Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thoạt Kỳ Thủy

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương. Thoạt kỳ thủy, tác phẩm mới nhất của Nguyễn Bình Phương, viết xong từ tháng 8 năm 1995, nhưng đến tám năm sau, tháng 8 năm 2003, tác giả mới "chỉnh sửa" lại để in và để được in, nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã phát hành tại Hà Nội đầu năm 2004. Nghe đâu, phần "chỉnh sửa" cũng mất hàng trăm trang. Đối với một cuốn sách nhỏ, 163 trang, "chỉnh sửa" như thế là nhiều và có lẽ đó là một trong những lý do khiến người đọc đôi lúc có cảm tưởng hụt hẫng, không hiểu gì cả. Nếu Thoạt kỳ thủy được in cùng thời với tập trường ca Khách của trần gian (nxb Văn Học, Hà Nội, 1996) thì có lẽ người đọc dễ tiếp nhận hơn, vì thơ "dẫn" cho văn, văn "vận" vào thơ, bởi Bình Phương là nhà văn có "căn" thơ và giữa hai tác phẩm lấp ló những đầu mối chung của một "luận đề", nếu chúng ta công nhận có một luận đề trong Thoạt kỳ thuỷ. Thoạt kỳ thủy là một cuốn tiểu thuyết khác thường, khó đọc, bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ, một thứ "thoạt kỳ thủy" trong văn chương mang dấu ấn sáng tạo. Nhưng sáng tạo nếu chỉ lạ, chỉ kỳ không chưa đủ, còn phải có gì khác nữa. Vậy đâu là những yếu tố "khác" trong tác phẩm "kỳ thủy" này? Trước tiên, trong Thoạt kỳ thủy, Bình Phương không liên lạc sự kiện, diễn biến với nhau. Trước mỗi bối cảnh, người viết như muốn ở cùng vị trí với người đọc, để cùng quan sát, tiếp thị. Tác giả không đứng ở vị thế chủ thể sáng tạo, mà chỉ muốn là một kẻ ghi chép, không hơn không kém. Mấy ai để ý đến những đứa trẻ? Đến những đứa trẻ chết già này? Ai biết Bình Phương sinh ngày 29/12/1965? Ai biết bối cảnh vào đời, hay vào cõi của những người khách trần gian cùng chung một "thoại kỳ thủy" như Tính? Vậy bây giờ chúng tôi mời bạn vào thăm vùng đất ấy, vùng chôn rau cắt rốn của Tính và những đứa trẻ chết già: Thoạt kỳ thủy, màn mở, chưa thấy người, nhưng bạo lực đã xuất hiện: con cú bị một vật gì bằng ngón tay cái ném trúng ngực, rơi xuống sông, và dòng nước -vẫn thong thả chảy như chẳng có chuyện gì xảy ra- vô tình băng bó vết thương cho con vật. Rồi người xuất hiện, với cử chỉ thô tục (vạch quần đái) làm ô uế dòng nước, làm vẩn đục môi trường, làm tha hóa dương gian với những cục cằn và tàn nhẫn, bằng lời nói và hành động. Phước, người cha, kẻ thống trị trong gia đình, hơi có máu điên, là một tay nghiện ngập, thô lỗ, chỉ biết thượng cẳng chân hạ cẳng tay, lúc thèm rượu gặm đít chén canh cách, sẵn sàng tặng cho con (còn trong bụng mẹ) những cú đá điếng người và thích cho nó nghe (vẫn từ trong bụng mẹ) những âm thanh cục cằn, những lời lẽ coi rẻ mạng người như rác. Những lời khinh mạn khi nói về mạng người "Thiếu đếch gì, còn khối!", vừa như muốn dọa trước: mày còn muốn "chào đời" nữa không? vừa biểu hiện "mặt bằng" của một xã hội lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh nhân mạng, bởi từ trên xuống dưới, chẳng ai coi mạng người ra "cái đếch" gì. Liên, người mẹ, sau khi bị đánh, đi vào núi Hột đập đá. Và nàng cứ chung thân sống kiếp khổ sai đập đá. Liên không có khả năng phản hồi, trong nàng, tất cả đều tê liệt. Trăm phầm trăm tê liệt: Liên thuộc lớp người cầu an, thấp cổ bé miệng, bị ngược đãi, bị bạo hành, nhưng không có cách gì khác ngoài việc cộng sinh với kẻ bạo hành, đẻ ra đứa con là Tính. Liên và Hiền, vợ Tính sau này, là hai người phụ nữ, biểu dương tâm thức cộng đồng, tâm thức bầy đàn, chịu trận. Muốn yên, họ đành câm nín, chịu đựng, sống cho qua ngày. Người tạo ra bạo lực, người dồn nhau trong bạo lực, người sống trong bạo lực, nhưng không chỉ có người dồn người trong bạo lực. Ở đây, cả đến cây, cỏ, chim chóc, cả đá cũng bị bạo hành. Núi Hột bị đập, bị khoét vẹt một nửa "như một cơ thể bị mất thịt, rướm máu".  Thoạt kỳ thủy là một bài thơ dài đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn mộng, viết về hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang đi dần đến toàn phần điên loạn. Khởi đi từ cá nhân một đứa trẻ, lọt lòng mẹ vô tội, đến trưởng thành máu mê, tự diệt. Thoạt kỳ thủy là hậu quả việc trồng người trong môi trường thường trực kích động chiến tranh. Là chuyện nhỡn tiền nhân quả. Là thế giới con người trong vòng u mê, tử khí. Thoạt kỳ thủy khởi tố những cách dìu dắt trẻ thơ về những con đường chém giết, là hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu những nguy cơ của mảnh trần gian lấy bạo lực và dốt nát làm cẩm nang giáo dục con người. *** Tiểu sử     Ông Phước: Người nhỏ, đầu nhỏ, tóc cứng. Cao 1 mét 50, tiếng khàn, da tái, có ba nốt ruồi ở dái tai phải. Nguồn gốc gia đình không rõ. Chết vì cảm lạnh. Thọ 53 tuổi.   Bà Liên: Cao, đẫy, tóc dài, cằm nhọn, mặt nhiều nếp nhăn. Xuất thân từ gia đình công nhân. Sơ tán sang Linh Sơn cùng cô Nheo. Kém ông Phước 4 tuổi. Cuối đời bị mù. Chết vào 2 giờ sáng ngày 8 tháng Chín. Thọ 58 tuổi.   Ông Sung: Chức vụ: Xã đội trưởng. Vợ liệt, không con, không họ hàng thân thích. Ghét rượu, ghét đàn bà. Thích súng và có nhu cầu được trọng vọng. Sau đợt đưa tân binh lên biên giới phía Bắc, không thấy quay về xã.   Cô Nheo: Người như củ nhân sâm. Sơ tán sang Linh Sơn cùng bà Liên. Không có đặc điểm gì đáng chú ý. Chết vì bệnh.   Ông Ðiện: Thấp, da hồng hào, bóng, một mắt mắc tật nháy. Giỏi nghề mổ lợn. Yêu quý vợ, con. Chết cháy.   Nam: Trẻ, thực dụng. Nghe đồn hy sinh ở Trùng Khánh.   Ông Thụy: Bần cố nông, quê gốc ở Thanh Hóa. Từng đi phu cho Pháp. Mắt dài, tai to, răng móm. Chân rộng bản, thẳng, chắc. Sau khi ông Ðiên chết thì ông Thuỵ chính thức trở thành người giết lợn thuê cho cả vùng.   Ông Mịch: Cao, trắng, đẹp trai, giọng nhỏ nhẹ, kỹ tính. Sở trường: Giỏi trồng mía, trồng cà phê.   Ông Bồi: Cả gia đình sống bám vào chiếc bè vó lênh đênh trên sông, ngoài ra còn tăng gia thêm rau xanh. Không rõ nguyên nhân què. Hiện còn sống.   Bà Châu Cải: Gầy, trắng xanh. Gia đình tư sản thất thế. Sống độc thân. Mất cùng ngày, cùng giờ với ông Phước. Chôn tại bãi Nghiền sàng.   Ông Khoa: Gia đình công giáo duy nhất ở xã. Người dong dỏng, mắt sáng, cử chỉ chậm chạp. Thích nhịn. Kiếm sống thêm bằng nghề hoạn lợn.   Chú Mười: To, khỏe, da đồng hun, mũi sư tử, răng hô. Dáng ngũ đoản. Ðộc thân. Hiện còn sống.   Hưng: Con trai duy nhất của ông bà Xuân. Thương binh chống Mỹ, nhưng không có thẻ, nhiều người nghi là thương binh giả. Sống độc thân. Ðôi khi sốt đột ngột.   Hiền: Tóc đen, dày. Vai tròn, hông nở, trán mịn, đuôi mắt vút dài, hơi nheo ở cuối. Tròng mắt đen pha nâu. Khi bà Liên chết, Hiền bỏ đi đâu, không ai rõ.   Tính: Cao 1 mét 68, nặng 56 ki-lô-gam. Tai dài, lưng dài, chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt. Lông mày nhạt, hình vòng cung ôm nửa mắt. Tai nhỏ, mồm rộng, răng cải mả. Tiếng nói đục. Ði như vượn, ngồi như gấu. Không biết chữ.   Cú mèo: Lông hoa mơ, sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc. Bị bắn rụng lúc 11 giờ 15. Bay lên lúc 12 giờ. Không rõ bay tới đâu.   Ông Phùng: Nhà văn ở Hà Nội đi kháng chiến. Sau hoà bình lập lại, không về, làm lều ở Linh Sơn để sáng tác. Có lời nguyền là khi nào đoạt giải thưởng thì mới về Hà Nội. Hình dáng ông Phùng biến hóa, không ai nhớ nổi. Bản thảo sáng tác trong thời gian sống ở Linh Sơn đã bị thất lạc hết, chỉ tìm thấy duy nhất một truyện có tên là Và cỏ.   Cô Nhai: Người quắt, giọng kim, da đồi mồi. Mắc tật hay nhổ nước bọt bậy. Hiện còn sống. Mời các bạn mượn đọc sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bảy Bước Tới Mùa Hè - Nguyễn Nhật Ánh
Bảy Bước Tới Mùa Hè là một mùa hè ngọt ngào, những trò chơi nghịch ngợm và bâng khuâng tình cảm tuổi mới lớn. Chỉ vậy thôi nhưng chứng tỏ tác giả đúng là nhà kể chuyện hóm hỉnh, khiến người đọc cuốn hút từ tựa đến trang cuối cùng, có lẽ chính vì giọng văn giản dị và trong trẻo của Nguyễn Nhật Ánh, và kết thúc thì có hậu đầy thuyết phục. Câu chuyện cho tuổi học trò, đọc xong là thấy ngập lên khao khát quay về một thời thơ bé, với tình thầy trò, bè bạn, tình xóm giềng, họ hàng, qua cách nhìn đời nhẹ nhõm, rộng lượng. Bảy bước tới mùa hè sẽ là món quà mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dành tặng bạn đọc thân thiết, một lần nữa ông đánh thức “Những năm tháng ấu thơ”, trở lại tuổi học trò đầy nghịch ngợm, trong veo với những bâng khuâng tình cảm “treo ngược cành cây” … Nguyễn Nhật Ánh vẫn dùng cây đũa thần là giọng kể chuyện hóm hỉnh của mình, khiến ai đọc qua cũng thấy xao xuyến với một thưở hồn nhiên cắp sách đến trường. Mời các bạn đón đọc Bảy Bước Tới Mùa Hè của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Cánh Đồng Bất Tận - Nguyễn Ngọc Tư
Cánh đồng bất tận là tên một tập truyện ngắn phát hành năm 2005 của  Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là tên một truyện trong tập truyện ngắn đó được đăng báo lần đầu cùng năm. Tính đến nay, tập truyện đã được phát hành dưới dạng sách in và sách nói. Một vài truyện ngắn trong tuyển tập đã được chuyển thể thành phim và kịch. Gồm có: Cải ơi Thương quá rau răm Huệ lấy chồng Cái nhìn khắc khoải Nhà cổ Mối tình năm cũ Cuối mùa nhan sắc Biển người mênh mông Nhớ sông Dòng nhớ Duyên phân so le Một trái tim khô... Cánh đồng bất tận Mời các bạn đón đọc ​Cánh Đồng Bất Tận của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.
Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ - Nguyễn Nhật Ánh
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm là một trong những sáng tác thành công nhất của ông và nhận được Giải thưởng Văn học ASEAN của năm 2010. Nguyễn Nhật Ánh viết ở mặt sau cuốn sách: "Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai đã từng là trẻ em". Trả lời phỏng vấn của báo Người lao động, ông nói "đối tượng cảm thụ mà tôi muốn nhắm tới là người lớn", với Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ ông "cho phép mình mở rộng biên độ đề tài và hình ảnh đến tối đa vì tôi viết về trẻ em nhưng là cho những ai từng là trẻ em đọc". Ông chia sẻ, "tôi muốn người lớn thông cảm với trẻ em hơn". Tác phẩm gồm những câu chuyện nhỏ xoay xung quanh 4 đứa trẻ trong cùng một khu xóm là con Tủn, con Tí sún, thằng Hải cò và thằng cu Mùi. Trong đó, người kể chuyện là cu Mùi dưới hình thức kể song song của "thằng cu Mùi" lúc bé và nhận xét, đánh giá của "ông Mùi" khi đã gần 50 tuổi. Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một  nhà văn  Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày  7 tháng 5 năm  1955 tại huyện  Thăng Bình,  Quảng Nam. Truyện dài, truyện ngắn, thơ và các tác phẩm khác: Thành phố tháng tư (thơ, in chung với Lê Thị Kim, 1984) Trước vòng chung kết (truyện dài, 1984) Cú phạt đền (truyện ngắn, 1985) Đầu xuân ra sông giặt áo (thơ, 1986) Trò chơi lãng mạn của tình yêu (tập truyện, 1987) Chuyện cổ tích dành cho người lớn (tập truyện, 1987) Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987) Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988) Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989) Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989) Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989) Nữ sinh (truyện dài, 1989) Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990) Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990) Mắt biếc (truyện dài, 1990) Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990) Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991) Hạ đỏ (truyện dài, 1991) Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991) Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993) Những chàng trai xấu tính (truyện dài, 1993) Tứ tuyệt cho nàng (thơ, 1994) Lễ hội của đêm đen (thơ, 1994) Trại hoa Vàng (truyện dài, 1994) Út Quyên và tôi (tập truyện ngắn, 1995) Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995) Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995) Quán Gò đi lên (truyện dài, 4/12/1999) Những cô em gái (truyện dài, 7/5/2000) Ngôi trường mọi khi Kính vạn hoa (bộ truyện 54 tập, 1995-2002: 45 tập, 9 tập viết thêm sau) Chuyện xứ Lang Biang (bộ truyện 4 phần, 2004-2006) Tôi là Bêtô (truyện, 4/4/2007) Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 1/2008) Đảo mộng mơ (truyện, 21/10/2009) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 24/10/2010) Lá nằm trong lá (truyện dài, 24/9/2011) Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ (truyện dài, 6/2012) Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012) Người Quảng đi ăn mì Quảng (tạp văn, 2012) Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 27/6/2013) Thương nhớ Trà Long (tạp văn 2014) Chúc một ngày tốt lành (truyện dài, 6/3/2014) Bảy bước tới mùa hè (truyện dài, 1/3/2015) Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (truyện dài, 28/2/2016) Mời các bạn đón đọc  Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ của tác giả  Nguyễn Nhật Ánh.
Tu Viện Thành Parme - Stendhal
Có những cuốn sách đi vào trong con người chúng ta như một ông khách lầm nhà, vào rồi ra không dấu vết. Lại có những cuốn ta đọc lần đầu không thấy hay mấy, nhưng vẫn cảm thấy có một cái gì khiến chúng ta không đành dứt bỏ, rồi đến một lúc nào đó tìm đọc lại mới thấy sâu sắc, nhất là khi mình đã hiểu biết việc đời chút ít thì càng đọc càng khám phá ra những khía cạnh mới, tuyệt vời… và mình ân hận như đã mất bao nhiêu năm chậm hiểu một người bạn khó tìm thấy trên đời. Tu Viện Thành Parme thuộc loại này. Nói về Tu Viện Thành Parme, nhà văn Paul Morand (1888 - 1976) viết: “Những tác phẩm lớn ngao du trong con người chúng ta, có khi chúng lần lượt biến thành nhiều sách khác nhau, trong lúc chúng ta cũng hóa nên nhiều người, chúng ta đọc Stendhal lúc cuối đời không như đọc ông trong tuổi đầu xuân. Tôi đã phát hiện nhiều “Tu viện” như thế đó, những “Tu viện” ấy đã đi vô định năm mươi năm trong tôi và có lẽ cũng chưa làm trọn cuộc chu du của nó!” Không những đối với một đời người, mà đối với nhiều thế hệ. Tu Viện Thành Parme cũng làm một cuộc hành trình tương tự. Cũng như mấy tiểu thuyết khác của Stendhal, buổi mới ra đời, Tu Viện Thành Parme không được hưởng một số phận tốt đẹp lắm, nó không làm chấn động dư luận, nhưng rồi thời gian và cuộc sống đã công bằng đem lại cho tác giả ánh hào quang thích đáng. Một phần vì Stendhal không viết theo thời thượng, phần khác vì sự phân tích con người rất sâu dưới vỏ ngôn ngữ mộc mạc, hầu như khô khan ở trên cái tầm tiếp thu thông thường của độc giả, ai dù thông minh, tinh tế và chịu khó đi vào chất nội dung mới thấy lý thú. Stendhal thường nghĩ rằng tác phẩm của mình phải mấy chục năm sau người ta mới đánh giá đúng và ham đọc. Thật ra, không phải đợi lâu đến thế. Đối với những ai ý chí lớn, những ai có dụng ý khác đời thì tri kỷ quả có hiếm, nhưng không phải là không có, Tu Viện Thành Parme phát hành đầu tháng từ năm 1839, thì tháng 9, ngày 25, đã có một bài bình luận của Balzac, dài 72 trang, Balzac tuy sinh sau 16 năm nhưng lúc bấy giờ đã lẫy lừng danh tiếng với ba bốn chục tác phẩm và những kiệt tác như Eugénie Grandet (1833), Le Père Goriot (1834) … Balzac nức nở khen Tu Viện Thành Parme và viết một cách kiêu hãnh: “Tu viện chỉ có thể tìm độc giả trong số một nghìn hay nghìn rưỡi người đứng đầu châu Âu. Bởi vậy tất cả những điều tôi sắp nói ra đây là để gửi đến những người trong sạch và cao quý ở nước nào cũng có, như những thiểu số không ai biết đến…”. Mời các bạn đón đọc Tu Viện Thành Parme của tác giả Stendhal.