Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Có Một Loại Yêu Ai Dám Nói (Vô Xứ Khả Đào)

Khi tuổi còn trẻ, cô không biết nên sùng bái anh như thế nào, vì thế lựa chọn phản bội. Phản bội, có được danh lợi, cùng với tất cả những khát vọng mà cô ao ước, thế nhưng nỗi đau chôn giấu tận đáy lòng lại chưa bao giờ ngưng hẳn, cho đến tận khi gặp lại…… Cách một đoạn tình cũ bị phản bội, tất cả quên lãng, mưu mô, trả thù, thương tổn đều xảy ra quá tự nhiên. Chẳng qua là, bên bờ vực đó, tình yêu đã nảy mầm rồi.

Cuối cùng khi chúng ta biệt ly tâm đã động, khắc ghi ở giữa tháng năm. Chúng ta thà cứ ôm lấy vết thương, cũng không muốn quên đi. Tình cũ của em, anh vĩnh viễn sẽ không biết được, em sẽ im lặng suốt đời, không dám nói ra, chỉ có yêu.***

“Theo tin tức của các bên có liên quan, hai ngày trước khi vượt Ni Tát ở thành Ma Quỷ, nghiên cứu viên trẻ tuổi Đỗ Vi Ngôn của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc(1) mất tích đến nay vẫn không rõ tung tích. Chính phủ đã điều động trực thăng để tìm kiếm ở tầng trời thấp trên diện rộng, còn trên mặt đất, điều động hơn mười chiếc xe việt dã, phạm vi tìm kiếm khoảng 4000 kilomet vuông. Trong đó khu vực chung quanh cách địa điểm xảy ra tai nạn khoảng 30 km được lấy làm trọng điểm tìm kiếm, tiến hành phân tách thành các mảng để rà soát. Nhưng cho tới bây giờ, vẫn không tìm thấy nhân viên mất tích ở bất cứ đâu.”

Khi tin tức này phát trên ti vi, trời đang chạng vạng, thời điểm nhà nhà lên đèn.

Trong viện nghiên cứu thông tin ngôn ngữ thành phố Thiên Doãn, tỉnh Lâm Tú còn có người chưa tan tầm. Nhân viên công tác trẻ tuổi Tiểu Lương tiếp nhận hết cuộc điện thoại này đến cuộc điện thoại khác, ngẩn người nhìn chuyên đề tin tức trên trang web, một lúc lâu sau, cô với tay tắt máy tính, lặng lẽ nghĩ: Vi Ngôn, cậu phải trở về. Trước đây nhiều khó khăn đến thế đều vượt qua được, ở đây còn có nhiều việc phải làm như vậy, cậu… sẽ không sao đâu. Tìm mua: Có Một Loại Yêu Ai Dám Nói TiKi Lazada Shopee

Trong một khu dân cư phổ thông bình thường ở Minh Võ, thị xã phía nam thành phố Thiên Doãn, một bé trai vừa mới làm xong bài tập. Trước chiếc ti vi màu duy nhất trong nhà, ông nội ngồi thẳng mình xem vô cùng chăm chú. Trong TV xuất hiện một bức ảnh, rất quen thuộc…Trong chốc lát Trương Hiểu Hiểu có chút sững sờ, kéo tay ông nói: “Ông ơi, đây chẳng phải là… cô giáo Tiểu Đỗ sao?”

Khi nhắc tới cái tên này, chẳng biết Trương Hiểu Hiểu nhớ đến điều gì, khuôn mặt nho nhỏ cau lại, “Cô… gặp chuyện không may ạ?”

Ông cụ vẫn không lên tiếng, vẻ mặt phức tạp kéo tay cháu trai, chậm rãi nói: “Không có gì đâu. Cô giáo Tiểu Đỗ là người tốt… Cô ấy sẽ không sao cả.”

Còn ở Châu Âu cách xa thiên sơn vạn thủy, vì lệch múi giờ, đang là đêm khuya. Trần Vũ Phồn ngồi thật lâu trong sân nhà, vẫn không nhịn được gọi điện thoại cho Giang Luật Văn: “Xem tin tức chưa?” Bên kia không nói gì, cộ lại tiếp tục hỏi một câu: “Thật sự… không có tin tức gì sao?”

Giọng Giang Luật Văn dường như có chút mệt mỏi: “Anh ta đã đi sang bên đấy rồi, có thể tìm về hay không, hiện giờ không ai biết được…”

Bất ngờ là Trần Vũ Phồn không nói gì cả, chỉ “Vâng” một tiếng. Cho dù là giờ phút này, cô vẫn không có thiện cảm với Đỗ Vi Ngôn. Nhưng cô hiếu kì, người đàn ông tưởng chừng không gì không làm được kia, rốt cuộc có thể tìm Đỗ Vi Ngôn về không?

Trên máy bay đi Ni Tát ở phía tây bắc Lâm Tú, chàng trai trẻ tuổi vươn tay mở cửa che sáng của máy bay. Tay áo sơ mi của anh xắn đến khuỷu tay, cổ áo nới lỏng, trong nháy mắt ánh sáng chiếu vào, anh nhẹ nhàng khép mi, nhắm mắt lại, biểu cảm trên mặt trầm tĩnh như nước. Đây là lần thứ tư tiếp viên hàng không đi qua bên người anh, cũng là lần thứ tư anh gọi cô ta lại, thấp giọng hỏi giờ.

Đứng trước người đàn ông trẻ tuổi khôi ngô thế này, tiếp viên hàng không hơi đỏ mặt, nhưng không mất bình tĩnh, dịu dàng nói: “Còn 40 phút nữa, máy bay sẽ hạ cánh.”

Anh gật đầu nói lời cảm tạ. 40 phút… Còn có 40 phút, khoảng giữa anh và cô có thể gần thêm chút nữa, chí ít cũng có thể làm được điều gì đó, không phải vô vọng chờ đợi ngoài ngàn dặm xa.

Thân máy bay nhẹ nhàng rung lên, thuận lợi hạ cánh. Anh đứng lên, môi mỏng nhếch thành một đường mỏng manh trông tựa lưỡi đao.

“Hoan nghênh qúy khách lần sau tiếp tục ngồi hàng không XX…” Tiếp viên hàng không ở cửa tiễn đưa tươi cười ngọt ngào.

Nhưng dường như anh không nghe thấy, lúc này, chắc chẳng có gì có thể thu hút sự chú ý của anh… Anh bước vội vàng, bóng dáng cao gầy rất nhanh biến mất trong màn đêm.

Ni Tát, thành Ma Quỷ ở nơi tây bắc rộng lớn tràn ngập đủ loại tiếng động cơ gầm rú.

Từ khi Đỗ Vi Ngôn mất tích đến nay đã hai ngày rồi.

Dựa vào các báo cáo, trước ngày bắt đầu vượt qua Ni Tát tổ khảo sát ngôn ngữ của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cũng dự tính là sau bốn ngày sẽ tới một địa điểm khác của thành Ma Quỷ. Mục tiêu khoa khảo lần này, là khảo sát ngôn ngữ của một tộc người Tây Bắc xưa nay vẫn ẩn cư ở giáp ranh đại mạc. Nhưng ngay ngày thứ hai khi vừa mới tiến vào Ni Tát, trong một lần dừng xe nghỉ ngơi chỉnh đốn đội ngũ, nữ thành viên duy nhất trong tổ là Đỗ Vi Ngôn đi chụp ảnh một khu vực mang địa mạo rãnh máng (2), không may lạc mất đội ngũ. Đồng nghiệp đã xác nhận là cô không mang theo bất cứ đồ ăn nước uống nào. Điều này có nghĩa là, trong hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt ở sa mạc, thời hạn sống còn sẽ không vượt qúa ba ngày.

Công tác tìm kiếm đã tiến hành suốt một ngày. Trên tivi chiếu đến cảnh máy thăm dò kim loại trong tay nhân viên tìm kiếm vang lên, đào các lớp đất lên, cuối cùng phát hiện hóa ra chỉ là một cái lon vứt đi đã lâu. Khi được phóng viên phỏng vấn, chuyên gia vô cùng lo lắng nói: “Những mỏm đá lớn trong thành Ma Quỷ có cấu tạo và tính chất đất rất xốp, trải qua thời gian dài gió thổi nắng chiếu, có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Chúng tôi lo lắng người mất tích bởi vì sức cùng lực kiệt mà tránh ở chỗ râm mát phía dưới những mỏm đá này nghỉ ngơi. Nếu như bị mỏm đá sụp đổ vùi lấp, thổ tầng có khả năng sâu đến 2-3 thước. Nếu đúng là như thế, đối với công tác tìm kiếm cứu trợ của chúng tôi, hy vọng cũng rất mong manh…”

Nhân viên tìm kiếm đều từng xem tấm hình của Đỗ Vi Ngôn. Đó là bức ảnh tập thể chụp tất cả đội viên trước khi tiến vào Ni Tát ở thành Ma Quỷ. Cô đứng ở hàng trước, mỉm cười hướng về phía ống kính, núm đồng tiền thật sâu lộ ra trên gương mặt, quả là một cô gái trẻ tuổi xinh đẹp. Chính dáng vẻ này là nguyên nhân khiến cho tất cả mọi người có mặt ở đây càng nghĩ càng cảm thấy thương tiếc.

Một lượt tìm kiếm cứu hộ trong khoảng thời gian này đặc biệt quan trọng - thời gian sống còn quý giá nhất sắp qua đi, nếu vẫn không thể tìm được, hy vọng sống sót của cô sẽ vô cùng thấp.

Đội viên đội cứu viện bắt đầu đăng ký cử xe đi tìm kiếm cứu hộ lượt này. Nơi không xa, có một chiếc việt dã xe nâng nắp capô, chạy về hướng đông bắc.

“Hướng đông bắc, dẫn đội là ai?”

“Ở đây nhé, đánh số mười bốn.” Có người trung niên nâng tay, “Lập tức xuất phát.”

Người nọ nghi hoặc nâng ngẩng đầu: “Ơ? Chiếc xe kia do ai điều khiển?”

Đoàn người ngơ ngác nhìn nhau. Cho đến khi có người nói: “Ấy, người thân của Đỗ Vi Ngôn vừa rồi đuổi theo đâu?”

Có người nhớ lại đó là một chàng trai tuổi còn trẻ, từ phía nam tỉnh Lâm Tú vội vã đuổi theo, nhảy xuống xe việt là xem xét bản đồ trong lều trại chỉ huy cứu viện luôn, sắc mặt u ám giống như mưa gió sắp đến.

“Anh ta… sẽ không tự mình lái xe đi tìm chứ?” Có người lắp bắp nói, “Người dẫn anh ta đến đâu? Người đâu?”

Trong thành Ma quỷ đầy những mỏm đá lớn hình thù kỳ quái, màu nâu vàng, bị ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn quét qua, lại mang một loại rỉ sắt màu đỏ. Đỗ Vi Ngôn biết rõ lúc này cô không thể nằm ở dưới những mỏm đá râm mát. Những tầng trầm tích chưa thành đá lẳng lặng đứng sừng sững này nhìn như vô hại, nhưng một khi sụp đổ, có lẽ chỉ cần trong nháy mắt.

Cô cảm thấy môi mình đã rạn nứt, có một giọt máu ứa ra, trong nháy mắt đã bị nhiệt độ cao nơi sa mạc làm bốc hơi, chỉ kết thành lớp rất mỏng trên môi, còn hiện ra những vẩy máu tanh.

Chẳng lẽ thật sự sẽ phải bỏ mạng ở chỗ này sao? Cô mệt mỏi nghĩ, khóe môi khe khẽ động, môi lại tiếp tục rách ra đau đớn. Cô chậm rãi ngồi xuống, cát sỏi dưới thân mình nóng bỏng đáng sợ, cách một lớp vật liệu may mặc, da thịt chính mình dường như bị nướng chín cả… Cô không hề hoài nghi rằng thật sự sẽ có người bị phơi nắng thành thịt khô ở nơi đây.

Mà lúc này, còn sót lại một cọng rơm lót trên lưng lạc đà.

Không, không phải là rơm. Là một con rắn thôi.

Tạo hóa lúc nào cũng thần kỳ như thế, tại đây, trong hoàn cảnh tàn khốc này, cũng có loài động vật sinh mệnh ngoan cường sống sót, bất cứ lúc nào cũng có thể hướng về phía người quấy nhiễu nhe răng nanh ra.

Nơi nó nằm cách chỗ chính mình hai ba thước, đầu rắn ngóc lên cao cao, lưỡi dài nhỏ giữa đầu rắn phun ra nuốt vào, giống như là một dụng cụ tinh vi. Đỗ Vi Ngôn nhớ lại những cách cấp cứu thường biết, cô muốn trấn tĩnh, cố gắng không di chuyển thân thể… Nhưng con rắn kia, hình như đang chậm rãi tới gần, thân hình hình chữ S để lại phía sau vết nước miếng trăng trắng nhờ nhờ.

“Mạc Nhan… Thật xin lỗi…” Đỗ Vi Ngôn dời tầm mắt khỏi thân mình con rắn kia, chuyển qua vầng dương như bánh xe vĩnh viễn không bao giờ hạ xuống, lòng thầm nói, “Thật xin lỗi, anh đã đợi lâu như vậy, nhưng có lẽ sẽ khiến anh thất vọng…”

Đây là khoảnh khắc trước khi sinh mệnh sắp kết thúc chăng.

Rất nhiều chuyện không thể ngăn lại từ trong đầu hiện ra, cố chấp của anh, trốn tránh của cô, vận mệnh chung của họ… Giờ đây cô không phải lựa chọn nữa rồi, như thế cũng tốt lắm.

*Chú: (1) Chinese Academy of Social Sciences (CASS) (2) Yardang landform (formed by wind erosion).Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Vô Xứ Khả Đào":Có Một Loại Yêu Ai Dám NóiGió Nghiêng Mưa Nhẹ Chẳng Nên VềMột Giây Rung Động Cả Đời Không QuênNgự Phồn HoaTrở Về Nơi Tình Yêu Bắt Đầu

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Có Một Loại Yêu Ai Dám Nói PDF của tác giả Vô Xứ Khả Đào nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Mồ Hôi Nước Mắt (Nguyễn Vỹ)
Ánh đang ủi đồ, một đống quần áo của người lớn lẫn trẻ con để bên cạnh. Lúc ông giáo sư Ngọc-Minh nắm bàn tay Ánh, Ánh khẽ hất ra. Ánh biết rằng ông Ngọc-Minh không toan tính điều gì bất lương. Nhưng một chút cử chỉ thân thiện đó cũng đã làm cho Ánh hoảng sợ rồi. Ánh vùng đứng dậy chạy xuống bếp. Ông Ngọc-Minh thong thả bước theo. Ánh ngồi trầm ngâm trên ngạch cửa không ngó ông, Ông Ngọc-Minh đứng trước mặt nàng. Ông thò tay vào túi áo lấy ra gói thuốc, đánh lửa châm một điếu hút, rồi nói với con ở: - Xin lỗi Ánh, lúc nãy tôi đã làm phiền lòng Ánh. Ánh cúi đầu làm thinh. Ông giáo sư nói tiếp: - Tôi rất mến Ánh. Tôi để ý đến Ánh lâu rồi, chắc Ánh cũng đã cảm thấy. Ngay từ ngày Ánh vô giúp việc trong nhà này, nghĩa là cách đây sáu tháng, tôi đã hiểu Ánh nên tôi yêu Ánh. Nhưng chỉ yêu âm thầm mà thôi. Nay nhân cơ hội gia đình đi vắng, tôi muốn thú thực với Ánh cảm tình thiết tha chân thật của tôi. Nếu Ánh tin tôi, tôi sẽ thuê phòng riêng để ở với Ánh. Tìm mua: Mồ Hôi Nước Mắt TiKi Lazada Shopee Con ở điềm nhiên không đáp, Ông Ngọc-Minh ngồi xuống ngạch cửa, gần Ánh. Ông âu yếm nhìn vào khuôn mặt hổng hào tuyệt đẹp, khẽ hỏi: - Ánh có yêu tôi không? Ánh ngẩng mặt lên, nghiêm nghị ngó ông: - Tôi không thể yêu ông được. - Tại sao không thể? - Tại hoàn cảnh. - Tôi không thấy hoàn cảnh nào cản trở tình yêu của tôi với Ánh. Ánh biết rằng tôi góa vợ đã hai năm nay và không có con? - Dạ tôi biết. - Vậy thì tôi được tự do yêu Ánh và lấy Ánh làm vợ, có gì ngăn cản đâu? - Ông được tự do, nhưng tôi không được tự do. - Nếu tôi không lầm thì Ánh chưa có chồng. - Dạ, tôi chưa có chồng. - Vậy sao Ánh nói là không tự do? Con ở làm thinh. Ông Ngọc-Minh hơi ngạc nhiên vì những câu trả lời cứng rắn của người tớ gái mười chín tuổi. Rất đẹp và rất hiền lành, thường ngày Ánh ít nói, Lần đầu tiên ông thấy Ánh có cử chỉ và ngôn ngữ khôn ngoan cương quyết không ngờ. Ông gặng hỏi: - Ánh! Tại sao Ánh không được yêu tôi? Hay là Ánh đã có người yêu rồi? Con ở vẫn nghiêm nét mặt: - Dạ không phải. - Thế thì tại sao? - Ông là người trí thức, chắc ông hiểu nhiều. - Tôi thực không hiểu. - Xin ông tha lỗi tôi phải đi ủi đồ khuya rồi, ông Năm bà Năm sắp về. - Hai em tôi dẫn các cháu đi xem xi-nê, 12 giờ khuya mới về. Nhưng Ánh không muốn nói chuyện nữa, Ánh đi thẳng lên phòng giữa, ngồi lặng lẽ tiếp tục ủi đồ, làm công việc bỏ dở ban nãy. Ông Ngọc-Minh đến ngồi cạnh Ánh: - Ánh à, tôi muốn biết tại sao Ánh không được tự do yêu tôi, trong lúc tôi thiết tha yêu Ánh? - Thưa ông, tôi chỉ là đứa đầy tớ, tôi đâu có quyền được yêu một người ở giai cấp giàu sang, một bậc trí thức thượng lưu. - Tôi không cần giai cấp. Tôi không phân biệt giai cấp. Tôi chỉ biết Ánh là một thiếu nữ như tất cả các thiếu nữ khác. Ánh lại có tư cách đứng đắn, ngôn ngữ đoan trang, nết na hiền lành, và Ánh có đi học, đã ở Đệ-Tứ. Ánh có học thức, chỉ tại vì số phận quá hẩm hiu cực khổ nên Ánh phải đi ở mướn tạm một thời gian thôi. Tôi biết rõ hoàn cảnh của Ánh lắm chớ! Ánh ngạc nhiên: - Tại sao ông biết? Tháng bảy vừa rồi, bà cô của Ánh đến thăm Ánh, trong lúc Ánh đi chợ, Ánh có nhớ không? Nhân vui miệng với em tôi, bà đã kể hết chuyện của Ánh cho em tôi nghe. Ngồi ở pbòng khách tôi được nghe rõ cả. Do đó, tôi được biết rằng ba má của Ánh là người lao động ở một ngõ hẻm xóm An-Bình. Hồi nhỏ Ánh đi học đã được thầy thương bạn mến, vì Ánh học giỏi và hạnh kiểm tốt nhất trong lớp, Ánh đã đỗ bằng tiểu học và học đến lớp Đệ-Tứ thì ba của Ánh chết vì tai nạn lao động trong xưởng máy. Ánh phải thôi học, kiếm việc làm ở đâu cũng chưa được nên phải ở nhà giúp đỡ mẹ. Sau, Ánh đi bán hàng ở cầu Muối. Mẹ Ánh thì làm công trong một hãng thuốc lá. Rồi hai năm sau mẹ Ánh tái giá, gặp phải người chồng lưu manh, chỉ cờ bạc rượu chè, và giao du với bọn đàng điếm. Nhiều lần cha ghẻ bắt ép Ánh đi làm nghề mãi dâm do y kiếm mối. Ánh cự tuyệt và hai lần phải bỏ nhà trốn đi đến nhà bà cô. Ánh muốn học đánh máy chữ để dễ kiếm việc làm, nhưng không có tiền. Ánh phải gánh nước thuê ở xóm Bàn-Cờ. Rồi có lần Ánh nhớ mẹ, về thăm mẹ thì mẹ Ánh đi vắng, người cha ghẻ khốn nạn lại ép buộc Ánh làm nghề mãi dâm. Ánh cương quyết không chịu liền bị y đánh đập tàn-nhẫn đến đỗi lổ đầu sưng mặt. Người cha ghẻ vũ phu, vô lương tâm, đạp Ánh té nhào xuống cạnh chum nước, Ánh nằm bất tỉnh, tưởng như chết rồi. May nhờ hai bà hàng xóm kêu xe chở Ánh vào nhà thương. Ở bệnh-viện ra, Ánh không về nhà cha ghẻ nữa, trốn đến nhà bà cô ở ngõ hẻm Bàn-Cờ. Từ đó Ánh đi ở mướn để kiếm tiền độ thân. Ánh xem, tôi biết rõ hoàn cảnh rất đau khổ của Ánh như thế đấy. Vì lẽ đó mà tôi đem lòng thương Ánh và yêu Ánh. Ánh ngồi ủi đồ, hai dòng nước mắt lặng lẽ trào ra trên đôi má hồng, âm thầm rơi xuống áo. Ông Ngọc-Minh khẽ hỏi: - Những điều bà cô của Ánh kể lại như thế có đúng không, Ánh? Ánh ngưng bàn ủi, gục đầu vào tường, khóc nức nở. Ông giáo sư bảo: - Ánh à, với tôi Ánh không phải một kẻ ty tiện đâu. Tôi coi Ánh như một người bạn gái đau khổ, vì nghèo, phải, chỉ vì NGHÈO, mà chịu cảnh lầm than cực nhọc! Tôi không có quan niệm giai cấp. Tôi chỉ có quan niệm LÀM NGƯỜI. Cho nên tôi thành thật đem lòng yêu Ánh, và tôi muốn giúp đỡ Ánh tìm hạnh phúc mà mọi người đều có quyền được hưởng, mọi người đều phải có, không phân biệt ở từng lớp nào, không chia ranh giới một giai cấp nào. Ánh có tin lời nói của tôi không? Ánh càng khóc, nước mắt càng chảy ràn rụa. Ông Ngọc-Minh xúc động, âu yếm hỏi: - Ánh à, nếu tôi thành thật muốn cưới Ánh, thì Ánh nghĩ sao? Ông Ngọc-Minh hỏi đi hỏi lại ba lần, Ánh chỉ khóc mà không trả lời. Ông hỏi nữa, Ánh lau nước mắt, khẽ nói: - Thưa ông, ông có lòng tốt nói vậy, nhưng tôi đâu dám nhận. - Tại sao? - Tại vì tôi là một đứa ở. Tôi là hạng người hèn hạ như ông thấy. - Tôi đã nói với Ánh rằng tôi không nghĩ như thói thường nhiều người đã nghĩ. Quả thật trong xã hội có những thành kiến giai cấp quá vô lý, nhưng tôi sẽ tỏ cho mọi người thấy rằng, không giai cấp nghèo và giàu, không có giai cấp tư bản và vô sản, mà chỉ có giai cấp lương thiện và bất lương, chỉ có giai cấp quân-tử và tiểu-nhân, chỉ có giai cấp cao thượng và đê tiện, chỉ có giai cấp ở phẩm giá của con người mà thôi. Trước mắt tôi, một thiếu nữ nghèo nàn mà tính tình cao đẹp như Ánh, có tư cách đứng đắn, đoan trang như Ánh, là đáng quí, đáng trọng hơn một tiểu thơ khuê các ở nhà cao cửa rộng, đi xe hơi Mỹ, mà tính tình bất hảo, tư cách đê tiện, phẩm giá hèn hạ. Tôi đánh giá trị con người không phải với những hào nháng bề ngoài của vật chất, mà với giá trị tinh thần và đạo đức. - Thưa ông, ông nói thế chớ làm sao xóa bỏ những thành kiến giai cấp cho được? Tôi đã nói, tôi không được tự do, bởi tôi bị ràng buộc trong thành kiến giai cấp. Tôi ít học, tôi chỉ thấy thực tế đời người trong xã-hội, cho nên tôi đâu đám mơ tưởng đến danh vọng-cao xa. - Nhưng tôi yêu Ánh, tôi muốn chánh thức cưới Ánh làm vợ, tức là tôi muốn phá tan những thành kiến bất công. - Tôi xin lỗi ông, dù ông thực lòng thương tôi chăng nữa, tôi cũng xin thành thật cảm ơn tấm lòng quá tốt của ông, nhưng thật tình tôi không dám nhận. Bởi lẽ gia đình của ông và xã hội thượng lưu của ông, vẫn khinh bỉ tôi, vì họ chỉ thấy tôi là một đứa đầy tớ, con gái của một người cu-li đi làm thuê ở mướn. Thưa ông, tôi hiểu như thế cho nên tôi phải giữ giá trị của tôi. Thà rằng tôi cam phận tôi đòi, một ngày kia tôi có lấy người chồng cu-li chăng nữa, cũng không ai khinh tôi được. Tôi tuy là ít học nhưng tôi cũng biết gìn giữ danh giá của một người con gái. Tôi vẫn thường nghe người ta nói rằng tình yêu không có giai cấp, nhưng tôi phải tự biết thân phận tôi ở một địa vị hèn hạ, thấp kém mọi bề, tôi đâu có tham vọng lớn lao. - Nhưng một khi tôi yêu Ánh, thì Ánh có quyền yêu tôi chớ, Ánh có quyền tỏ cho mọi người thấy rằng một cô gái nghèo cũng có thể là một người vợ tốt, một người mẹ hiền, một phụ nữ xứng đáng trong xã hội… Tôi đã nói những ý nghĩ của tôi cho Ánh nghe, tôi mong Ánh suy nghĩ, và hiểu lòng tôi. Tôi mong Ánh sẽ đồng ý với tôi, và Ánh đừng tưởng rằng tôi muốn ve vãn Ánh để làm trò chơi, hoặc lừa gạt Ánh như một kẻ trưởng giả bất lương. Không phải vậy đâu Ánh à. Tôi thật lòng yêu Ánh và muốn lấy Ánh làm vợ, công khai trước gia đình và xã hội. Thôi tôi lên lầu… Ánh suy nghĩ, và mai mốt Ánh trả lời cho tôi biết nhé. Tôi tha thiết chờ đợi câu trả lời của Ánh. Ông Ngọc-Minh chúc Ánh ngủ ngon đêm nay, rồi ông thong thả bước lên lầu, Ánh điềm nhiên ngồi ủi đồ. Một đống áo quần của gia đình bà Năm, Ánh giặt từ lúc sáng sớm, phơi cả ngày, rồi bắt đầu ủi từ lúc chín giờ tối, sau khi dọn rửa chén bát, đến bây giờ mới gần hết. Đồng hồ treo trên tường điềm mười một tiếng đã lâu. Một cây đèn nê-ông gắn trên trần nhà chiếu một ánh sáng xanh dịu xuống căn phòng khá rộng, nơi đây dựng một tủ lạnh, một tủ chứa đồ vặt, và một bao gạo, một xe mô-tô, một bàn máy may, một tủ đựng đồ chơi cho hai đứa con của ông Năm, bà Năm, là em rể và em gái của ông giáo sư Ngọc-Minh. Ông Năm làm chủ sự trong một văn phòng Bộ trưởng với ông giáo Minh đều là công chức vào hàng thượng lưu và trung lưu, bậc « ông » chớ không phải là bậc « thầy » theo thủ tục giai cấp ở miền Nam. Đây là căn nhà giữa, thông qua phòng ăn và phòng khách ở phía trước và nhà bếp ở phía sau. Nơi đây, con ở thường ủi đồ hoặc may vá, làm các việc lặt vặt. Vợ chồng bà Năm kêu con ở bằng « nó », gọi nó là « Con Ánh ». Hai đứa con bà gọi bằng « Chị Ánh ». Riêng ông Ngọc-Minh thì gọi thân mật bằng tên: « Ánh ». Phòng ngủ của Ánh ở kế bếp, có cửa nhưng chật, vừa đủ kê một chõng tre, một bàn con và treo một ngọn đèn mười lăm nến mù mờ, Ánh tuy là đứa đầy tớ đi ở mướn cho gia đình bà Năm mỗi tháng sáu trăm đồng bạc lương, nhưng với tuổi mười chín, Ánh có thân hình nở nang tuyệt đẹp và sạch sẽ, lễ phép, nhu mì. Ông Ngọc-Minh góa vợ đã cảm mến Ánh và yêu Ánh thành thật, hay là chỉ mê sắc đẹp « con nhỏ ở » rồi tìm cách lợi dụng, quyến rũ nó, như trăm nghìn ông chủ nhà khác đã tư tình với con ở, lừa gạt lấy con ở cho có chửa rồi tống cổ nó ra khỏi nhà? Ông giáo sư Ngọc-Minh có thật yêu Ánh hay không, chỉ có lương tâm ông biết mà thôi. Nhưng có điều chắc chắn là làm vinh dự cho ông, là ông không bao giờ khinh khi người nghèo. Thật sự, ông không hề có thành kiến giai cấp và giả sử ông có thật lòng yêu Ánh thì chắc vi hoàn cảnh xót xa đau khổ của Ánh, vì tư cách đứng đắn của Ánh, chứ không phải hoàn toàn vì nhan sắc diễm kiều của cô gái đang tuổi dậy thì. Ông đã lén lút nhiều lần tìm cơ hội để chuyện trò với con ở. Nhưng không có dịp nào ông được toại nguyện cả, vì Ánh cứ tìm cách thối thoát và trốn tránh ông hoài. Ánh không tàn nhẫn đâu, trái lại Ánh rất lễ phép, dịu dàng nhưng Ánh cũng rất cương quyết và khéo léo chối từ. Đã nhiều lần ông muốn tặng Ánh một vài món tiền khi hai trăm đồng khi năm trăm đồng, nhưng không lần nào Ánh nhận. Ánh nhã nhặn cảm ơn ông mà không bao giờ Ánh cầm lấy những tờ giấy bạc mới tinh của ông âu yếm trao tặng Ánh. Một hôm đầu tháng lương ông Ngọc-Minh có mua một chiếc đồng hồ đeo tay của phụ nữ đáng giá gần ba ngàn đồng. Thừa lúc cơm trưa xong, vợ chồng ông chủ sự đã lên lầu, ông Ngọc-Minh lén xuống bếp đưa cho con ở và nói thầm với nó: - Tôi tặng Ánh chiếc đồng hồ này làm kỷ niệm. Nhưng Ánh khẽ bảo: - Thưa ông, ông thật có lòng cao quí, tôi xin đa tạ ơn ông. Nhưng tôi không dám nhận. - Tại sao Ánh không nhận? Tôi thành thật tặng Ánh đây mà. - Dạ, xin cám ơn ông. Nhưng tôi ít có dịp dùng đến đồng hồ. - Tôi đã mua nó để tặng Ánh, có hóa đơn để tên của Ánh đấy. Ánh nhận món quà kỷ niệm nầy cho tôi vui lòng. - Dạ thưa ông, tôi không dám. Nhưng tôi rất cảm ơn lòng tốt của ông. Ánh đi rửa chén bát. Ông Ngọc-Minh khẽ nắm lấy cánh tay con ở, cánh tay trắng nõn nà, xinh xắn làm sao! Nhưng Ánh nghiêm nghị ngó ông: - Thưa ông, xin ông buông cháu ra!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mồ Hôi Nước Mắt PDF của tác giả Nguyễn Vỹ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mây Mùa Thu (Duyên Anh)
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Tìm mua: Mây Mùa Thu TiKi Lazada Shopee Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Duyên Anh":Ảo Vọng Tuổi TrẻĐêm Thánh Vô CùngDzũng ĐakaoGiấc Mơ Một Loài CỏNhà TôiMây Mùa ThuTruyện Ngắn - Duyên AnhVết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa HoangĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mây Mùa Thu PDF của tác giả Duyên Anh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mây Mùa Thu (Duyên Anh)
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Tìm mua: Mây Mùa Thu TiKi Lazada Shopee Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Duyên Anh":Ảo Vọng Tuổi TrẻĐêm Thánh Vô CùngDzũng ĐakaoGiấc Mơ Một Loài CỏNhà TôiMây Mùa ThuTruyện Ngắn - Duyên AnhVết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa HoangĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mây Mùa Thu PDF của tác giả Duyên Anh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mặt Trời Đêm (Lê Xuyên)
Lê Xuyên tên thật là Lê Bình Tăng, sanh ngày 1 tháng 11 năm 1927, tại Ô Môn, tỉnh Cần thơ; năm 1945 đã đậu DEPSI (Diplôme d’étude primaire superieure indochinoise). Từng hoạt động cho Đại Việt Quốc Dân Đảng. Ông vào nghề báo bằng sự giới thiệu của Vương Hữu Đức - Tổng Thư Ký tờ Sài Gòn Mai (1963) với trách nhiệm viết tiểu thuyết trường thiên. Trước đó ông chỉ làm thơ. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên có tên “Chú Tư Cầu” xuất bản năm 1965 và lập tức được đón nhận nồng nhiệt đến độ từ đó người ta gọi ông với biệt danh thân thương là: “Chú Tư Cầu Lê Xuyên”. Tuy nhiên những tác phẩm đi sau cũng bán rất chạy như: Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương (1965), Đêm Không Cùng (1966), Kinh Cầu Muống (1968), Vùng Bão Lửa (1969), Nguyệt Đồng Xoài (1970), v.v.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mặt Trời Đêm PDF của tác giả Lê Xuyên nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.