Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu - Nhân Hải Trung
Nhân Hải Trung là một cây bút ngôn tình nổi bật. Văn của tác giả rất hay, thu phóng sảng khoái, lời lẽ có tâm, trách nhiệm cao với nhân vật và cốt truyện.Nhân Hải Trung cũng có một phong cách, đó sự lãng mạn giữa thực tế trơ trụi, là tình yêu cố vùng vẫy thoát khỏi bộ mặt gồ ghề của cuộc đời. Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu rốt cuộc là của ai? Là nhật ký của cô nàng Lăng Tiểu Manh hễ thấy yêu là trốn hay nhật ký của nam chính Cố Chính Vinh phải đuổi bắt, chờ đợi và dày vò bởi cô gái giỏi chạy này? Phía sau cô kiến trúc sư tài hoa Lăng Tiểu Manh là một Cố Chính Vinh đóng vai ông trùm giấu mặt. Anh nấp sau cánh gà, dàn dựng sân khấu lộng lẫy cho nàng công chúa. Rốt cuộc quan hệ giữa họ là gì? Sếp và nhân viên? Người bảo vệ và người được bảo vệ? Ân nhân và người chịu ơn? Hay người đàn ông giàu có và cô tình nhân bé nhỏ? Đàn ông giàu có nuôi tình nhân không hiếm nhưng cũng không mấy ai như Cố Chính Vinh. Anh cho nhiều và đòi hỏi ít. Anh đem những thứ xa vời lại gần tầm tay cô, yêu cầu cực đơn giản: “Ở lại bên tôi!”. Lăng Tiểu Manh là người phụ nữ lạc lối, mối tình đầu mộng mơ tan vỡ cùng sự phản bội phũ phàng của Đổng Diệc Lỗi khiến cô không dám tin vào tình yêu nữa. Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu cuối cùng cũng trốn không nổi. Một câu chuyện không mới nhưng đặc sắc, thích hợp cho một ngày mưa với tâm trạng đa sầu đa cảm. Một phiên bản Cinderalla nhẹ nhàng, đọc lướt sẽ rất nhanh nhưng đọc chậm thì rất “thấm”. *** Nhân Hải Trung là cô gái thành phố bình thường. Nguyện ý dùng cây bút trong tay để vẽ lên những con sóng nhỏ xô dạt trên sông lớn, biến thành những dòng văn thơ chia sẻ với mọi người. Thích nhất là những tiểu thuyết có thể khiến bản thân cảm động tới rơi nước mắt, tất cả thời gian nhàn rỗi đều dành để đọc sách. Lười biếng như chú mèo, ước mơ lớn nhất trong đời đó là có thể tìm được một nhân vật nam chính như ngòi bút của mình đã viết. Thế nhưng trong lòng hiểu rõ rằng đó chỉ là giấc mộng, vì thế dù có lười thế nào chăng nữa thì ngày ngày đều phải cố gắng không biết mệt mỏi. Các tác phẩm đã xuất bản của tác giả Nhân Hải Trung: - Không Thể Thiếu Em - Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu - Nhật Ký Lấy Chồng - Lưu Bạch, Anh Yêu Em - Bốn Tháng Yêu Chưa Đủ - Tôi và Bạn Trai Kinh Tế *** Cứ ngỡ rằng bản thân sẽ có rất nhiều, rất rất nhiều thời gian, con đường còn rất rất dài, nhưng sự thật thì chỉ cần một cái buông tay nhẹ nhàng, thế là mãi mãi sai lầm, trên những con đường khau gặp được những con người khác nhau, sau cùng chỉ còn lại những ký ức mơ hồ cùng năm tháng. ... Vừa bước ra khỏi khách sạn Lăng Tiểu Manh thấy mình thật mất mặt, muốn rời xa người đàn ông này, nhưng đến một cái liếc mắt của anh ta cũng chịu không được. Nhưng đó là Cố Chính Vinh, người đàn ông mà hai năm nay cô răm rắp vâng lời, chưa từng bất phục. Vừa cất bước vừa nhìn lên bầu trời, Lăng Tiểu Manh thở dài, tay nắm chặt lại mà lẩm bẩm, “Vô dụng, thật vô dụng”. Bên ngoài khách sạn là con phố lớn sầm uất xa hoa, bộ lễ phục với chiếc váy dài ngang gối cô đang mặc khiến cô nổi bật trong đám đông, vô tình hay hữu ý, những người đi ngang qua đều nhìn cô với ánh mắt tò mò dò xét. Lúc đầu tim gan cô rối bời nên không mấy chú ý, nhưng năm phút sau giật mình tỉnh lại, đột nhiên dừng bước ngay giữa phố, chân tay lúng túng, chẳng biết nên quay lại hay tiếp tục chạy về phía trước. Trời bắt đầu lất phất mưa, hai ba giọt chớp mắt đã biến thành màn mưa dày đặc phủ khắp không gian, có chạy cũng chằng biết đi đâu. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu của tác giả Nhân Hải Trung.
Lưu Bạch, Anh Yêu Em - Nhân Hải Trung
Lưu Bạch, một người phụ nữ 28 tuổi đã ly hôn mang theo cô con gái ba tuổi, dung mạo xinh đẹp, dáng người mảnh mai yếu đuối, kì thực tinh thần lại kiên cường giống như dây thép vậy. Một lần, Lưu Bạch tình cờ gặp Sở Thừa, con nhà thế gia, hai người nhanh chóng yêu nhau. Nhưng tình yêu của họ lại không phù hợp với tư tưởng thủ cựu và những lợi ích của gia tộc, vì vậy tình yêu của họ bị Sở gia hết sức phản đối và ngăn cản. Đồng thời, để chia rẽ tình cảm của hai người Sở gia còn liên hệ dắt mối Lưu Bạch cho đại công tử Tiêu của một gia đình quyền thế khác. Tiêu cũng bị Lưu Bạch hớp hồn và anh rất yêu cô. Một người là con cháu dòng dõi thế gia, yêu đến mức cuồng nhiệt; một người tài giỏi trong thương trường và coi đó là sự nghiệp của cuộc đời, cho rằng để nhận được tình yêu, phải tự mình giăng lưới đánh bắt. Khi gia tộc, họ hàng, thương trường hỗn tạp, tình yêu tỏ rõ sự yếu đuối bất lực, số phận, tình yêu của họ kết cục sẽ như thế nào? Lưu Bạch phải đối mặt với những mưu mô tính toán trong tình yêu, cô phải lựa chọn như thế nào? Tình yêu ngọt ngào và sự mối lái của gia tộc cái nào sẽ đạt được kết quả? *** Nhân Hải Trung là cô gái thành phố bình thường. Nguyện ý dùng cây bút trong tay để vẽ lên những con sóng nhỏ xô dạt trên sông lớn, biến thành những dòng văn thơ chia sẻ với mọi người. Thích nhất là những tiểu thuyết có thể khiến bản thân cảm động tới rơi nước mắt, tất cả thời gian nhàn rỗi đều dành để đọc sách. Lười biếng như chú mèo, ước mơ lớn nhất trong đời đó là có thể tìm được một nhân vật nam chính như ngòi bút của mình đã viết. Thế nhưng trong lòng hiểu rõ rằng đó chỉ là giấc mộng, vì thế dù có lười thế nào chăng nữa thì ngày ngày đều phải cố gắng không biết mệt mỏi. Các tác phẩm đã xuất bản của tác giả Nhân Hải Trung: - Không Thể Thiếu Em - Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu - Nhật Ký Lấy Chồng - Lưu Bạch, Anh Yêu Em - Bốn Tháng Yêu Chưa Đủ - Tôi và Bạn Trai Kinh Tế *** Mọi chuyện là như vậy,tại trăng đến Rằm rồi.Trăng sẽ tròn hay tại cuối cùng tôi đã đầu hàng? Những ngày sau đó, Cho điềm nhiên bước vào cuộc sống của tôi. Sức khỏe của bố tôi đã hồi phục nhưng Cho vẫn ở lại Trung Quốc.Chỉ cần có thời gian lại đưa tôi và Mạt Lợi đi chơi khắp nơi. Đôi khi nhìn thấy cảnh anh và Mạt Lợi chơi đùa với nhau, lòng tôi cũng thấy vui vui.Vì tôi mà người đàn ông này đã hi sinh rất nhiều. Nếu sự hi sinh này dồn vào sự nghiệp, không biết Cho sẽ thu mua được bao nhiêu công ty. Nếu nói không hề cảm động thì tôi cũng quá sắt đá. Thu qua xuân tới, mọi người xung quanh tôi cũng bắt đầu chấp nhận sự tồn tại của anh, ngay cả bản thân tôi cũng bắt đầu mặc nhận điền này. Dần dần,Cho hỏi tôi có thể sống cùng anh hay không? Có lúc anh đem Mạt Lợi tỏ vẻ ấm ức:“Lưu Bạch, em không thấy để Mạt Lợi chơi một mình, không có em sẽ rất buồn sao?”hoặc:”Baby,em định để phí tuổi xuân của anh đến bao giờ nữa? Mặc dù tuổi xuân của anh không ngắn ngủi nhưng cũng không thể chịu cảnh giày vò mãi thế này được.” Anh nói nửa đùa nửa thật khiến lần nào tôi cũng phải dở khóc dở cười. Nhưng vết thương chôn chặt trong lòng tôi vẫn thỉnh thoảng nhói lên đau đớn. Nhiều lần tôi phải lựa lời nói khéoho nhưng dần dần, vẻ thất vọng khó giấu của anh đã trở thành gánh nặng nhất đối của tôi. Mùa hè đã đến ,Cho đã ở Trung Quốc gần một năm,. Hôm nay, chúng tôi đi chơi công viên Thế Kỷ, Cho còn chuẩn bị một chiếc diều để chơi đùa với Mạt Lợi. Tôi ngồi trên bãi cỏ, nheo mắt nhìn theo họ. Ánh nắng rực rỡ, bóng Cho và Mạt Lợi khiến tôi tưởng chừng như cách rất xa nhưng đồng thời lại có cảm giác chỉ cần với tay là tới. Anh quay đầu nhìn tôi, đột nhiên đưa dây cho Mạt Lợi, rồi bước về chỗ tôi. “Lưu Bạch, em có thấy vui không?” “vui.”Tôi gật đầu rồi chỉ vào làn đựng thức ăn: “Anh có uống nước không?”. Cho mỉm cười, lắc đầu, ánh mắt sâu lắng, dịu dàng : “Bọn mình cứ như thế này đến hết cuộc đời, em thấy thế nào?”. ... Mời các bạn đón đọc Lưu Bạch, Anh Yêu Em của tác giả Nhân Hải Trung.
Phố - Chu Lai
Phố là một tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai nói về cuộc sống của những người Hà Nội giai đoạn đầu Đổi mới (đầu những năm 1990). Tác giả đã dựa trên truyện ngắn Phố nhà binh viết năm 1991 để viết tiểu thuyết Phố một năm sau đó. Phố được coi là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Chu Lai viết về cuộc sống của những người bộ đội thời hậu chiến. Bối cảnh của Phố là cuộc sống của những người lính hoặc cựu chiến binh sống trên phố Lý Nam Đế, con phố tập trung các cơ quan và khu tập thể của quân đội ở Hà Nội, giai đoạn đầu những năm Đổi mới. Đó là giai đoạn mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn buộc những người bộ đội mới bước ra khỏi cuộc chiến hoặc chỉ làm việc và sống trong môi trường quân ngũ phải làm quen với việc kiếm tiền để đảm bảo cuộc sống. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. *** “…Tất nhiên căn phố dài chừng một ngàn hai trăm thước này có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay thiên hạ chỉ quen gọi là phố nhà binh để khỏi lẫn với… có một thời dường như tất cả những căn hộ đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra mặt đường khiến cho dãy phố tối tăm lại càng hun hút nỗi đe dọa dập dờn… Thế rồi hôm nay, bỗng lại như tuân theo nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, các căn hộ quay mặt lại với cuộc đời… sự phá hoại kiến trúc của một dãy phố hôm nay là phản ảnh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể sẽ xấu đi… Nhưng không thể không phá vỡ… Sau gần một năm đi xa, tối nay, vào một tối lập đông se lạnh, người đạo diễn điện ảnh với chiếc ba lô bạc màu trên vai, vừa bước đi chầm chậm trên hè phố vừa tủm tỉm cười, có lúc cái môi dưới lại nhệch ra như sắp mếu và trong đầu cứ rộn lên cái mạch chuyện của bộ phim mà kỳ này trở về, anh nhất quyết sẽ thực hiện nốt những gì còn dang dở. Ánh sáng chan hòa và những âm thanh rộn ràng nuốt chửng lấy cái thân xác gầy guộc của anh, đảo bước chân anh theo cái nhịp của một người đang vào cơn say nhẹ. Hai ngọn đèn pha cực mạnh bật sáng chói chang nơi giữa phố, đưa cả con đường vào một đêm hội hoa đăng của công cuộc trải nhựa lại mặt bằng. Mùi hắc ín, tiếng máy nổ, dáng dấp những người công nhân lục lộ khẩn trương đan qua đan lại kia đã báo hiệu rằng, chỉ sớm mai thôi, khi căn phố tỉnh dậy, sẽ có một dải lụa màu đen mát mịn chạy giữa những ngôi nhà. Anh chợt thấy sống mũi mình cay xè. Chao ôi, Hà Nội… Hà Nội của tôi… Hà Nội khổ đau và lam lũ… Hà Nội kiên trung và nồng nàn… Hà Nội… Thế là ra ngươi cũng đang biết tự đập vỡ mình để trở nên dáng nét của một thủ đô theo đúng nghĩa đấy ư. Cám ơn… xin cám ơn. ... Mời các bạn đón đọc Phố của tác giả Chu Lai.
Những Thành Phố Giấy - John Green
Quentin Jacobsen thầm phải lòng cô bạn Margo Roth Spiegelman xinh đẹp thích phiêu lưu. Thế nên khi Margo cậy cửa sổ lách vào đời cậu – ăn vận như ninja và triệu tập cậu vào một chiến dịch trả thù đầy táo bạo – cậu lập tức đi theo. Qua một đêm rong ruổi, ngày mới đến, Q tới trường và phát hiện ra rằng Margo, vốn luôn là một ẩn số quyến rũ, đã thực sự biến mất đầy bí ẩn. Nhưng Q cũng sớm biết được rằng có những manh mối – và những manh mối ấy được để lại cho cậu. Gấp gáp lần theo cung đường đứt khúc, càng đến gần, Q càng khó nhận ra được cô gái mà cậu tưởng chừng đã quá quen thuộc… *** Nếu như từng thưởng thức bộ phim chuyển thể của đạo diễn Jake Schreier thì bạn cũng đừng bỏ qua cuốn sách best-seller này của tác giả Johh Green. Paper Towns (Những thành phố giấy) là cuốn sách vô cùng thú vị, nếu không nói là độc đáo, một tác phẩm khác của John Green vốn nổi tiếng với The Fault in Our Stars (Khi lỗi thuộc về những vì sao) hay An Abundance of Katherines. Sách đã được chuyển thể thành phim cùng tên, vai chính đảm nhiệm bởi hai diễn viên trẻ Cara Delevingne và Nat Wolff. Quentin và Margo đều là những cô bé, cậu bé tuổi teen, hai hình mẫu nhân vật gần gũi với độc giả. Họ đang trong quá trình trưởng thành, không biết đích đến cuối cùng của cuộc đời nhưng vẫn tràn đầy năng lượng và ham muốn khám phá. Hai nhân vật được John khắc họa khá chi tiết, là nam châm gắn người đọc với tác phẩm bởi những tiếng cười họ đem đến qua những đoạn hội thoại hài hước và tinh nghịch. *** John Green là tác giả của sách bán chạy nhất theo nhận định của New York Times, từng đoạt nhiều giải thưởng, bao gồm huy chương Printz Medal, giải thưởng Printz Honor và giải Edgar Award. Anh đã hai lần lọt vào chung kết giải thưởng sách của LA Times. Cùng với em trai mình - Hank - John là đồng tác giả của trang nhật ký điện tử Vlogbrothers (youtube.com/vlogbrothers), một trong những trang video trực tuyến phổ biến nhất thế giới. Bạn có thể tham gia vào hàng ngũ 1,1 triệu người đang theo dõi John trên Twitter (@realjohngreen), hoặc ghé thăm trang web của anh tại johngreenbooks.com. Hiện John sống với vợ và con trai tại Indianapolis, bang Indiana. *** Tôi biết về những thành phố giấy vì đã đi qua một nơi như vậy trên một hành trình bám đường bộ hồi là sinh viên đại học. Bạn đồng hành và tôi cứ lái xe qua lại một khoảng trống trên đường cao tốc ở Nam Dakota, tìm một thành phố mà bản đồ xác nhận là có tồn tại–theo như tôi nhớ, thành phố ấy là Holen. Cuối cùng, chúng tôi dừng xe trước một nhà dân, gõ cửa hỏi thăm. Người phụ nữ dễ mến trong nhà cho hay đã từng trả lời câu hỏi này nhiều rồi. Cô ấy giải thích rằng thành phố chúng tôi đang tìm chỉ có trên bản đồ mà thôi. Câu chuyện về Agloe, New York–như được phác lên trong cuốn sách này–gần như là thật. Ban đầu Agloe là một thành phố giấy, được chế ra để bảo vệ nhà làm bản đồ khỏi bị vi phạm bản quyền. Nhưng rồi những người dùng các bản đồ cũ của công ti Esso vẫn tiếp tục đi tìm thành phố ấy, và ai đó đã dựng một cửa hàng, khiến Agloe trở thành có thật. Công tác làm bản đồ đã thay đổi nhiều từ khi Otto G. Lindberg và Ernest Alpers phát minh ra Agloe. Nhưng nhiều nhà làm bản đồ vẫn thêm các thành phố giấy vào bản đồ của mình, tạo ra những cái bẫy bản quyền, như trải nghiệm rối ren của tôi ở Nam Dakota đã kiểm chứng. Cửa hàng từng là Agloe giờ không còn nữa. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta đưa nó trở lại bản đồ, cuối cùng cũng sẽ có người xây dựng lại thôi. Mời các bạn đón đọc Những Thành Phố Giấy - John Green.