Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm - Alexandre Dumas

D'Artagnan là hậu duệ một dòng dõi quý tộc đã sa sút ở xứ Gascony. Năm 18 tuổi, chàng rời nhà trên một con ngựa còm để đến Paris với mong ước trở thành một lính ngự lâm của vua Louis XIII. Dọc đường, d'Artagnan làm mất lá thư tiến cử của cha mình với ông De Treville, đội trưởng lính ngự lâm, do đó ông này đón tiếp anh không mấy nhiệt tình. Tiếp đó, d'Artagnan húc trúng vào cái vai đang bị thương của Athos, một lính ngự lâm đầy phong cách quí tộc. Anh này đòi quyết đấu với d'Artagnan vào giữa trưa và được đồng ý ngay. Ngay sau đó, d'Artagnan gặp Porthos, một lính ngự lâm khác rất đô con và mang một dải đeo kiếm cực xịn nhưng d'Artagnan khám phá ra rằng chỉ có mặt ngoài là đẹp thôi, còn bên trong làm bằng da bò. Thế là d'Artagnan có cuộc quyết đấu thứ 2 vào sau buổi trưa. Cuối cùng d'Artagnan nhặt được một chiếc khăn tay của một lính ngự lâm đẹp trai tên Aramis (khăn của tình nhân của anh này), cãi nhau, và có cuộc hẹn đấu kiếm thứ 3 trong ngày. Đến các buổi hẹn đấu kiếm, d'Artagnan thấy 3 người kia đi cùng nhau, họ là bạn thân. Tuy nhiên luật hồi đó cấm đấu kiếm, và các vệ sĩ của Giáo chủ de Richelieu đến bắt họ. Một cuộc chiến diễn ra và d'Artagnan về phe các ngự lâm quân. Họ chiến thắng và d'Artagnan trở thành bạn thân của ba chàng lính ngự lâm kia. Phương châm của họ là "Một người vì tất cả, tất cả vì một người", một câu mà vế thứ hai được d'Artagnan lợi dụng rất tốt. Tuy có những cái tên thật ghê tởm và không quí tộc chút nào hết, rõ ràng cả ba anh lính ngự lâm đều là quí tộc và họ dùng tên giả. Athos tỏ ra là một quí tộc cỡ bự, và là người rất quí phái. Porthos thuộc loại thích khoe mẽ, còn Aramis là một anh lăng nhăng nhưng muốn làm mục sư. Tuy chơi với ba anh lính ngự lâm nổi tiếng, d'Artagnan không thể trở thành lính ngự lâm ngay được mà phải đi làm lính gác của ông Des Essart để có kinh nghiệm. d'Artagnan thuê một căn phòng, mướn một tên hầu là Planchet, và đem lòng yêu bà chủ nhà, bà Bonacieux. Bà này còn rất trẻ so với ông chồng già, và là chỗ quen biết với hoàng hậu Anne. Hoàng hậu không yêu đức vua Louis XIII, mà lại lăng nhăng với Quận công Buckingham. Bà đã đem chiếc chuỗi hạt kim cương mà đức vua tặng đem tặng lại cho người yêu. Hồng y giáo chủ de Richelieu biết được chuyện này và dùng kế nói đức vua buộc hoàng hậu phải đeo chuỗi hạt đi dự vũ hội. Thông qua bà Bonacieux, hoàng hậu nhờ d'Artagnan đi lấy lại chuỗi hạt. Thế là d'Artagnan cùng ba người bạn lên đường đi nước Anh, nhưng dọc đường cả 3 đều bị rớt lại do những lí do khác nhau, chỉ mỗi d'Artagnan đến được nước Anh và đem chuỗi hạt về. Đêm dạ hội, hoàng hậu đeo chuỗi hạt và ông giáo chủ bẽ mặt. d'Artagnan lại quay lại để tìm các bạn mà anh bỏ lại dọc đường. Nhưng ông giáo chủ de Richelieu không phải là người dễ tha thứ, và bà Bonacieux bị bắt cóc. d'Artagnan không thể tìm được bà, nhưng lại gặp Milady de Winter, em dâu của bá tước người Anh de Winter, và là một phụ nữ quyến rũ. Như thế là anh kiếm được tình nhân đầu tiên. Tuy nhiên d'Artagnan sớm khám phá ra Milady có một bông hoa huệ trên vai, dấu ấn của một tội phạm, và cô ta chẳng phải người Anh mà là một gián điệp. d'Artagnan lăng nhăng với cô hầu của Milady và lợi dụng cô này để vạch mặt Milady và ăn cắp được một chiếc nhẫn sapphire. Milady nổi khùng cầm dao dí d'Artagnan nhưng anh chạy thoát được. Giáo chủ de Richelieu ở La Rochelle. La Rochelle nổi loạn và d'Artagnan phải lên đường ra trận trong khi lính ngự lâm vẫn chưa xuất phát. Cả 4 người đều nghèo đói và chuẩn bị quân trang là một thử thách lớn. d'Artagnan bán chiếc nhẫn chôm được của Milady và chia đôi với Athos. Athos nhận ra chiếc nhẫn này là cái mà anh tặng vợ cũ của mình. Porthos đi lừa tiền của bà biện lý, bà này mê tít Porthos và lấy tiền của ông chồng già cho Porthos, cộng với con ngựa còm mà d'Artagnan trước đó đã bán đi. Aramis cũng kiếm được tiền từ các tình nhân của anh. Ở La Rochelle, họ phát hiện ra Milady được lệnh đi ám sát Quận công Buckingham, để đổi lại cô ta muốn giáo chủ de Richelieu giết d'Artagnan. d'Artagnan phái tên hầu là Planchet đi báo tin cho Buckingham, và Milady bị tóm cổ ở Anh. Ở La Rochelle, d'Artagnan và ba người bạn đi ăn sáng và chống lại cả một "quân đoàn" của địch. Với chiến tích này, anh được lên chức làm ngự lâm quân. Hoàng hậu giải cứu được Constance Bonacieux và họ lập tức đi đến nơi cô bị giam giữ. Trong khi đó, ở Anh, Milady đang ngồi tù. Cô bịa ra một câu chuyện rất hay để lừa sĩ quan gác ngục là John Felton thả cô ra. Felton còn ngốc hơn cô tưởng, và Milady lừa được anh rằng Quận công Buckingham là một kẻ độc ác còn cô chỉ là nạn nhân. Felton tin rằng một cô gái quá xinh đẹp như Milady không thể nói dối được. Anh xách dao đi tìm quận công và đâm một nhát chí mạng. Trong lúc đó Milady ra thuyền và chuồn thẳng về Pháp. Cô ta trốn ở chính nơi mà bà Bonacieux đang ẩn nấp, và khi biết được Constance Bonacieux là ai, Milady đầu độc Constance để trả thù rồi bỏ chạy. Sau khi chứng kiến người yêu chết trong tay mình, d'Artagnan cùng Athos (nay được biết là bá tước de la Fère, chồng đầu tiên của Milady), Porthos (tên thật là du Vallon), Aramis (tên thật là d'Herblay), bá tước de Winter (anh của chồng thứ 2 của Milady, tìm cô ta để trả thù cho quận công Buckingham), và một người bí ẩn mặc áo choàng đỏ đi lùng khắp vùng Flanders để bắt Milady. Cô ta cuối cùng bị dồn vào đường cùng. Sáu người đàn ông bao vây một phụ nữ ở giữa, kể ra vô số tội lỗi của cô ta, rồi người mặc áo choàng đỏ đưa Milady ra thuyền để hành quyết. Khi trở về, d'Artagnan gặp giáo chủ de Richelieu. Ông này chẳng tỏ ra đau buồn gì vì dù sao Milady cũng đã hoàn thành nhiệm vụ giết Buckingham. Ông đưa cho d'Artagnan giấy lên chức thiếu úy ngự lâm quân. d'Artagnan đem đưa giấy phong chức cho Athos, nhưng anh này cho biết mình sắp nghỉ hưu, và từ chối. d'Artagnan đưa cho Porthos nhưng anh này cho biết rằng ông biện lý già mới chết, anh sẽ cưới bà biện lý cùng tài sản khổng lồ mà ông biện lý già để lại. d'Artagnan đưa cho Aramis, nhưng anh này muốn trở thành mục sư chứ không làm lính nữa. Cuối cùng, d'Artagnan và các bạn chia tay. Và mãi 20 năm sau đó họ mới gặp lại nhau, khi mà d'Artagnan một lần nữa muốn lợi dụng phần "mọi người vì một người" của khẩu hiệu của họ. *** Bộ Ba Chàng Lính Ngự Lâm gồm: Les Trois Mousquetaires (Ba chàng lính ngự lâm), Vingt Ans après (Hai mươi năm sau), Le Vicomte de Bragelonne (Tử tước de Bragelonne).  *** Giữa tháng tư năm 1660, vào lúc chín giờ sáng, khi mặt trời đã đủ ấm để làm khô những giọt sương trên các cây đinh hương và tại lâu đài thành Blois, một đoàn kỵ sĩ gồm ba người cùng hai người hầu tiến lên cây cầu dẫn vào thành phố mà không gây một sự chú ý nào cho những người đang dạo mát, ngoại trừ động tác đầu tiên là giơ tay lên đầu chào và động tác thứ hai là uốn lưỡi để diễn tả bằng giọng văn trong sáng nhất nước Pháp: "Đó là Đức ông đi săn về". Có vậy thôi. Tuy nhiên khi đoàn người ngựa leo lên con dốc dẫn từ bờ sông vào lâu đài thì một vài gã bán hàng mập ú mon men tiến lại gần con ngựa đi cuối có treo lủng lẳng nhiều loại chim trên cốt yên. Thấy kết quả chuyến đi săn nghèo nàn như vậy, các gã hiếu kỳ tỏ ra khinh khi, và sau khi bàn tán hồi lâu về sự bất lợi của việc săn chim, ai nấy lại quay trở về với công việc của mình. Chỉ còn một gã có thân hình béo tròn với cặp má phúng phính, tính tình vui vẻ là còn thắc mắc tại sao Đức ông có nhiều lợi tức, do đó không thiếu gì cách vui chơi lại đi chọn cái trò giải trí thảm hại này. Có người đã trả lời hắn: - Ủa, bộ mày không biết trò giải trí chính của Đức ông là sự ưu phiền sao? Gã mập ú nhún vai, vẻ dứt khoát. - Nếu vậy thì thà tớ làm Jean phì lũ còn hơn làm ông Hoàng. Rồi mọi người lại tiếp tục công việc. Còn Đức ông thì tiếp tục đoạn cuối cuộc hành trình với vẻ mặt vừa buồn rười rượi vừa oai nghi. Chắc sẽ có người ngắm nhìn ngài một cách thán phục, - nếu có khán giả. Nhưng các trưởng giả thành Blois đã không tha thứ cho Đức ông cái tội đã chọn thành phố tươi vui của họ để mặc sức ưu phiền. Cho nên, mỗi khi phải trông thấy con người vừa oai nghiêm vừa u sầu đó, họ quay mặt đi chỗ khác hoặc thụt đầu vào trong để tránh bị ảnh hưởng bởi vẻ buồn ngủ của khuôn mặt dài tái xanh, của đôi mắt lúc nào cũng đẫm ướt và của cả cái dáng dấp uể oải chán chường. Thành thử, ông hoàng đáng kính của chúng ta mỗi khi phi ngựa tới đâu đều cũng chỉ thấy toàn đường phố vắng ngắt. Như vậy là dân thành Blois quả có tội bởi vì, sau Đức vua, và có khi trên cả vua nữa là đằng khác, Đức ông là một nhà quý tộc lớn nhất trong triều. Thật vậy, nếu Thượng đế đã cho Louis XIV - đang trị vì - cái diễm phúc được là con của Louis XIII thì ngài cũng ban cho Đức ông cái vinh hạnh được nhận Henri IV là cha. Thành thử, dân chúng ở đây ít ra cũng phải coi là có được một vinh dự không nhỏ khi Gaston d Orléans - Tôn Đức ông. (Đoạn tiếp theo ám chỉ các biến cố xảy ra về trước) tập hợp đám tuỳ tùng của ông trong toà lâu đài. "Các đẳng cấp" cổ kính nơi thành phố Blois này. Nhưng cái nghiệp của ông hoàng vĩ đại này là không hấp dẫn được quần chúng. Cho nên Đức ông lâu dần cũng thành quen! Có lẽ vì thế mà ngài ưu phiền một cách trầm lặng. Cuộc đời Đức ông rất bận rộn. Chẳng ai chịu để hàng chục người bạn thân nhất của mình bị cứa cổ mà không thấy lo âu chút nào! Mà Mazarin khi nắm quyền bính trong tay thì chẳng thích cắt đầu ai cả. Vì thế Đức ông không còn bận rộn nữa và tinh thần của ngài cũng chịu ảnh hưởng lây. Vậy nên cuộc sống của vị hoàng thân khốn khổ này thật là đáng buồn. Sau cuộc săn nhỏ vào buổi sáng bên bờ sông Beuvron (Bơ-vrông) hoặc trong rừng Chiverny , Đức ông vượt sông Loire, đến dùng cơm trưa tại Chamberd , bữa ngon bữa không, và cả thành Blois sẽ không còn nghe nhắc nhở gì đến vị thủ lãnh của mình nữa cho đến buổi săn bắn sau. Đó là những ưu phiền phơi bên ngoài, còn những nỗi buồn sâu kín chúng tôi sẽ cống hiến cho độc giả nếu quý vị chịu khó cùng với chúng tôi theo đoàn người ngựa tiến đến chiếc cổng uy nghiêm của lâu đài "Các đẳng cấp". Đức ông cưỡi một con ngựa vóc dáng bé nhỏ, ngồi trên chiếc yên rộng bọc bằng nhung đỏ xứ Flandre có bàn đạp giống như một chiếc hia. Con ngựa màu hung hung; bộ quần áo bó chẽn bằng nhung đỏ thẫm, hoà lẫn với chiếc khăn choàng cùng một màu với những thứ trang bị trên con ngựa, và nhờ toàn bộ cái gì cũng đỏ này mà người la có thể phân biệt được Đức ông với hai bạn đồng hành của Ngài, một người thì toàn tím trong khi người kia toàn lục. Người phi ngựa bên trái ăn vận màu tím là người hầu ngựa, bên phải có người vận màu lục coi bầy chó săn. Một người hầu mang theo đôi chim ưng đong đưa trên cái đu người kia cầm chiếc còi săn, phùng má thổi một cách uể oải rời rạc khi đoàn kỵ sĩ chỉ còn cách toà lâu đài vài chục bước. Mọi kẻ bao quanh ông hoàng uể oải này đều uể oải làm những gì cần phải làm. Sau hiệu còi, tám gã lính gác cổng đang rong chơi trên chiếc sân vuông vức của toà lâu đài vội chạy đi tìm vũ khí. Thế là Đức ông oai vệ tiến vào toà lâu đài. Khung cảnh thật vắng vẻ. Đức ông lặng lẽ nhảy xuống ngựa, rảo bước vào phòng để người hầu thay quần áo; và vì Bà lớn chưa ra hiệu ăn trưa nên ngài nằm duỗi dài trên ghế đánh một giấc ngon lành như giấc ngủ buổi tối vậy. Còn tám gã lính hầu thì hiểu rằng nhiệm vụ trong ngày của chúng đến đây là chấm dứt, chúng bèn rủ nhau nằm ườn trên ghế đá dưới ánh nắng mặt trời ấm áp. Gã mã phu (người trông nom, chăm sóc ngựa) dẫn đoàn ngựa vào trong truồng và ngoại trừ mấy chú chim đang chíu chít chòng ghẹo nhau trong các bụi cây đinh tử hoa, người ta có cảm tưởng như vạn vật đều ngủ say như Đức ông vậy. ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mười Điều Tôi Học Được Về Tình Yêu - Sarah Butler
Tại London, một cô gái trở về cạnh người cha đang hấp hối sau chuyến đi du lịch dài ngày. Trong lòng cô, cha cô không phải là người cha lý tưởng. Khi ở cạnh chăm sóc cha cùng người nhà, cô nhận ra được nhiều điều trước nay mình chưa biết. Một người cha nay đã 60 tuổi vẫn là một kẻ lang thang, ông không còn bất kỳ tài sản gì trừ tình yêu với đứa con gái nhiều năm không gặp. Ông vẫn đi tìm, và thể hiện tình yêu đó theo cách của một ông già không có gì trong tay làm được. Hành trình suy tưởng của hai nhân vật này về tình cha con, tình gia đình và những gì có được trong đời rất cảm động. *** Xếp thành một góc vuông, họ nằm xuống giữa quảng trường Trafalgar đầy nắng, nhìn lên bầu trời London và tự do ngắm mặt trời. "Cảm giác như ta đang bay, giống như tôi mới là vật dịch chuyển chứ không phải những đám mây kia. Nếu tôi liếc qua hết góc nhìn, tôi sẽ thấy được đỉnh các tòa nhà - South Africa House, Canada House, Nhà triển lãm Quốc gia, nhà thờ St Martin-in-the-Fields và phần thân trên của những người qua lại. Một cách chim hải âu lượn vào tầm mắt rồi đi mất. Tôi dõi theo đường bay chạm chạp, yên lặng của một chiếc máy bay, nghĩ tới hành khách trên đó đang nhìn xuống chúng tôi, thấy London càng lúc là nhỏ lại. Họ sẽ nhận biết hình dáng những tòa nhà, nhưng còn người ta - gồm có tôi, ông Daniel và mọi người quanh đây - sẽ vô hình đối với họ. Tôi nghĩ chắc lâu lâu nữa tôi mới lại ngồi trong một chiếc máy bay, nhìn thế gian teo tóp lại thành những khối tí hon bên dưới. Người ta đi vòng quanh chúng tôi; tôi nhận biết sức nặng của họ, nghe những câu chữ đứt đoạn của họ lơ lửng trong không khí một lúc rồi mới tan biến. Tôi nghĩ về lời ông Daniel nói: nếu cháu đứng yên một chỗ đủ lâu, cháu sẽ cảm thấy nơi ấy là nhà." (Trích tiểu thuyết Anh "10 điều tôi học được về tình yêu") "10 điều tôi học được về tình yêu" được viết rất đẹp ở các chi tiết nhỏ, với những nếp gấp bí mật giấu kín mà tác giả Sarah Butler chỉ bung mở dần dần qua từng đoạn tự sự, từng chương. Những độc giả chậm rãi sẽ vô cùng yêu thích, nhưng những độc giả thực dụng hơn lại có thể cảm thấy khó chịu vì sự dài dòng. Đây là một cuốn tiểu thuyết đầu tay được cả New York Times, Business Insider lẫn Independent để mắt và dành cho những lời động viên, khích lệ. Chứa đựng những nét riêng đặc sắc, Sarah Butler có cách xây dựng ngôn ngữ đầy màu sắc và biểu cảm. Sử dụng kĩ thuật viết hai giọng, nhà văn Anh trẻ tuổi cũng đan cài triết lý của đạo Phật để gỡ giải một trong những nút thắt quan trọng nhất cho nhân vật của mình. Alice - nhân vật chính của câu chuyện là một cô gái 28 tuổi, vóc người nhỏ nhắn với mái tóc đỏ xinh đẹp. Cô yêu tự do và cảm thấy xa lạ trong chính ngôi nhà của mình. Alice đã lang bạt ở tận Mông Cổ trước khi vội vã trở về nhà vì nhận được tin cha đang hấp hối. Ngôi nhà vốn xa lạ với cô. Alice chỉ cảm thấy, mà không thể nhận biết những bi kịch của cha mẹ trước khi cô ra đời. Đó là sự quấn quyện của tình yêu, chịu đựng, sự tùy hứng, lòng yêu tự do và mọi điều khác biệt nữa giữa cha và mẹ - dù cả hai đều là người tốt. Sự khác biệt giữa hai bọn họ đã làm nảy sinh bi kịch trước khi Alice ra đời. Nếu như trong nhiều câu chuyện khác, việc ngoại tình của người đàn ông thường hay xảy đến hơn và người phụ nữ đóng vai trò cam chịu, thì trong gia đình Alice là trường hợp ngược lại. Mẹ cô là một người phụ nữ đẹp và phóng khoáng - nhưng đồng thời bà cũng đã là một người mẹ đã gắn chặt trách nhiệm với gia đình và con cái, không thể bỏ đi theo tiếng gọi của tình yêu... Người đàn ông vô gia cư mang tên Daniel được nhắc đến ở trong đoạn trích có liên hệ mật thiết với cuộc đời của Alice và mẹ cô. Trước đây, ông từng là một họa sĩ trẻ tài năng, một người say mê màu sắc và có tài trang trí. Một người mà mẹ Alice từng cảm thấy đó là lối thoát của cuộc đời mình. Với những nhân vật có phần lạc lối xuyên suốt trong tác phẩm, cuốn sách dần được khép lại một cách thanh thản, an yên chứ không hề đau thương hay bi lụy. Ở cảnh cuối, một ông già vô gia cư và một cô gái trẻ xếp thành góc vuông trên mặt đất, ngắm hoàng hôn buông dần trên quảng trường London. Họ gọi đó là tự do và đứng yên để thành phố mở lòng ra đón nhận. Một tác phẩm bình dị, chan chứa tình yêu thầm kín, hơi ấm của gia đình, và cả sự vị tha. *** Mười lý do để ở lại 1. Bà chị cả có thai. 2. Bà chị kế có khả năng lấy đó làm cớ sinh sự. 3. Tôi mệt mỏi. 4. Đôi khi tôi cảm thấy như đi trong vòng tròn lẩn quẩn. 5. Tôi ghét những căn phòng khách sạn. 6. Tôi ghét chứng đờ đẫn sau chuyến bay. 7. Tôi có thể làm quen ai đó. Quỷ thật, có khi tôi lấy chồng rồi đẻ con luôn ấy chứ. 8. Bố muốn tôi ổn định cuộc sống, ông lo ngày lo đêm chuyện tôi cứ bay tới những miền đất xa lạ. 9. Hai bà chị nghĩ lúc nào tôi cũng trốn chạy. 10. Tôi muốn ngừng trốn chạy. Tôi chà chà tràng hạt nhựa vào ngực, đi theo ông Daniel qua bãi cỏ, xuống Đồi Nghị Viện. Không hiểu sao tôi lại đeo chuỗi hạt ấy vào. Chắc trông tôi ngố lắm. Hạt dẻ ngựa gõ vào xương ức khi tôi bước đi. Hồi còn nhỏ tôi hay lượm lặt dẻ ngựa, gom lại thành cả bụm bóng loáng. Rồi mỗi năm qua đi, tôi lại buồn bã khi vỏ hạt mờ dần, nhăn lại, dù tôi biết trước là chúng sẽ như vậy. Trước đường chạy bộ, ông Daniel quành sang trái, băng qua khoảng sân quần vợt, nhà hóng mát, quán ăn có cửa kính, rồi ngang hồ bơi ngoài trời, xuống nhà ga Gospel Oak. Chúng tôi đứng chỗ những ngọn đèn, và tôi tự hỏi những người lái xe ngang qua nghĩ gì, họ có thấy một cô gái trẻ - người đã ngủ một mình ngủ dưới tán cây trong công viên Hamstead Heath – đứng cùng một ông già, thoáng nhìn qua cũng biết chắc là kẻ không nhà. Họ sẽ không để ý, mà nếu có cũng không quan tâm làm chi. Tôi sờ túi quần jean kiểm tra xem mảnh bìa cứng còn nguyên không. Trước khi tới một dãy căn hộ cao tầng xây bằng gạch tối màu kiểu thập niên bảy mươi, chúng tôi băng qua một khu toàn những dãy nhà gạch sơn phết đẹp đẽ, dây tử đằng bò quanh, hàng rào thuỷ lạp xén tỉa gọn gàng. Rồi lên cầu. Ông Daniel dừng giữa cầu, chúng tôi nhìn qua lưới lan can cầu xuống những đường ray thẳng tắp bên dưới. “Nếu bây giờ ông có thể tới bất kỳ nơi nào, ông chọn đi đâu?” Một chuyến xe lửa vụt qua, cây cầu rùng mình dưới chân chúng tôi. Ông Daniel rà ngón tay dọc lan can, tạo ra những tiếng trầm trầm. “Tôi sẽ ở lại đây,” ông nhìn tôi đáp. Đêm ấy tôi nằm mơ thấy ông – một cơn mơ vừa thật, vừa khiến tôi hoang mang. Cả hai tháo bàn tay ra cứ như búp bê, rồi đổi cho nhau. Có điều khi tôi nhìn lại, tôi thấy từ cổ tay trở xuống là tay của chính mình. Lúc tôi thức dậy thì ông đã ở đó, rồi kỳ lạ một nỗi, tôi nghe như đang ở trong căn nhà thật sự của mình. Tôi có thoáng nghĩ qua, rằng có lẽ ông và mẹ tôi... Nhưng điều ấy thật ngớ ngẩn, tôi không muốn nhớ tới nữa. Tôi quý ông, chỉ vậy thôi. “Tôi sẽ đi Inverness, hoặc đâu đó xa hơn về hướng bắc. Tôi sẽ tới cực bắc của Scotland rồi bắt thuyền qua Iceland, hoặc đâu đó ở Na Uy. Tôi sẽ đi ngắm bắc cực quang, vì đã xem qua nhiều hình ảnh mà thấy giả giả thế nào.” Ông cười, nhưng có chiều buồn bã, nên tôi im. Chúng tôi bước tiếp, ngang qua một toà nhà đơn độc, tua tủa xung quanh là những bảng Cho thuê, có xe máy và chậu cây cùng những lá cờ đội bóng dán trên kính ban công đã phai mờ. Chúng tôi tiến vào sự hỗn độn của con đường Kentish Town, đến khi ông quặt sang khúc cong ngõ St. Pancras, men theo bên trái đến khu Agar Grove. Chúng tôi không chuyện trò mấy, nhưng kỳ lạ là nhịp bước cả hai dường như đang nói chuyện với nhau. Cứ một lúc ông Daniel lại dừng và nhặt gì đó lên – một nắp chai màu vàng kim; một cái nút vàng giữa có một cái sao; một cây đinh gập thành góc vuông. Ông nhìn nhìn những thứ ấy, rồi cho vào túi. “Tôi thích áo khoác của ông,” tôi nói. Ông bật cười. “Một gã tên là Thợ Săn cho tôi đó.” “Thợ Săn à?” ... Mời các bạn đón đọc Mười Điều Tôi Học Được Về Tình Yêu của tác giả Sarah Butler.
Lắng Nghe Yêu Thương - Susanna Tamaro
LẮNG NGHE YÊU THƯƠNG là những suy tư trong hành trình đi tìm lại cội rễ của chính mình của một cô gái trẻ người Ý gốc Do Thái, vốn chỉ biết mình ‘sinh ra lúc 4 tuổi' khi được chuyển đến sống với một người bà yêu mình hơn cả mẹ. Yêu cháu và muốn bảo bọc cháu yêu khỏi những tổn thương từ những cá tính quá góc cạnh lẫn cực đoan của cha mẹ, người bà đã dựng nên những câu chuyện đẹp để cho cháu yên lòng về xuất xứ của mình. Nhưng truyện cổ tích chỉ có tác dụng lúc cô cháu yêu còn nhỏ, và khi đã lớn hơn, đã hiểu ra phần nào sự thật mà người bà đã - vì yêu thương mà - che giấu, mọi yêu thương trong cô cháu gái đã chuyển sang thái cực tình cảm khác hẳn - lòng căm ghét. Mọi thứ lên tới đỉnh điểm khi người bà qua đời. Và hành trình đi tìm lại cội rễ của cô gái cũng là hành trình chuyển hóa nhận thức và tình cảm của cô đối với những con người đã ban cho mình cuộc sống. *** CÓ LẼ MỌI SỰ KHỞI NGUỒN từ khi bà cho chặt bỏ cái cây đó đi. Bà không hề nói gì với cháu cả - những chuyện thế này có liên quan gì đến trẻ con đâu - vậy nên buổi sáng mùa đông nọ, lúc cháu đang ngồi trong lớp ngán ngẩm nghe thầy giảng về tính chất của bội số chung nhỏ nhất, thì lưỡi cưa đã nghiến vào lớp vỏ cây màu trắng bạc; còn khi cháu đang lết chân trên hành lang vào giờ ra chơi, thì những mảnh sống của cái cây đã rớt như mưa xuống bầy kiến nhỏ. Khung cảnh tàn diệt đổ ập lên cháu lúc từ trường trở về. Trong sân, nơi cây óc chó từng đứng xõa bóng, giờ chỉ còn là hố đất đen ngòm; những cành cây bị chặt vứt bỏ ngổn ngang, còn thân cây bị cưa thành ba đoạn nằm vô hồn dưới đất; và một người đàn ông mặt mũi đỏ tía phủ kín muội khói dầu diesel đang điều khiển chiếc máy xúc, với những bộ hàm khổng lồ giật tung cái gốc cây. Cỗ máy xúc gầm rú, khụt khịt, lùi lại, chồm lên, hối hả trước những tiếng chửi thề của người điều khiển. Phần rễ cứng cỏi không muốn nơi lỏng những cánh tay bám chặt vào lòng đất. Chúng bướng bỉnh và đâm sâu hơn tưởng tượng. Năm nối năm, mùa tiếp mùa, những chiếc rễ đã âm thầm lan tỏa, lấn sâu vào lòng đất từng chút một, bện lẫn với rễ cây sồi, cây tuyết tùng và cây táo, thậm chí còn cùng nhau quấn chặt lấy đường ống dẫn nước và khí ga. Đó chính là lý do khiến người ta chặt bỏ cây cối: chúng luồn lách trong thẳm sâu, làm khó con người, và con người buộc phải dùng tới máy móc để đối phó với những kẻ cứng đầu như thế. Thình lình, dưới ánh nắng mùa đông lạnh lẽo, vồng rễ oai vệ của cây óc chó, với những chùm đất nhỏ vẫn còn dính chặt lấy rễ cây, bị nhấc bổng lên trước mắt cháu - như phần mái bị bốc ra khỏi ngôi nhà - thả lại đoạn rễ cái vẫn còn chôn sâu trong lòng đất. Khi đó - và chỉ khi đó - người điều khiển máy xúc mới hả hê giơ cao nắm tay ra dấu chiến thắng, và bà đã mặc sẵn tạp dề, vỗ tay hưởng ứng. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Yêu Thương của tác giả Susanna Tamaro.
Giữa Cơn Lốc - Đào Hiếu
S au hơn hai mươi năm, khoảng rẫy trên sườn đồi phía trước vẫn giữ nguyên hình thể. Hình một con mèo cụt đuôi đứng ở lưng chừng núi. Hình ảnh ấy làm người lính già xúc động. Có lẽ đó là vật duy nhất còn giữ nguyên hình dạng, màu sắc trong suốt những năm dài. Và dường như những đám mây sau bao nhiêu lần hợp tan vẫn trở về giăng trên đỉnh núi thấp? Trọng cúi xuống. Nấm mồ của mẹ và của Nghi nằm cạnh nhau. Hai tấm bia xây bằng xi-măng in những dòng chữ đỏ đã phai màu. Duy loay hoay đốt bó nhang thơm trong khi Hữu ra sức chặt những bụi gai mọc lan ra chỗ mộ phần. Trọng đến bên Duy và ngồi xuống. Nén hương cháy đã quá nửa. Đôi mắt Duy vẫn nhìn đăm đăm vào vùng khói tản mạn, dáng ngồi của anh vụng về, xô lệch và những ngón tay đen sạm bò ra như mấy cái rễ cây. Trọng rút bao thuốc Thăng Long ra mời Duy một điếu. Hữu đã dọn sạch gai góc chung quanh và trở lại chỗ hai người anh mình. Ba anh em đốt chung một que diêm. Họ ngồi yên lặng nhả khói. Phía trước, bên những bụi chim chim, bông trang, nho dại… Tú mặc chiếc áo lụa màu mỡ gà rộng thùng thình ngồi chơi với đứa con trên bãi cỏ xanh. Cang cũng ở cạnh đó, mặc chiếc áo thun màu vàng sậm cao cổ. Chiếc áo dài tay có công dụng che bớt những phần thân thể khẳng khiu của nó bỗng nhiên đem lại cái vẻ hiền lành không ngờ. Cang ngồi như quỳ, nhoài người về phía trước chăm chú theo dõi đứa cháu và cặp dế đá. Chiếc quần jeans bạc-thếch-hai-đầu-gối của nó bỗng làm sáng lên cả một vùng cỏ xanh. Trong dáng ngồi đó, nó như dài thêm ra… Cái nước da tái xanh ấy vừa gây cảm giác bạc nhược, ốm yếu vừa toát ra cái vẻ gì khinh bạc, giang hồ. Cang bứt một sợi tóc, xe giữa hai ngón tay, nhử trên hai cái râu dế. Con vật hăng máu chớp cánh “gáy” rúc rích, xoay trở liên hồi. Đứa bé giương đôi mắt xanh ra nhìn không chớp. Cang cũng nhập cuộc say sưa, mắt nó cũng mở lớn, long lanh. Tiếng cười trẻ thơ xóa sạch vết tích của quá khứ, như ngọn gió thổi qua hồn người mẹ trẻ, xua đi hết những mặc cảm. Tiếng cười hồn nhiên giản đơn như nắng, như mây, như lá cỏ. Tú đón nhận một hạnh phúc khép nép, nhẹ bước vào đời nàng bằng tiếng cười của đứa con trai. Mời các bạn đón đọc Giữa Cơn Lốc của tác giả Đào Hiếu.
Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks
Mùa xuân năm 1984, ở tuổi học sinh trung học, Amanda và Dawson chìm đắm trong một tình yêu cuồng nhiệt. Họ đến từ hai thế giới khác nhau, và mối tình cháy bỏng đầu đời của họ dường như trái ngược với hiện thực cuộc sống bình yên nơi thị trấn nhỏ miền Bắc California. Khi mùa hè năm cuối cấp đến gần, nhiều sự kiện bất ngờ xảy ra, họ đã bước tiếp theo những con đường hoàn toàn khác biệt. 25 năm sau, Amanda và Dawson tình cờ tái ngộ, đều không có được cuộc sống lý tưởng mà họ từng mong ước, và đều không thể quên mối tình đầu tha thiết từng làm thay đổi đời mình. Những tín điều về bản thân, những giấc mơ mình từng trân trọng đều không như vẻ bề ngoài, đồng thời họ phát hiện sự thật tàn nhẫn về những lựa chọn đã từng đưa ra... Thời gian lấy đi cả hai con người đó nhiều thứ, nhưng có khi nào trả lại cho họ hạnh phúc? *** Amanda đặt hai khay lasagna vào tủ lạnh, đoạn ngó vào lò nướng để kiểm tra chiếc bánh. Mặc dù vài tháng nữa Jared mới tròn hai mốt tuổi, cô đã coi ngày hai mươi ba tháng Sáu như ngày sinh nhật thứ hai của cậu. Vào ngày này cách đây hai năm, Jared đã nhận được một trái tim mới; vào ngày hôm đó cậu đã được trao cơ hội sống lần thứ hai. Nếu điều đó không đáng để ăn mừng, thì cô không chắc còn có điều gì đáng làm thế nữa. Cô ở nhà có một mình. Frank đi làm, Annette đi dự tiệc ở nhà bạn chưa về, còn Lynn dù đang làm thêm nhân dịp nghỉ hè tại cửa hàng Gap. Trong khi đó, Jared lên kế hoạch tận hưởng một trong những ngày tự do cuối cùng trước khi kỳ thực tập của cậu tại một công ty quản lý vốn bắt đầu, bằng việc chơi bóng mềm với một nhóm bạn. Amanda đã cảnh báo Jared rằng ngoài đó trời sẽ rất nóng, và bắt cậu hứa sẽ uống thật nhiều nước. “Con sẽ cẩn thận,” cậu trấn an cô trước khi đi đến sân bóng mềm. Những ngày này, Jared - có thể bơi vì cậu đang trưởng thành, hoặc có thể vì tất cả những gì đã xảy ra với cậu - dường như hiểu được rằng sự lo lắng luôn đi liền với tình mẫu tử. Không phải lúc nào Jared cũng ngoan như vậy. Do hậu quả của vụ tai nạn, tất cả mọi thứ dường như đều làm cậu khó chịu. Nếu cô nhìn Jared với vẻ quan tâm, thì cậu tuyên bố cô đang làm cậu nghẹt thở; nếu cô cố gợi chuyện, thì cậu cáu kỉnh với cô. Cô hiểu những lý do đằng sau tính tình khó chịu của cậu, quá trình phục hồi của Jared rất đau đớn, và các loại thuốc cậu phải uống thường khiến cậu buồn nôn. Những cơ bắp từng mạnh mẽ bắt đầu teo lại dù đã tập vật lý trị liệu, điều đó càng làm cậu cảm thấy bất lực hơn. Quá trình phục hồi về mặt cảm xúc của Jared càng phức tạp vì không giống nhiều bệnh nhân ghép tạng khác, những người phải chờ đợi và hy vọng có cơ hội được kéo dài sự sống của họ, Jared không ngăn được cái cảm giác rằng nhiều năm trong cuộc đời của mình đã bị lấy đi. Đôi khi cậu còn nổi giận với những người bạn đến thăm mình, và Melody, cô gái mà đến kỳ nghỉ cuối tuần định mệnh đó cậu vẫn đang thích, đã thông báo sau vài tuần cậu bị tai nạn rằng cô đang hẹn hò với một người khác. Vô cùng chán nản, Jared quyết định bảo lưu việc học ở trường một năm. ... Mời các bạn đón đọc Dành Hết Cho Em của tác giả Nicholas Sparks.