Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quê Nhà

Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm, đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật, thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn với nhiều tác phẩm đã trở thành những tượng đài bất tử như Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ… Quê Nhà là bức tranh tái hiện lại cuộc chiến đấu anh dũng của những anh hùng vô danh, những người mà trước đó tay chỉ quen với việc cấy việc cày việc nhà việc cửa nay lại dũng cảm đứng lên giương cờ nghĩa trong những năm đầu khi thực dân Pháp xâm lược. Dường như với bất kỳ tác phẩm nào của mình đã xuất bản, nhà văn cũng luôn cẩn trọng đọc lại và chỉnh sửa những chi tiết chưa hài lòng. Như chính lời con trai của Cụ, nhà báo Nguyễn Phương Vũ, chia sẻ: “Đã từ lâu từ khi cầm bút bố tôi là người cẩn thận và luôn có trách nhiệm với câu chữ nên mỗi bản in dù là in lại nhưng ông luôn đọc, cắt gọt, chỉnh sửa, “uốn nắn”, tỉ mẩn như người dệt vải. Khi ông trao lại cho tôi để xử lý nhập liệu với một bản thảo chi chít màu mực, chữ, từ, câu mà ông thêm bớt đan xen ngang dọc. Cha tôi là vậy, sự cẩn trọng, kỹ lưỡng trong nghề viết như mối nợ tình với ông.” *** Quê Nhà: Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm: tiểu thuyết “Quê người”, tiểu thuyết “Mười năm”, tiểu thuyết “Quê nhà.” Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất định.Câu chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng tây bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 (1996). Tiểu thuyết Quê nhà (viết 1985) nói về sự việc hai lần quân Pháp tấn công chiếm Hà Nội cách nay đã hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, những nhân vật lịch sử của các trận đánh: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, các tướng tá Pháp như Phơ răng xi Gácniê, Hăng ri Rivie không phải là các nhân vật chủ yếu. Mà ở đây tác giả đã miêu tả tình hình các phường xóm và làng quê trong thành ngoại nội mà nhân dân - các anh hùng vô danh, đã dũng cảm nổi lên chống quân xâm lược như thế nào. *** Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm: Quê người, Mười năm, Quê nhà. Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất định. Câu chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng Tây Bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 (1996). Tiểu thuyết Quê nhà (viết 1978) nói về sự việc hai lần quân Pháp tấn công chiếm Hà Nội cách nay đã hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, những nhân vật lịch sử của các trận đánh: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, các tướng tá Pháp như Phơ răng xi Gácniê, Hăng ri Rivie không phải là các nhân vật chủ yếu. Mà ở đây tác giả đã miêu tả tình hình các phường xóm và làng quê trong thành ngoại nội mà nhân dân - các anh hùng vô danh đã dũng cảm nổi lên chống quân xâm lược như thế nào. Tiểu thuyết Quê người (viết 1941) cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền. Trong cảnh khốn đốn, phải đi “đất khách quê người”. Tiểu thuyết Quê người đã được tác giả viết trước nhất, cách đây nửa thế kỷ, từ khi nhà văn Tô Hoài mới bắt đầu cầm bút. Điều đó chứng tỏ đề tài của vấn đề đã nung nấu lâu dài trong tâm tư và tình cảm tác giả theo bước với sự phát triển của số phận cuộc sống và lịch sử. Tiểu thuyết Mười năm (viết 1957) cũng vẫn quang cảnh và tình hình ở vùng ấy, nhưng bước sang một giai đoạn quyết liệt nhất, mười năm 1935 - 1945. Nước Pháp đã bại trận ngay khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Phát xít Nhật can thiệp vào Đông Dương. Đất nước ta bị hai tròng áp bức và bóc lột, nạn đói vô cùng thảm khốc đã xảy ra mà mỗi con người chỉ còn có con đường một sống một chết. Trong khốn cùng ấy, lá cờ nghĩa đánh Pháp đuổi Nhật cứu nước do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo giương cao đã tung bay khắp nước, từ rừng núi xuống đồng bằng. Tiểu thuyết Mười năm ấy là thời gian mười năm toàn dân chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đến nay, hơn năm mươi năm đã qua, để thấy được nguyên nhân sâu xa những điều tâm huyết của Tô Hoài với một vùng đất ông từng gắn bó. Trải ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ngày nay đương bước vào giai đoạn xây dựng đất nước hùng vĩ chưa bao giờ từng có, xin được in lại trọn bộ cả ba tiểu thuyết: Quê nhà, Quê người và Mười năm. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. *** KHÔNG AI CÒN NHỚ TỪ NĂM NÀO - loạn lạc lâu quá rồi, con đường quan từ trấn Sơn[1] xuống Kẻ Chợ vắng ngẩn vắng ngơ đến đỗi cả các làng ven đồng xưa rày có lối ra đường cái cũng như không biết có nữa. Những ngày phiên chợ Gạch, chợ Nhổn, chợ Phùng, không thấy một bóng qua đường về chợ. Lại cho đến cái năm quan ba Ngạc Nhe[2] sang bị chết trận ở đầu làng Thủ Lệ thì đường cái từ Sơn Tây xuống tưởng như tuyệt nhiên không còn ai dám qua lại. Đến mùa cỏ may, chỉ thấy từng quãng trắng mờ hút mắt. Thỉnh thoảng, giữa đám cỏ hoang ấy, một cuộn bụi đỏ bốc lên, cuốn dài, như những tổ mối đương đùn. Biết đấy là có ngựa trạm chạy thư lên ngược. Chỉ có thế, rồi đồng đất càng vắng lặng hơn. Nhưng không phải như thế. Ở trong những khoanh tre kín mít các làng cuối cánh đồng xa tít kia, chợ nào cũng vẫn đông. Người tự xa cũng về chứ chẳng phải chỉ có làng xóm gồng gánh quanh. Thế mới lạ. Chỉ vì người qua lại, người đi chợ ngại ra đường quan gặp giặc, gặp kẻ cướp. Làng nào cũng đi tắt đồng. Từ Sơn xuống toàn đường tắt. Cả sang bên kia sông Cái cũng đi quanh co xó xỉnh, lên đê ra Vân, ra Cốc, xuống Bồng Lai, Bá Giang rồi mới trở ra, sang đò ở một bến lẻ nào đấy. Bởi vậy, cái cảnh quen thuộc người ta thường gặp bấy giờ, đôi khi chợt tới đầu đồng, chân đê, dưới bóng một cây đề, một cây trôi tán lá tròn xoe, xanh mướt, cứ tưởng đến chỗ khuất nẻo quá như thế này mà nhỡ độ đường thì chỉ còn cách ba chân bốn cẳng chạy thục mạng thêm một thôi nữa, bỗng nhiên lại thấy lúp xúp một quang cảnh yên vui, đôi ba chiếc lều chợ, một quán nước, có khi có cả hàng cơm chứa trọ. Qua sông Đáy đến Phùng, tạt xuống cánh đồng Gối, đi một đỗi, theo đường bờ ruộng vào đầu ô Cầu Giấy, hay tạt ngang sang sông Cái. Nhưng dù sang sông hay vào Kẻ Chợ cũng không ai dám đi thẳng đường Phùng. Chỉ ở những chỗ không ngờ mới có đò ngang sang sông. Có lối tắt vòng sau lưng phủ Hoài ra đầu ô. Và có hàng quán. Người đi đường dừng chân lại ở chỗ khuất nẻo, làm hớp nước, hoặc nếu nhìn ra thấy đã vàng mặt trời thì nghỉ lại. Trước mặt, chỉ thấy lũy tre và bãi ngô vàng thăm thẳm, xa làng xóm quá. Người đi đã ròng rã mấy ngày đường lại càng ngại. Chỗ ấy kín đáo đầu đồng, tựa lưng vào mấy gò đất cao, bên cạnh một dãy ba cây đề cổ thụ. Từ cuối đồng đằng kia đã trông thấy những cành lá đề lưa thưa đan lên khoảng trời. Có một cái cầu ngói, nơi người đi làm đồng sâu đến nghỉ trưa. Không biết rồi mùa hạ tới, mấy quán kia có còn đứng được ở chỗ chơ vơ này không. Bây giờ mới chớm gió heo mà đã thấy mái rạ tơi tả, như những mái lều phải chúi vào gốc cây và lưng gò đất mới tránh được những làn gió giật từ cuối đồng lên lùa vào vòm lá đề cứ reo à à suốt đêm. Người xuống Kẻ Chợ hay sang sông qua đây đã quen gọi nơi dừng chân này là chỗ Ba Cây Đề đầu lối xuống bãi Cốc. Bấy giờ, mặt trời đã khuất lưng núi Ba Vì. Chỉ còn thấy một vùng hửng trên đầu lũy tre xanh đen giăng ngang cuối đồng. Có hai người đương tất tả đi lên. Từ bờ tre cuối làng qua một dải đồng cao rồi lại xuống đồng sâu, men theo bờ đìa - những lối kín qua làng. Đàn chim choi choi, chập tối rồi mà còn bay như vãi thóc, vụt lên vụt xuống, ở từng quãng chợt có người đi qua. Lên tới được đầu đồng, đã nhọ mặt người. Bấy giờ mới trông rõ đấy là một ông già và một người trẻ tuổi - dáng như hai bố con. Cái nón bứa cũ kỹ - cả tàu lá cọ uốn khum, để nguyên đầu vấu, cũng khiến người ta đoán được ông con nhà này hẳn từ vùng chân núi Ba Vì ra thăm ai hay có việc về Kẻ Chợ. Ông già đeo khăn gói và người trẻ tuổi gánh hai tay nải nhỏ, trông chừng như bên trong đựng mấy lẻ gạo và chiếc mền để tiện ngủ đêm đâu sẵn có cái đắp. Lều hàng cơm anh Đề Cụt ở ngay gốc đề ngoài cùng. Thoạt trông như một cây rơm to được đánh đống lại. Hay bảo đấy là cái lều ép mía cũng được. Những lều cây rơm, lều ép mía như thế cứ vào cữ gặt ba giăng xong thường thấy được dựng tùm hum lên ngoài đồng. Những lều hàng cơm ấy thật sự là một cây rơm rỗng ruột, có cửa tò vò vào qua cái mành những cuộng rạ lướp tướp xuống. Người vừa bước chân vào đã cảm thấy ấm áp mùi rơm, bỏ lại ngoài kia một cánh đồng ào ạt gió. Mới chập tối mà nhiều người các ngả đường đã đến rồi. Không phải vì nghe tiếng lào xào trong nhà hàng và thấy ánh lửa các nhà trọ phía trong, mà chỉ mới trông trước cửa các quán thấy ngổn ngang từng cuộn những gánh song mây gác bếp ám khói, đã lên nước cánh gián sẫm bóng, người ta cứ để nguyên cả chiếc đòn ống như vừa lẳng xuống. Các phường Hàng Tre, Hàng Mây dưới Kẻ Chợ vẫn ăn hàng song mây của lái chợ Nghệ. Những sọt củ nâu lóc nhóc chất ngập hai đầu đòn xóc, chắc mai gánh vào Hàng Vải Thâm hay các lò nhuộm ở Đồng Lầm. Những vò rượu Kẻ Sấu trát bùn ngoài giả như thùng sơn để che mắt kẻ trộm, cũng bỏ lăn lóc cả đấy. Rượu Sấu Giá vào Kẻ Chợ đường ô Cầu Rền. Rượu Thụy Chương, Võng Thị qua đằng trại Hàng Hoa đương được khách hơn. Cả những gánh đĩa bát buôn ở Bát Tràng bên kia sông đem lên ngược, xếp ngay ngắn như những gồng cỏ khô. Rồi lại những thùng tre ghép to gấp đôi thùng gánh nước, chít kín nắp, đấy là thùng dầu sở, dầu lạc mang vào các thổ mua buôn ở phường Đồng Xuân, phường Đình Ngang, phường Đông Tác - những nhà ở phường này lại quảy dần đi bán lẻ rao khắp các phố. Những thứ hàng cồng kềnh ấy để ngoài cửa, cả trên những vè rễ đề. Riêng những dãy tơ Phùng mang vào Sài Bái, Nghĩa Đô hay chợ tơ đình hàng Đào, những thúng cau khô, những buộc trầu vỏ đỏ chóe bọc lá chuối khô, những cửa hàng hoa ấy được người ta đem vào chất cẩn thận sát vách cuối ổ rơm. Mời các bạn đón đọc Quê Nhà của tác giả Tô Hoài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lá Ngọc Cành Vàng - Nguyễn Công Hoan
Nga là con nhà quyền quý, lá ngọc cành vàng. Một lần Nga gặp gỡ Chi nghèo nàn rách rưới nhưng nhân cách hơn người. Ngay từ lần đầu gặp mặt Nga đã cảm mến Chi, rồi thẩn thờ chờ đợi mong gặp Chi.  Hẹn Chi lại nhà để cho sách, nhưng Chi lãnh đạm không dám vọng tưởng nên không dám gặp gỡ.  Nhưng vì thế Nga lại càng thương Chi, rồi dò hỏi, Nga biết Chi tài giỏi lại có nhiều đức tính tốt, lại càng thương Chi. Nga mơ màng được người chồng như Chi, nhưng biết gia đình phân biệt giai cấp, mộng tưởng sẽ ko thành.  Càng nghĩ ngợi, càng mơ mộng, càng dò hỏi, Nga càng thất vọng rồi sinh ra ngây dại.  Vì muốn cứu Nga, chú Tham giấu cha mẹ Nga cho Chi lại thăm. Nga khỏi bệnh nhưng có mang với Chi. Ông bà Phủ nhất quyết không cho cưới, bắt Nga uống thuốc thôi thai.  Đau đớn, cô độc, tuyệt vọng, Nga chết trong rên rỉ. Chết trong sự giá lạnh của tư tưởng gia thế con ông cháu cha *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Mời các bạn đón đọc Lá Ngọc Cành Vàng của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Cham Vào Tương Lai - Jay Asher
Josh và Emma là hàng xóm của nhau, thuở nhỏ rất thân thiết nhưng khi lớn lên, họ lại trở nên xa cách. Emma đã có bạn trai nhưng Jossh vẫn âm thầm theo đuổi cô. Mọi chuyện bắt đầu vào một ngày, gia đình Jossh nhận được chiếc đĩa AOL CD-ROM cài chương trình miễn phí. Và mẹ của cậu đã tặng nó cho Emma để cô cài vào chiếc máy tính mới của mình. Emma đăng nhập vào chương trình và nó đã dẫn đến những điều mà cô không thể ngờ được. Nó giống như mạng xã hội mà cô vẫn thường chơi, nhưng những thông tin của cô trên trang đó alij cho thấy đó không phaior cô bé của hiện tại mà là cô của 15 năm sau. Và, chồng của Emma, không ai khác là Jossh trong tương lai. Vậy là, thật bất ngờ, họ đã chu du vào tương lai của chính mình. Và, trong khi đối mặt với cả hiện tại và tương lai, họ nhận thức được rằng, mọi hành vi, quyết định của hiện tại đều sẽ ảnh hưởng đến tương lai một cách mật thiết. Tương lai biết trước giống như một lăng kính để họ biết sống tốt cho hiện tại hơn. *** Jay Asher, sinh tại Arcadia, California năm 1975, là cây bút chuyên viết truyện cho lứa tuổi vị thành niên, tác giả của cuốn sách bestseller Thirteen Reasons Why (dịch: Mười ba lí do tại sao, 2007) trên New York Times. The Future of Us (tạm dịch: Tương lai của chúng ta, 2011) là cuốn sách thứ hai của anh và đang được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. *** Hôm nay chưa thể chia tay với Graham được dù đã bảo với tụi bạn là lần tới gặp mình sẽ làm. Thay vào đó, mình trốn tịt trong phòng ngủ, cài đặt chương trình cho chiếc máy tính mới trong khi cậu ta chơi ném đĩa ở công viên bên kia đường. Bố vừa chuyển đến cho mình chiếc máy tính này làm quà chuộc lỗi lần nữa. Mới tuần vừa rồi bố trao tận tay mình chùm chìa khóa chiếc Honda cũ trước khi cùng dì chuyển từ trung tâm Pennsylvania đến Floria để bắt đầu cuộc sống mới. Hai người vừa sinh con đầu lòng, và thế là mình nhận được chiếc máy tính đời Window 95 kèm theo một màn hình màu. Mình đang mải thử nhiều kiểu màn hình chờ khác nhau thì có tiếng chuông. Mình để mẹ ra mở cửa vì vẫn chưa quyết định được nên chọn kiểu tường gạch hay ống nước. Mong sao không phải là Graham. “Emma!” Mẹ gọi lớn. “Josh tìm con đấy.” ... Mời các bạn đón đọc Cham Vào Tương Lai của tác giả Jay Asher.
Ý Trung Nhân Tình Cờ - Kristan Higgins
Buổi sáng, biết tin Mark, người trong mộng suốt 15 năm, chính thức có người yêu mới, buổi tối, đón sinh nhật lần thứ 30 cùng cả nhà...tại nhà tang lễ, chắc hẳn không phải những điều Callie mong muốn. Nhưng biết làm sao được, "đời không như là mơ"! Đi nữa hay quay về - tìm cách giành lại Mark hay quên đi để bước tiếp? Với một cô gái lãng mạn, tình cảm, người thậm chí coi một chiếc ghế đu làm thủ công là biểu tượng cho "tình yêu vĩnh cửu" như Callie thì con đường mà nàng chọn cũng không khó đoán. Chỉ có điều, con đường ấy, với những lắt léo, gập ghềnh, với những nụ cười nước mắt, có thực sự dẫn Callie đến với những điều mà nàng mong mỏi? Với lối viết tinh tế và hóm hỉnh đã thành thương hiệu của mình. Kristan Higgins sẽ mang đến cho người đọc một câu trả lời nhẹ nhàng ý nghĩa nhưng cũng không thiếu bất ngờ... *** Khi đọc giới thiệu nội dung thì thấy khá bình thường, nói chung là đọc được, không quá hấp dẫn tới mức khiến mình phát cuồng phải mua luôn và ngay và cho bằng được. Nhưng khi bắt đầu đọc thì mình thực sự bị lôi cuốn. Cái cách Callie tình cờ gặp Ian hết lần này đến lần khác phải chăng là định mệnh?. Và cuối cùng mình đã tìm ra câu trả lời. Hai người họ không phải kiểu sinh ra dành cho nhau mà thuộc dạng mảnh ghép hoàn hảo của nhau. Nghĩa là cả hai đã trải qua đổ vỡ, đã đau khổ nên mất nhiều thời gian để vượt qua và thêm ngàn lần khó khăn để bắt đầu với một người mới, đặc biệt là với Ian. Tình cảm nảy sinh và phát triển dần dần chẳng biết từ lúc nào, họ đến với nhau dù chậm nhưng chắc. Mình rất thích kiểu tình yêu như thế, nó an toàn và bền vững hơn kiểu nhìn thấy nhau cái là yêu luôn í. Tất nhiên là có những cặp tình yêu sét đánh sống với nhau đời đời kiếp kiếp nhưng hiếm lắm, thường thì khá chóng vánh, “easy come easy go” mà. Một điểm đặc biệt ở cuốn sách này đó là tác giả còn đan xen tình cảm gia đình lẫn tình yêu từ thế hệ ông bà, bố mẹ đến Callie. Mình đã phát khóc khi đọc đến đoạn ông nội qua đời. Tuy chỉ đọc thôi nhưng mình có thể cảm nhận được sự mất mát của Callie cũng như tình yêu của cô dành cho ông hay cho cả gia đình. Nên mình cực tâm đắc cuốn sách này. Chân thành, đơn giản nhưng cực tình cảm và không hề kém phần lãng mạn. Điều quan trọng ở mỗi cuốn sách là khiến cho bạn đọc cảm nhận được một cách chân thực nhất và Kristan Higgins đã thành công, ít nhất là đối với mình ???? Tuy nhiên cuốn này chưa đủ in đậm vào tâm trí mình, hay thì có hay nhưng cốt truyện nhẹ nhàng, lại có chút man mác buồn nữa. Mình vẫn thích kiểu nội dung thần bí, nguy hiểm chút nó mới ly kỳ. Có lẽ tiểu thuyết trinh thám lãng mạn thích hợp với mình hơn :))   Mời các bạn đón đọc Ý Trung Nhân Tình Cờ của tác giả Kristan Higgins.
Bài Ca Mừng Giáng Sinh - Charles Dickens
Giáng sinh đã đến, mặc những cơn gió giá buốt, tuyết rơi dày, ngọn lửa vẫn ấm đượm trong mỗi căn nhà và sưởi ấm mỗi người. Nhưng lão Scrooge keo kiệt, xấu tính với tâm hồn lạnh lẽo hơn cả băng giá tháng 12 chỉ chực chờ cơ hội để tống cổ lễ Giáng sinh ra khỏi cửa.   Mọi chuyện thay đổi khi các vị khách siêu nhiên gồm Hồn ma vất vưởng Jacob Marley và ba Hồn ma của Giáng sinh: Quá khứ, Hiện tại và Tương lai tới thăm Scrooge. Cuối cùng, lão Scrooge lạnh lẽo, cáu bẳn đã trở thành một người mang giá trị nhân ái của Giáng sinh lan tỏa đến mọi người. Câu chuyện ma về Giáng sinh gửi thông điệp về sự tuần hoàn của thiên nhiên và giá trị tình yêu thương. Chính Scrooge là hiện thân của mùa đông khắc nghiệt. Nhưng mùa đông nào cũng phải qua đi để mùa xuân tươi vui rộn ràng tới. Vì thế Scrooge có băng giá, hà khắc tới đâu, trong sâu thẳm vẫn lấp lánh ngọn lửa thiện ấm áp tình yêu thương, tới thời điểm nào đó sẽ bùng lên mạnh mẽ.  Bài ca mừng Giáng sinh là tác phẩm kinh điển về mùa Giáng sinh của nhà văn Charles Dickens, từng được đánh giá là một trong 100 tiểu thuyết vĩ đại nhất mọi thời. Tác phẩm có tên tiếng Anh là A Chrismas Carol, từng được dịch sang tiếng Việt với tên Hồn ma đêm Giáng sinh.  *** Trong các tác phẩm của Charles Dickens, ông luôn nêu bật tính đạo đức của mùa lễ hội. Ông tin rằng trong một thế giới thương mại phát triển không ngừng, chỉ bằng cách vun đắp sự nhạy cảm, trí tưởng tượng của tuổi thơ, con người mới có thể giữ được những xúc cảm có giá trị đích thực. Cuốn sách này rút ra từ những kỷ niệm, những nỗi sợ trong thời thơ ấu, rất quen thuộc với từng người đọc và đến với từng trái tim. Với Dickens và gia đình ông, Giáng sinh là thời gian tưng bừng, và những chuyện kể về Giáng sinh của ông trở thành món quà thiện chí hàng năm ông gửi đến bạn đọc. Ý tưởng viết những câu chuyện dành riêng cho dịp Giáng sinh nảy sinh từ nhận thức của Dickens về mối quan hệ giữa ngu dốt, nghèo đói và niềm tin của ông rằng giáo dục sẽ chữa trị cho những yếu kém của xã hội đương thời tại Anh. Phần lớn các câu chuyện này kết nối mối quan tâm trong xã hội thời đó của Dickens với những truyền thuyết về ma quỷ mùa Giáng sinh của tuổi thơ. Bài ca mừng Giáng sinh là truyện nổi tiếng nhất trong các truyện này. Là một câu chuyện hết sức lôi cuốn, thông qua sự can thiệp của những bóng ma trong giấc mơ của nhân vật Scrooge, đã biến trạng thái thù địch của tính hám lợi, tham lam trong buôn bán thành hiện thân của niềm vui Giáng sinh. Câu chuyện kết thúc trong sự ấm áp, thân thiện rất đặc trưng trong các sáng tác hồi đầu của Dickens. Với toàn thể nhân loại, phẩm chất tốt đẹp của sự hào phóng và thiện chí kết hợp một cách truyền thống với lễ Giáng sinh, được coi như thuốc giải độc cho thái độ khắt khe, tàn nhẫn tràn lan trong giới thương nhân thời Victoria. Bài ca mừng Giáng sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ “như một bài thuyết giảng diễn ra trong mơ”. Charles Dickens sinh ngày 7 tháng Hai năm 1812 tại Landport, gần Portsmouth, Hamsphire. Ông là con thứ hai trong gia đình tám người con. John, cha ông là nhân viên Phòng Tài vụ Hải quân Portsmouth. Theo tiêu chuẩn thời đó, gia đình ông không nghèo, song đã trải qua hàng loạt khủng hoảng tài chính kèm theo nhiều bất ổn trong xã hội. Thời thơ ấu của Dickens trôi qua tại Portsmouth, London và Chatham ở Kent, nơi có một bến cảng lớn. Năm 1823, đương đầu với sự đổ nát về tài chính, gia đình Dickens dọn đến London và ngày 5 tháng Hai năm 1824, Charles bắt đầu làm công việc dán nhãn tại một nhà kho chứa xi đánh giày ở Hungerford Stairs, với mức lương sáu silinh* một tuần. Trước đó ít lâu, cha của Charles bị bắt giữ vì nợ nần, và cả nhà - trừ Charles - đều đến ở cùng ông trong nhà tù dành cho những người mắc nợ tại Marshalsea. Nỗi đau này của gia đình cùng công việc vất vả đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và thế giới quan của Charles, và ám ảnh đến suốt đời. Ba tháng sau, ông John Dickens được thả vì tuyên bố vỡ nợ. Năm Charles mười hai tuổi, cậu được gửi đến trường. Cậu học rất giỏi và năm mười lăm tuổi, cậu bắt đầu làm việc trong một Công ty Luật ở Gray’s Inn. Charles tự học tốc ký và năm mười tám tuổi, khởi nghiệp phóng viên tự do tại tòa Doctors’ Commons. Năm mười bảy tuổi, Charles yêu say đắm Maria Beadnell nhưng mối tình ấy không được đền đáp, trong khi sự nghiệp của ông phát triển rạng rỡ. Những bài tường thuật cấp tốc và chính xác các cuộc tranh luận tại Hạ viện trên tờ Morning Chronicle và nhiều bài phê bình xuất sắc các tác phẩm văn học đã khiến ông được nhà xuất bản Chapman & Hall đặt viết bài hàng tháng cùng chuyên mục giải trí của nghệ sĩ Seymour. Charles thành công rực rỡ với tác phẩm Những chuyện phiêu lưu của Pickwick xuất bản năm 1836 - 1837, tiếp theo là nhiều tác phẩm nổi tiếng khác. Năm bốn sáu tuổi, Charles Dickens chia tay với vợ, họ có mười người con. Cùng thời gian đó, ông bắt đầu những buổi đọc các tác phẩm nổi tiếng của ông. Sức khỏe của ông bị ảnh hưởng nhiều vì những buổi đọc truyện căng thẳng - tuy rất được hâm mộ, kèm thêm chuyến đi xuyên Mỹ năm 1867- 1868 khiến ông suy sụp. Ngày 8 tháng Sáu năm 1870, ông bị đột quỵ tại nhà riêng ở Gad’s Hill gần Rochester, Kent và hôm sau ông qua đời, thọ 58 tuổi. Mời các bạn đón đọc Bài Ca Mừng Giáng Sinh của tác giả Charles Dickens.