pháp. Nhà văn viết về một thời đoạn ngắn trong Thế chiến lần thứ Nhất (1914-1918), một cuộc chiến tranh vô nghĩa lý, nhưng ông không dựng lại những cảnh chạm súng trực tiếp, bom rơi đạn nổ cụ thể. Chiến tranh thường trực có mặt trong toàn bộ tác phẩm, nhưng qua tiếng gầm gừ gào thét của đạn bom từ một không gian nào đó, có lúc xa nhưng cũng không ít lúc gần, chỉ cách thành phố V. nhỏ bé - bối cảnh diễn ra mọi chuyện thương tâm - một dãy đồi. Thành phố nhỏ đến mức cư dân quá quen biết nhau và các con đường nhỏ của nó dù dài ngắn thế nào dường như bao giờ cũng giao cắt nhau. Ở đó, một cộng đồng người ít ỏi, nhạt nhoà, mờ mờ nhân ảnh, tồn tại đấy mà chập chờn hư thực. Tác giả chọn một giọng kể lạ, cứ nhẩn nha chậm rãi như tự nói với chính mình, một cuộc nói chuyện - “một cuộc nói chuyện của thời khác”. Như ông đã bộc bạch với Clara Dupont (báo Marianne, 15/9/2003): khi viết ông không biết trang tiếp theo sẽ được viết ra sao. “Tôi thích khi không biết mình sẽ đi đâu”, Philippe Claudel đã thổ lộ như thế. Vì vậy có lúc người đọc có thể sốt ruột, ngỡ là người kể chuyện đã sa đà, lan man nhưng thực ra nội dung câu chuyện vẫn được tổ chức chặt chẽ và tâm trạng, tính cách, số phận những con người bé nhỏ, - những “linh hồn xám” - và cả vài ba con người độc ác, phi nhân tính như kiểm sát trưởng Destinat, đại tá Matziev - những “linh hồn đen” - dần dần hằn nổi, để ám ảnh người đọc mãi không thôi. Đúng là ám ảnh dai dẳng, hình ảnh đông đảo những linh hồn xám vô danh: lớp lớp những người thanh niên mặc áo lính, vô tư lự, không hiểu gì về đối phương, lạc quan thiếu căn cứ, hăng hái đi qua thành phố V., hướng ra chiến trường. Thế rồi, ngày lại ngày hàng đoàn xe tải chở thương binh, tử sĩ ùn ùn trở về, hoặc vĩnh viễn bó mình trong bốn tấm ván gỗ thông tồi tàn, hoặc ngổn ngang rên xiết trong quân y viện dã chiến đặt tại thành phố. Có người cũng có tên - một anh Léon Castrie nào đấy - “rất hài lòng vì đã mất một cánh tay. Sáu ngày nữa anh ta sẽ về nhà và về luôn”. Người kể chuyện đã bình luận, khó có thể gọn hơn nhưng thật chua chát: “Chiến tranh là một thế giới lộn ngược, mông chổng lên trời, đầu rạp xuống đất. Chiến tranh cố thể biến một người tàn phế thành kẻ hạnh phúc nhất trần gian”. Sức ám ảnh của tác phẩm còn nặng nề hơn khi Philippe Claudel dẫn chúng ta đến với những người dân bình thường của thành phố: cô bé mười tuổi Hoa Bìm Bìm ngây thơ hồn nhiên, bà lão Adélaide Siffert tốt bụng, thai phụ Clémence khắc khoải chờ đón đứa con đầu lòng, cô giáo Lysia Verharine tình nguyện đến thành phố V. dạy học để được an ủi vì phía bên kia quả đồi... Cả người kể chuyện - một anh cảnh sát tư pháp không rõ tên tuổi - chồng của Clémence. Và qua số phận của từng người một, nhưng kết thúc thật đau thương cứ lần lượt nối tiếp: Hoa Bìm Bìm bị cưỡng hiếp và bóp cổ đến chết, Clémence bất lực “vượt qua” trong cô đơn, cô giáo Lysia sau những ngày khắc khoải chờ trông hy vọng đã nhậnđược tin dữ về cái chết của người yêu... Những trang viết thật buồn, nhưng cũng thật đẹp. Đẹp, vì Philippe Claudel dù muốn giấu nhưng cảm xúc nhân văn vẫn cứ bàng bạc trong toàn bộ 27 chương sách. Tôi ngờ rằng nhà văn cố làm ra lạnh lùng tỉnh táo, nhưng nhiều khả năng trái tim ông đã run rẩy không chỉ một lần. Đẹp, vì đúng như ông Jérôme Garcin đã viết trong Le Nouvel Observateur (04/9/2003), những trang viết này đã được cha đẻ của nó “rất trau chuốt về câu chữ, chứa chan xúc cảm đến nỗi nó có vẻ như thách thức cả một gia đoạn văn học”. Dịch giả trẻ Nguyễn Duy Bình đã chuyển ngữ tác phẩm một cách công phu, nghiêm túc và đầy cảm hứng, nên đã tặng cho chúng ta một bản dịch đáng tin cậy, và đẹp. Trân trọng mời bạn đọc làm quen với Những linh hồn xám. TP. Hồ Chí Minh, những ngày giáp Tết Mậu Tý TRẦN HỮU TÁ Mời các bạn đón đọc Những Linh Hồn Xám của tác giả Philippe Claudel.
Những Gia Đình Cự Tộc - Maurice Druon
Maurice Druon sinh ngày 23-4-1918 tại Paris, trong một gia đình có cha là người Nga. Ông là thành viên Viện hàn lâm Pháp từ năm 1966, từng làm bộ trưởng văn hóa Pháp từ năm 1973 - 1974. Là tác giả tác phẩm nổi tiếng Les rois maudits (tiếng Anh: The accused kings), ông từng tham gia phòng trào đấu tranh chống Đức quốc xã trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2 và còn là nhà ngôn ngữ học luôn bảo vệ và xây dựng ngôn ngữ truyền thống Pháp.   Năm 1948 ông nhận được giải thưởng văn chương danh giá nhất nước Pháp - giải Goncourt - với cuốn tiểu thuyết lịch sử The great families.   Ông qua đời tại nhà riêng ngày 14-4-2009.   Nhà văn Maurice Druon đã có hai tác phẩm được dịch sang tiếng Vệt: Les rois maudits (tên tiếng Việt:Những ông vua bị nguyền rủa) và Tistou - les pouces verts (Tix-tu - ngón tay cái xanh).   MAURICE DRUON bước vào đời khi Thế chiến Hai bùng nổ. Ông liền gia nhập lực lượng Giải phóng Pháp FFL, chiến đấu ở hải ngoại. Cùng với cậu là nhà văn Joseph Kessel dọc ngang các mặt trận Tây Âu, làm phóng viên chiến tranh. Ông là tác giả lời hát của Bài ca Du kích quân rất thịnh hành trong các chiến khu thời ấy.   Lữ đoàn sau cùng ra đời năm 1946 cùng nhiều tập bút ký chiến tranh, rồi bộ tiểu thuyết ba tập lên án gắt gao lối sống tư sản: Những gia đình cự tộc, Sự sa đọa của thân xác, Hẹn hò ở Hỏa ngục. Ngòi bút ông đa dạng: những bộ tiểu thuyết lịch sự:  Lũ vua đáng nguyền rủa, Philippe Đệ tứ… bút ký triết học: Lời đe dọa của thần Zeus, Ghi chú và cách ngôn về quyền lực…  *** Từ khi con chết, nữ nam tước Schoudler mất hẳn nước da tươi tắn ngày xưa. Mặt bà xám xỉn như đất và bụng thì ngày một chướng lên. Lartois ngần ngừ không dám nói rõ căn bệnh và gia đình đâm ra hoang mang. Đầu mùa thu, bà nằm liệt giường.   Một buổi sang bà Polant đang vội bước trên cái cầu thang lớn thì bà trông thấy Noel Schoudler đang cùng đi xuống với ông thầy thuốc trứ danh. Bà bước chậm lại nép vào tường. Họ thầm thì trao đổi và Noel ủ rủ cúi đầu. Ông tiễn Lartois rồi quay lại. Bà Polant tách ra khỏi bức tường.   - Thế nào, thưa nam tước?   Từ ngày François mất, bà Polant dần dà trở thành người nhà trong cái gia đình lớn này. Noel nói:   - Bà Polant ạ, tội nghiệp! Đúng là điều chúng ta vẫn lo.   - Trời ơi. Khổ thân bà nam tước!   - Không được nói cho bà ấy biết đấy! Tôi tin ở bà.   Ông bước tới căn buồng vợ nằm, bà trước khi mở cửa, ông cố gắng nở một nụ cười.   Bà nam tước, vai choàng một tấm khăn viền đang ten quay lại, mái tóc xám, gương mặt cũng xám.   Trên cái tủ con đầu nằm là bức ảnh của François lúc lên ba, mặc áo lễ.   Nắng mùa thu sưởi nóng cửa kính, gây mùi bệnh hoạn trong căn phòng. Bà nam tước sẽ sàng nói:   - Tôi bị ung thư, đúng không? ... Mời các bạn đón đọc Những Gia Đình Cự Tộc của tác giả Maurice Druon.
Trời Xanh Của Trái Đất Hồng - VItaliy Melentyev
Một truyện khoa học viễn tưởng về cuộc gặp gỡ tình cờ cùng chuyến du hành trong vũ trụ giữa một thiếu niên Trái Đất cùng những nhà du hành vũ trụ - cũng là thiếu niên đến từ hành tinh của họ - Trái Đất Hồng . Không quá khô khan và chứa đầy những kiến thức kỹ thuật phức tạp như các truyện khoa học viễn tưởng khác, những công nghệ của tương lai được tác giả mô tả một cách trực quan và dễ hiểu nhưng không kém phần thú vị và cuốn hút. Truyện này mình đọc lần đầu tiên năm 1986, cũng là năm nó được xuất bản lần đầu. Hiện nay truyện đã được tái bản . *** Khi Iuri bước ra khoảng rừng thưa mà em rất thông thạo (vì ở đấy bao giờ cũng có nhiều dâu rừng đang chín) thì Sarik đã đứng trước ở đó rồi, chân đang dậm dậm. Nó hết giơ chân này lại giơ chân khác lên và sủa ăng ẳng. Iuri phá lên cười – cái con Sarik này đến là ngộ và hay hoảng hốt quá. Nhưng sau … Nhưng sau thì chính em cũng suýt buột miệng kêu lên. Không, không phải vì em sợ hãi. Nếu Iuri đã có đủ can đảm bỏ nhà ra đi, và bỏ nhà ra đi một cách đàng hoàng, viết giấy hẳn hoi để lại cho bố mẹ, nếu khi đã đi hẳn rồi, em còn không quên đưa đơn thuốc của bà em đến hiệu dược phẩm và lấy số tiền để dành ít ỏi của mình để trả tiền thuốc, và cuối cùng nếu đêm qua em đã ngủ lần đầu tiên trong rừng mà không sợ tiếng kêu của lũ chim đêm, không sợ những tiếng sột soạt và lách tách vẳng lên khắp xung quanh, thì tức là Iuri không thể lại kêu lên vì sợ hãi được. Ừ, mà có gì phải sợ cơ chứ? Em muốn kêu lên là vì khoái chí, vì ngạc nhiên, và còn vì một cái gì đó thật mơ hồ, không tài nào hiểu nổi. Nhưng Iuri là đàn ông, một người đàn ông thực sự. Bởi vậy em chỉ khẽ huýt một tiếng sáo. Sarik quay ngay đầu lại và vẫy vẫy đuôi cụt ngủn. ... Mời các bạn đón đọc Trời Xanh Của Trái Đất Hồng của tác giả VItaliy Melentyev.
Nữ Hoàng Thinh Lặng - Marie Nimier
Nữ hoàng thinh lặng, cuốn tiểu thuyết thứ chín là một truyện kể đầy xúc động về những quan hệ rất khó khăn giữa tác giả với người cha của mình. “Nữ hoàng thinh lặng” – cha của Marie từng gọi cô bằng biệt hiệu này khi cô còn bé. Ông là nhà văn Roger Nimier, nổi tiếng từ tuổi hai mươi lăm với tác phẩm Khinh kỵ binh màu lam, chết vì tai nạn xe hơi năm 1962, ở tuổi băm sáu. Ngồi cạnh ông trên xe hơi và chết cùng ông là nữ tiểu thuyết gia xinh đẹp hai mươi bảy tuổi, mang cái tên lạ Sunsiaré de Larcône. Lúc đó Marie mới lên năm. Về ông bố tài hoa mệnh yểu, đứng đầu nhóm nhà văn trẻ ngỗ ngược mà mọi người gọi là các “khinh kỵ binh”, những kẻ “vô chính phủ và khuynh hữu”, khước từ văn học dấn thân theo kiểu Sartre, nhạo báng tiểu thuyết luận đề, chắc chắn Marie chẳng có nhiều kỷ niệm. Sau này, không cố ý mà khi ký tên, cô thường viết Ni-er, thay hai chữ m và i ở giữa bằng một nét gạch dài, thành thử tên cô hóa ra Nier (chối bỏ), như thể trong vô thức cô chối bỏ người cha. Và một thời gian dài Marie từng theo phái tả, có những lúc cực tả, đó cũng là một cách chối bỏ. Phải đợi đến đến tuổi bốn mươi bảy, sau khi đã viết và công bố tám cuốn tiểu thuyết, Marie Nimier mới quyết định lần theo dấu vết của cha, cố tái tạo bức chân dung đầy nghịch lý, mâu thuẫn. Đó là một người bố “chẳng thực sự ở đó khi ông đang hiện diện, chẳng thực sự vắng mặt khi ông rời bỏ chúng tôi” – sau này Marie biết rằng vào lúc cô sinh ra, cha mẹ cô đang tính chuyện ly hôn. Là nhà văn chói sáng đến mức tác phẩm trở thành tên gọi cả một nhóm, một khuynh hướng sáng tác, ông ngừng sự nghiệp tiểu thuyết rất sớm và cũng chóng bị lãng quên. Là “một con người thung dung nhẹ nhõm, nghiêm túc, dối trá, trung thực, chậm chạp, nhanh nhẹn, cần mẫn, lười nhác, trơ tráo, ái quốc, tàn nhẫn, yêu thương, dửng dưng, say đắm, trang trọng, phù phiếm, đúng đắn, vụng về trong tình cảm như thể người ta lóng ngóng chân tay”, bạn bè Roger miêu tả ông như vậy. Marie hoài nghi những tính từ “đóng sống” một cá tính, giam cầm một nhân cách. Các từ điển văn học, từ điển tác gia, như cô viện dẫn, cũng không giúp nhiều lắm: “Bảo hoàng dạng d’Artagnan, có kiến thức vô cùng rộng lớn, Roger Nimier đi ngược lại những gì ông coi là thứ suy-nghĩ-cho-sẵn của thời đại ông, giới tri thức cánh tả, chống lại họ sẽ là những người được đặt biệt hiệu Khinh kỵ binh…”. Để khám phá điều bí ẩn, để hiểu sự dữ dội và những dằn vặt ở chàng khinh kỵ binh trứ danh, Marie Nimier cô con gái viết về bố, nhà văn viết về nhà văn, đã tìm đến những nơi, những người, những thứ có thể giúp hồi ức sống lại: cô tới thăm mộ cha, đi gặp người anh ruột, người anh cùng mẹ khác cha, rồi người con của nữ tác giả xinh đẹp tử nạn cùng Roger, phát hiện những bức thư chưa từng công bố của ông… Song trước hết, và chủ yếu, cô thực hiện cuộc du hành vào tuổi thơ chao đảo không an ổn của chính mình, chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối gia đình cô và bản thân cô với người cha lãng tử, với ông bố từng có mà cũng không hề có. Và, dần dà dần dà, trong khi đan dệt, phân tích mạng lưới những hồi tưởng, những quan hệ, lấp đầy khoảng trống do người cha chết yểu để lại, Marie không chỉ tìm lại được cha mà còn tìm lại được bản thân, không chỉ hòa giải với cha mà còn hòa giải với chính mình. Xem lại bản thảo cuốn tiểu thuyết Trẻ thơ buồn của cha, cô phát hiện “có lòng nhân hậu trong nét bút”, và đột nhiên thấy hình như kiểu chữ ấy không thể là kiểu chữ của một kẻ hung bạo, tàn ác. Trên một tấm bưu ảnh, Roger đã viết cho cô con gái nhỏ: “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?”. Với bé Marie, ở đó chứa đựng một ẩn ngữ không sao giải được: “Nữ hoàng thinh lặng có thể nói gì để không bị mất danh hiệu của mình và không mất tình thương yêu của cha?”. Cuối cùng nữ tác giả đã tìm ra cách giải đáp: viết văn chính là “nói trong lặng thinh”, nhà tiểu thuyết là người vừa nói vừa không nói, kể chuyện mà vẫn im tiếng. Khi được hỏi nên giới thiệu Nữ hoàng thinh lặng như tiểu thuyết hay truyện kể, Marie Nimier trả lời là cứ để trống đừng xác định. Quả thật trong tác phẩm có kết cấu vừa tài tình vừa mang tính mộng du này, hư cấu và thực sự chồng lên nhau, quá khứ và hiện tại hòa trộn. Theo tác giả, có lẽ đó là một essai, không phải theo nghĩa tiểu luận, mà theo nghĩa đầu tiên của từ này: thể nghiệm. Với bút pháp giản dị và mực thước, với giọng điệu cực kỳ chính xác và tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng, không trách cứ, không oán hận, lay động tâm hồn người đọc tận bề sâu. Tác phẩm đã được trao tặng giải Médicis 2004. LÊ HỒNG SÂM *** Nữ hoàng thinh lặng là cuộc du hành vào một tuổi thơ chao đảo của chính tác giả - nhà văn Marie Nimier – để chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối cô với người cha quá cố lãng tử “có mà như chưa hề có”. Câu chuyện kể sống động và giản dị, những hồi ức miên man cứ thế chảy trôi vào lòng người. “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?” để không vĩnh viễn mất đi tình yêu của cha? Đó là thông điệp hiếm hoi sót lại từ người cha - một nhà văn tài hoa nhưng yểu mệnh, tín hiệu của tình yêu mà tác giả vin vào đấy để giải mã trong suốt cuộc kiếm tìm.  “Cha tôi qua đời vào một chiều thứ sáu, ở tuổi ba sáu…” trong một tai nạn xe khi đi chơi với người tình. Điều này đã khắc sâu trong lòng cô con gái bé bỏng và nhạy cảm thêm một vết hằn, cùng với tuổi thơ thiếu vắng tình thương trong một gia đình mà cha mẹ ly dị khi cô con gái duy nhất chỉ mới lên 5. Trong một khoảng thời gian dài, cô đã cố gắng bôi xóa hình ảnh cha trong ký ức, bởi nỗi mất mát lớn lao hơn cả đó là lòng tin vào cuộc sống, vào con người, vào tình yêu và hạnh phúc. Những kỷ niệm nhức nhối ào ạt kéo về, từ việc tìm thăm mộ cha cho đến những phát hiện đầy bất ngờ nơi bạn bè, đồng nghiệp một thời của ông đã khơi lại những ký ức rất đỗi sống động, cuốn hút, những bí ẩn tưởng đã vĩnh viễn chôn vùi. Nimier phát hiện mình giống cha kinh khủng, càng tìm hiểu, cô càng thấy yêu thương và thông cảm, thứ tình yêu bấy lâu cố đè nén, cố xóa bỏ bởi thù hận, hiểu lầm… Và Nữ hoàng thinh lặng đã không thể thinh lặng mãi, không thể chôn vùi theo cha mãi những yêu thương, day dứt. Dẫu muộn màng, cô đã viết tất cả mong giải tỏa đám mây mù giữa hai cha con, không trách cứ cũng chẳng còn oán hận… Marie Nimier là nữ nhà văn Pháp, sinh tại Paris. Cô cho ra mắt quyển tiểu thuyết đầu tiên năm 28 tuổi và tiếp tục thành công cho đến nay, Nữ hoàng thinh lặng là tiểu thuyết thứ 9 của cô, được khán giả khắp thế giới đón nhận, được tặng giải thưởng Medicis 2004. Một giọng văn nữ mộc mạc, giản dị, ngọt ngào, đằm thắm mà sâu sắc, với bút pháp mực thước, giọng điệu tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng đã lay động tâm hồn độc giả tận bề sâu. *** Marie Nimier là một tiểu thuyết gia và nhạc sĩ người Pháp, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1957 tại Paris, là con thứ hai của Nadine và Roger Nimier. Marie  bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1985, và ngay lập tức tác phẩm đầu tay Sirene (Tiên cá) của bà đã được Viện Hàn lâm Pháp đánh giá cao. Những tiểu thuyết đã xuất bản: Sirène (Tiên cá), NXB Gallimard, Paris, 1985 La Girafe (Hươu cao cổ), NXB Gallimard, Paris, 1987 Anatomie d'un chœur (Cấu tạo của một điệp khúc), NXB Gallimard, Paris, 1990 L'Hypnotisme à la portée de tous (Thuật thôi miên dành cho mọi người), NXB Gallimard, Paris, 1992 La Caresse (Mơn trớn), NXB Gallimard, Paris, 1994 Celui qui court derrière l'oiseau, NXB Gallimard, Paris, 1996 Domino, NXB Gallimard, Paris, 1998 La Nouvelle Pornographie, NXB Gallimard, Paris, 2000 La Reine du silence (Nữ hoàng thinh lặng), NXB Gallimard, Paris, 2004 (đoạt giải Prix Médicis, 2004) Les Inséparables (Không thể tách rời), NXB Gallimard, Paris, 2008 (đoạt gải Prix Georges-Brassens, 2008) Photo-Photo, NXB Gallimard, Paris, 2010 *** Franck mang cây vào nhà, bọn trẻ trang trí nó, chúng làm một con lừa đất (con trước bị mất hai chân), làm trắng khung cửa sổ bằng bình xịt và treo quanh cửa những cành ô rô và chùm tầm gửi. Trên cuốn lịch Mùa vọng, chỉ còn sáu ngày nữa. Franck cắm điện súng bắn nhựa để sửa chuồng bò bị rời ra. Khi Élio tìm đôi ủng để đặt dưới cây thông, nó tự hỏi phải đặt một, hay là hai chiếc. Câu chuyện lại làm Franck nhớ lại. Cái này làm anh nhớ – Franck nói, quay người về phía tôi, khẩu súng ngửa lên để tránh keo nhỏ giọt lên bàn bếp – cái này làm anh nhớ tới giày của bố em. Chiếc giày của bố tôi ư? Tôi không hiểu anh muốn nói gì. Anh ngạc nhiên là tôi không biết chương có ý nghĩa này của bản anh hùng ca gia đình. Một tối mẹ đã kể lại cho anh trong khi tôi đọc cho bọn trẻ. Theo anh, hiển nhiên tôi phải biết. Câu chuyện ư? Một buổi tối năm 1962, Frédéric Dard và vợ từ Paris quay trở lại Mureaux nơi họ ở trong thời kì đó. Xa lộ phía tây không một bóng người. Họ nhận thấy, ở phía con đường, khối màu sẫm của một chiếc ôtô gặp tai nạn. Nghĩ rằng tai nạn vừa mới xảy ra, họ dừng lại để cấp cứu người qua đường, nhưng không còn ai ở vệ đường. Chỉ có một chiếc giày vương vãi trên bờ dốc, một chiếc giày côi cút mà vợ chồng nhà văn khai báo trong đồ vật thất lạc, như thể cử chỉ này có thể làm dịu đi chút ít linh cảm về điềm gở. Chiếc giày này, người vợ ông ta nói về nó như về một con vật nhỏ nhắn, một cái gì đó mềm mại và ấm nóng. Bà ta nhìn thấy nó, bốn mươi năm sau, bà ta vẫn còn cảm thấy nó ở trong tay. Bà ta chưa bao giờ kể câu chuyện này trước đám đông, rất đơn giản vì nó không phải là một giai thoại mà là một thời khắc quan trọng của cuộc đời họ. Chỉ vào hôm sau, khi đọc hàng tít lớn của các báo, họ mới biết được sự thật hiển nhiên: họ đã giữ trong tay chiếc giày của Roger Nimier. Chuồng bò được gắn lại, và chúa Jésus ở trong lòng mẹ mình. Đức Mẹ đồng trinh trùm khăn màu lam. Lũ trẻ làm cho đức mẹ một loại tạp dề di chuyển được để đứa bé có thể ra ngoài và tìm được vị trí trong chiếc máng vào nửa đêm ngày 24. Jeseph đứng xa hơn một chút, chống gậy. Ông ta có vẻ mệt mỏi. Xa hơn nữa, Ba Vua đã ở đấy bước đi bên cạnh lạc đà của họ. Một vòng hoa nhấp nháy được gắn vào cành thấp tạo ra chút ít ảo giác cho toàn bộ cảnh vật. Cuối cùng, Élio để hai chiếc ủng dưới cây thông và Merlin, một đôi giày mềm của năm trước. Đối với tháng Mười Hai thì thời tiết này đặc biệt dễ chịu. Tôi hay nghĩ tới chiếc giày. Tôi có cảm giác cầm nó trong tay, như thể chính tôi là người nhặt nó bên vệ đường. Cử chỉ đặt chiếc giày vào trong ôtô khiến tôi xúc động mãi không thôi. Trò chơi ghép hình đã hoàn tất, hay ít ra là khung của nó, viền của nó: ở phía trong, có một khoảng trống lớn nơi mà đôi chỗ những tập hợp mảnh ghép được đặt vào, những hòn đảo nhỏ rời rạc mà giờ đây được nối lại với nhau bằng các đường ngoằn ngoèo giống như con đường bị từ ngữ đào xới. Và những từ ngữ cần thiết, kì lạ thay, những từ ngữ đã lưu thông, đủ sức để lại dấu vết của chúng, dường như được sắp xếp quanh mảnh bị khuyết, mảnh đã được tìm ra, mà không cần có một kế hoạch, một chiến lược viết lách nào điều khiển kết quả này.   Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Thinh Lặng của tác giả Marie Nimier.