Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tess Một Tâm Hồn Trong Trắng

Tess là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất trong số 14 tiểu thuyết của Hardy. So với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương và Sue xinh đẹp trong theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với quan điểm mâu thuẫn về đạo đức, tôn giáo, hôn nhân trong Jude-Kẻ vô danh thì Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng, nàng xinh đẹp một cách dân dã như một đóa hoa đồng nội. Nhưng số phận thảm thương, Tess bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận đen tối một cách cùng cực dù nàng chỉ có ước mơ rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Nhưng Alec một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới có mười sáu tuổi, sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích. Khi Tess kết hôn với Angel nàng đã thú nhận với chồng của mình về quá khứ vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và Angel nghĩ rằng mình bị lừa đã rời nước Anh đến Brazil lập nghiệp để suy nghĩ kĩ hơn về mối quan hệ vợ chồng anh. Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kì Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu năm 1891 đã bị chỉ trích kịch liệt. Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là mơ ước hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này. *** Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Tess of the d’Urbervilles – A Pure Woman Faithfully Presented Của Thomas Hardy Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt Dù không được xếp hạng trong danh mục 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất mọi thời như Jude- Kẻ vô danh – vốn đẩy những phê phán xã hội và tôn giáo của Thomas Hardy lên đến đỉnh điểm, và tạo nên nhiều phê phán tiêu cực đến độ ông dứt khoát từ bỏ văn xuôi và chuyển sang sáng tác thơ cho đến cuối đời – Tess, một tâm hồn trong trắng vẫn được khẳng nhận rộng rãi là một trong số các kiệt tác của ông.  Có thể nhấn mạnh một điểm đặc biệt khác ở Tess: trong số 14 tiểu thuyết của Hardy, nó là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất, ngay từ thời điểm được công bố lần đầu, dù có những chỉ trích gay gắt về chủ đề tư tưởng từ phía các nhà phê bình cực đoan, cho tới tận hôm nay. Và các tác phẩm chuyển thể từ Tess sang sân khấu, điện ảnh lên đến một số lượng đáng ngạc nhiên so với các tiểu thuyết khác của ông. Về sân khấu, có tổng cộng tám vở kịch hoặc ca nhạc kịch (opera) của các tác giả khác nhau được trình diễn nhiều lần trên các sân khấu lớn ở London, New York, Stratfort-upon-Avon (quê hương của Shakespeare). Về điện ảnh, có 7 phim màn ảnh rộng (công chiếu lần đầu vào các năm 1913, 1924, 1967, 1979, 2000, 2011, 2013); 4 phim truyền hình (1952, 1960, 1998, 2008), trong đó tôi đã được xem hai phiên bản: năm 1998, do London Weekend Television sản xuất, đạo diễn Ian Sharp, với các diễn viên chính Justine Waddell (Tess), Jason Flemyng (Alec), và Oliver Milburn (Angel); và năm 2008, do BBC sản xuất, đạo diễn David Blair, các diễn viên chính Gemma Artenton (Tess), Hans Matheson (Alec), Eddie Redmayne (Angel); cả hai phiên bản có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện được khá chính xác tính cách của các nhân vật như miêu tả của Thomas Hardy.[1] Vì sao như vậy, bạn đọc sẽ đặt câu hỏi. Và tôi xin được trả lời vắn tắt: so với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, có nhiều tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương, và Sue xinh đẹp theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với những quan điểm về tôn giáo, đạo đức, hôn nhân cực kỳ mâu thuẫn trong Jude – Kẻ vô danh, Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng. Nàng xinh đẹp một cách dân dã, như một đóa hoa đồng nội. Cả ba nhân vật nữ trong ba tiểu thuyết này đều có số phận không may: Eustacia tự sát; Sue bị mất ba đứa con và sống một cuộc đời tàn tạ héo hon với Philoston; nhưng số phận của Tess còn thảm thương hơn: nàng bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận của nàng đen tối đến mức cùng cực như vậy, dù nàng chỉ có những mơ ước rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Mặt khác, nàng là một thiếu nữ, và sau là một  phụ nữ có tâm hồn hoàn toàn trong trắng dịu hiền, nhưng  lại bị Alec, một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới mười sáu tuổi, rồi sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối, nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích lần nữa, khi nàng đã kết hôn với Angel, nhưng hai vợ chồng đang sống xa nhau. (Nàng đã thú nhận với chồng quá khứ của mình vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và nghĩ rằng mình bị lừa, Angel đã rời nước Anh sang Brazil để lập nghiệp với tư cách một chủ nông trại, cũng để chờ thời gian lắng lại để suy nghĩ  kỹ hơn về mối quan hệ của vợ chồng anh.) Ở tựa sách nguyên bản, ngoài tựa chính Tess of the D’Urbervilles, Thomas Harsy chủ tâm đưa thêm một tiểu tựa: A Pure Woman Faithfully Presented, chính là muốn nhấn mạnh đặc tính trong trắng thuần khiết này của Tess. Một nữ nhân vật đáng yêu và đáng thương như vậy, đương nhiên sẽ đi vào lòng người đọc, và khơi gợi ở họ những cảm xúc thật sự khó quên. Tess còn đáng yêu ở nhiều điểm khác: nàng yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây hoa lá trong môi trường xung quanh, yêu các loài động vật nhỏ bé, yếu ớt và vô phương tự vệ như nàng. Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kỳ Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu vào năm 1891 dưới hình thức đăng nhiều kỳ trên tờ họa báo The Graphic và sau đó xuất bản dưới hình thức sách (ba tập) cũng trong năm 1891, nó đã bị chỉ trích kịch liệt. Một tác phẩm lớn đương nhiên sẽ có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, từ nhiều góc độ. Ở phần giới thiệu này, tôi xin không nêu tóm tắt cốt truyện vì như thế sẽ rất dài dòng, không cần thiết; cũng không đưa ra những phân tích sâu về chủ đề hay về tính cách của các nhân vật, vì mong muốn độc giả sẽ là người tự có những nhận định của chính mình sau khi đọc tác phẩm. Chỉ xin đưa ra một nhận định nhiều cảm xúc của tôi với tư cách một người đọc, và một người dịch: Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là ước mơ hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này. Sài Gòn, tháng 01/2020 Nguyễn Thành Nhân *** Thomas Hardy (1840 - 1928) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ và kiến ​​trúc sư người Anh. Các văn bản của ông có một phong cách hiện thực, nhưng bị ảnh hưởng ở một mức độ lớn bởi chủ nghĩa lãng mạn văn học có trước thời Victoria.. Nhờ thành công của ngòi bút của mình, ông đã từ bỏ sự nghiệp của kiến ​​trúc sư để cống hiến hết mình cho các bức thư. Mặc dù Hardy đã nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh của một nhà tiểu thuyết, nhưng ông luôn cảm thấy hứng thú với thơ và tác phẩm của ông có tác động lớn đến các thế hệ nhà thơ kế vị ông.. Phong cách mà tác giả in cho các tác phẩm của mình tập trung hơn nhiều và ít khoa trương hơn so với những người cùng thời. Nó có tông màu tối và định mệnh, trái ngược với hy vọng thấm đẫm các văn bản Victoria. Hardy đã đặt gần như tất cả các tác phẩm kể chuyện của mình ở Wessex, một quốc gia tưởng tượng lấy tên của vương quốc từng nắm giữ quyền lực lớn trên đảo. Nhưng trong cuộc đời của tác giả, khu vực địa lý thực sự ngày càng nghèo nàn. Hardy Wessex nằm ở phía nam và tây nam nước Anh. Ông thậm chí còn tạo ra các bản đồ chỉ ra vị trí chính xác của từng thành phố hư cấu. Tác giả đã được đề cử 12 lần cho giải thưởng Nobel Văn học. Thomas Hardy cũng làm việc trong việc viết những ký ức của mình, mặc dù chúng được kết thúc bởi người vợ thứ hai của ông, Florence Hardy, và chúng đã được xuất bản thành hai tập tiếp cận chi tiết từng giai đoạn của cuộc đời của tác giả người Anh. *** Vào một xế chiều cuối tháng Năm, một người đàn ông trung niên đang từ Shaston đi bộ trở về nhà. Ông ở thôn Marlott, nằm tiếp giáp với Thung lũng Blakemore, hoặc Blackmoor. Đôi chân của ông yếu ớt, và dáng đi của ông có xu hướng hơi nghiêng sang trái. Thỉnh thoảng ông lại gật đầu, như thể xác nhận một ý nghĩ nào đó, dù ông không hề nghĩ tới một điều gì cụ thể. Ông móc lủng lẳng trên tay một cái giỏ đựng trứng trống rỗng, đội một cái mũ nỉ đã sờn,  vành mũ bị rách toạc một mảng to và ông đưa ngón cái lên để giật nó ra. Đúng lúc đó ông nhìn thấy một vị cha xứ lớn tuổi ngồi vắt vẻo trên lưng một con lừa xám, miệng đang ngâm nga một khúc du ca. “Chúc buổi tối tốt lành.” Ông cất tiếng chào. “Chúc buổi tối tốt lành, Ngài John.” Vị cha xứ đáp lễ. Kẻ bộ hành bước thêm một hai bước nữa, rồi dừng chân và quay lại. “Xin thứ lỗi, thưa ông; chúng ta đã gặp nhau vào phiên chợ lần trước trên con đường này, cũng vào khoảng giờ này, tôi đã nói ‘Chúc buổi tối tốt lành,’ và ông cũng đáp lại ‘Chúc buổi tốt tốt lành, Ngài John,’ như hiện giờ.” “Đúng thế.” Vị cha xứ đáp. “Và một lần trước đó nữa, gần một tháng trước.” “Có lẽ tôi đã chào như thế.” “Vậy ý của ông là gì khi gọi tôi là ‘Ngài John’ trong những lần này, khi tôi chỉ là Jack Durbeyfield, một người bán dạo quê mùa?” Vị cha xứ giục lừa tới gần hơn. “Đó chỉ là sở thích nhất thời của tôi.” Ông đáp; và nói thêm sau giây lát ngần ngừ: “Cách đây ít lâu tôi phát hiện ra một việc, trong lúc đang săn lùng những phả hệ cho một cuốn sách lịch sử mới của hạt. Tôi là cha xứ Tringham, nhà khảo cổ, ở làng Stagfoot Lane. Durbeyfield, chẳng lẽ ông thật sự không biết rằng ông là đại diện của dòng tộc hiệp sĩ cổ xưa d'Urbervilles, vốn là hậu duệ của Ngài Pagan d'Urberville, vị hiệp sĩ lừng danh đến từ Normandy cùng với William Kẻ Chinh phục, như được ghi trong Văn kiện của Tu viện Battle[2] hay sao?” “Chưa bao giờ nghe nói tới nó, thưa ông!” “Vâng, đúng thế đó. Hãy ngẩng cằm ông lên giây lát, để tôi có thể ngắm nét mặt nhìn nghiêng của ông rõ hơn. Phải, đó là cái mũi và cằm của dòng họ d'Urberville, dù hơi kém phẩm chất hơn chút đỉnh. Tổ tiên của ông là một trong mười hai hiệp sĩ của Lãnh chúa xứ Estremavilla ở Normandy trong cuộc chinh phục xứ Glamorganshire. Các nhánh gia tộc của ông có điền trang trên toàn bộ vùng này của nước Anh; tên của họ xuất hiện trong Văn kiện vào thời Vua Stephen. Dưới triều Vua John, một người trong số họ đủ giàu để tặng một điền trang cho các Hiệp sĩ dòng Thánh John, và vào thời của Vua Edward Đệ Nhị, tổ tiên Brian của ông được mời tới Westminster để tham gia Đại hội đồng tại đó. Dòng tộc của ông bị sa sút đôi chút vào thời của Oliver Cromwel[3], nhưng không nghiêm trọng lắm, và dưới triều của Charles Đệ Nhị họ được phong làm Hiệp sĩ Cây Sồi Hoàng gia[4] vì lòng trung thành. Phải, đã có những thế hệ các Ngài John trong số tổ tiên của ông, và nếu tước hiệp sĩ có thể kế thừa như thuở trước, khi cha có thể truyền lại tước hiệu này cho con trai, giờ ông sẽ là Ngài John.” “Ông đừng nói như thế!” “Nói tóm lại,” vị cha xứ kết luận, vụt nhẹ roi vào chân mình với vẻ quả quyết, “khó mà có một gia tộc khác như thế ở nước Anh.” “Một thông tin choáng cả người, phải không?” Durbeyfield đáp. “Và tôi đã lăn lóc từ nơi này sang nơi khác, hết năm này sang năm khác, như thể tôi không hơn gì một gã tiều phu tầm thường nhất trong xứ đạo… Tin tức này về tôi đã được biết từ bao lâu rồi, thưa Cha xứ Tringham?" Vị cha xứ giải thích rằng, trong chừng mực ông biết, thông tin này đã hoàn toàn tuyệt tích từ lâu, và hầu như không ai biết cả. Những điều tra riêng của ông đã được bắt đầu vào mùa xuân năm ngoái, trong lúc truy tìm dấu tích thăng trầm của gia tộc d'Urberville, ông đã nhìn thấy cái tên Durbeyfield trên cỗ xe ngựa của Jack, và từ đó đã tiến hành những điều tra về cha và ông nội của Jack cho tới khi không còn hồ nghi gì về vấn đề này nữa. “Thoạt tiên tôi quyết định không quấy rầy ông với một thông tin vô ích như thế.” Ông nói. “Tuy nhiên, đôi khi những thôi thúc quá mạnh mẽ so với lý trí của chúng ta. Tôi nghĩ có lẽ lâu nay ông cũng biết đôi điều gì đó về việc này.” “Vâng, đúng thế, tôi có nghe nói một hai lần, rằng tổ tiên tôi từng có những ngày tháng tốt đẹp hơn trước khi họ tới Blackmoor. Nhưng tôi không chú ý tới nó, nghĩ rằng nó chỉ có nghĩa rằng chúng tôi từng có thời làm chủ hai con ngựa trong khi bây giờ chỉ có một con. Tôi có một cái muỗng bạc, và một con dấu niêm phong ở nhà; nhưng Lạy Chúa, một cái muỗng và một con dấu là gì chứ?... Và hãy nghĩ rằng tôi và những người cao quý họ d'Urbervilles này luôn có chung huyết thống mà xem. Tôi nghe nói ông cố của tôi có những bí mật, và không muốn nói về xuất xứ của mình… Và, thưa cha xứ, xin đánh bạo hỏi hiện giờ dòng họ d'Urbervilles của chúng tôi sống ở đâu?” “Không ở đâu cả. Dòng họ của ông đã tuyệt tận, với tư cách một gia tộc từng sống trong hạt suốt nhiều thế hệ.” “Thế thì tệ thật.” “Phải, đó là cái mà những biên niên sử gia tộc viết sai sự thật gọi là sự tuyệt tự ở phía bên nội, nghĩa là đã chết, đã xuống mồ hết.” “Vậy chúng tôi nằm ở đâu?” “Ở Kingsbere-sub-Greenhill, có hàng hàng lớp lớp tổ tiên ông nằm trong những hầm mộ, với những chân dung khắc bên dưới những mái vòm cẩm thạch Purbeck.” “Thế các dinh thự và thái ấp của gia tộc chúng tôi ở đâu?” “Không có bất cứ thứ gì cả.” “Ồ, cả đất đai cũng không?” “Không; dù họ từng có thừa thãi, như tôi đã nói, vì gia tộc của ông bao gồm rất nhiều nhánh. Trong hạt này từng có một vùng đất của họ ở Kingsbere, một chỗ khác ở Sherton, một chỗ khác ở Millpond, một chỗ khác ở Lullstead, và một chỗ khác ở Wellbridge.” “Vậy chúng tôi có khấm khá trở lại được không?” “Chà, tôi không thể nói được điều đó!” “Vậy tốt nhất tôi nên làm gì về việc này, thưa ông?” Durbeyfield hỏi, sau một giây im lặng. “Ồ, không gì cả, không gì cả; ngoại trừ tự kềm chế bản thân với ý nghĩ kẻ quyền quý đã suy sụp thế nào. Đây là một thực tế đáng chú ý với sử gia và nhà phả hệ học địa phương, chỉ thế thôi. Có nhiều gia tộc của những nông dân trong hạt này cũng có gốc tích vẻ vang gần như tương tự. Buổi tối tốt lành.” “Nhưng ông sẽ quay lại và nhấm nháp một vại bia với tôi chứ, cha xứ Tringham? Có một loại bia rất khá ở quán Giọt Trong Lành, dù chắc chắn nó không ngon bằng ở quán của Rolliver.” “Không, cám ơn, chiều nay thì không, Durbeyfield. Ông đã uống đủ rồi.” Sau khi kết luận như thế, vị cha xứ giục lừa đi tiếp, hơi băn khoăn với quyết định của mình trong việc tiết lộ thông tin về gia tộc huyền thoại này. Khi ông ta đã đi khỏi, Durbeyfield đi vài bước nữa trong trạng thái mơ mộng say sưa, rồi ngồi xuống bờ cỏ ven lộ, đặt cái giỏ trước mặt. Vài phút sau, một thiếu niên xuất hiện ở phía xa và đang đi về hướng của ông. Khi nhìn thấy nó, ông giơ tay lên, và nó dấn bước tới gần hơn. “Cậu bé, hãy cầm cái giỏ này lên! Ta muốn cậu làm giúp ta một việc vặt.” Thằng bé gầy như que củi cau mày. “John Durbeyfield, ông là ai mà ra lệnh cho tôi và gọi tôi là ‘cậu bé’? Ông biết tên tôi rõ như tôi biết tên ông mà!” “Vậy sao, vậy sao? Đó là điều bí mật… Đó là điều bí mật! Giờ hãy làm theo lời ta, và đón nhận thông điệp ta sẽ nói với cậu… Ờ, Fred, ta không ngại nói với cậu rằng bí mật đó là ta là hậu duệ của một dòng dõi cao quý, ta mới phát hiện ra nó ngay chiều nay.” Trong lúc tuyên bố như thế, Durbeyfield, ngả người ra và thoải mái nằm duỗi người trên bờ cỏ, giữa những lùm cúc dại. Thằng bé đứng trước mặt ông, và ngắm nghía ông từ đầu tới chân. “Ngài John d'Urberville, đó chính là ta,” người đàn ông đang nằm nói tiếp, “nếu tước hiệu hiệp sĩ có thể kế thừa, mà đó là lẽ đương nhiên. Toàn bộ những điều về dòng dõi của ta đã được ghi chép trong sử sách. Cậu bé, cậu có biết một nơi gọi là Kingsbere-sub-Greenhill không?” “Có. Tôi đã tới Hội chợ ở Greenhill.” “Ờ, bên dưới nhà thờ của thành phố đó là…” “Nơi tôi muốn nói không phải là một thành phố; ít ra là khi tôi tới đó. Nó là một địa điểm nhỏ xíu.” “Đừng bận tâm tới điều đó, cậu bé, đó không phải là vấn đề quan trọng. Nằm bên dưới ngôi nhà thờ của giáo xứ đó là những tổ tiên của ta, hàng trăm người, trong những bộ áo giáp đính đầy châu báu, trong những cỗ quan tài bằng chì nặng hàng tấn. Không kẻ nào trong hạt South Wessex có những bộ xương tiên tổ vĩ đại và cao quý hơn ta.” “Ồ?” “Giờ hãy cầm lấy cái giỏ đó, và tới thôn Marlott, và khi cậu tới quán Giọt Trong Lành, hãy bảo họ hãy lập tức cho một cỗ xe ngựa tới để chở ta về nhà, trong thùng xe phải có thêm một chai rượu rum nhỏ. Và khi làm xong việc đó, cậu hãy mang cái giỏ tới nhà ta, và bảo vợ ta hãy ngưng việc giặt giũ, vì bả không cần hoàn thành nó, và chờ cho tới khi ta về nhà, vì ta có tin tức cần nói với bả.” Trong lúc cậu bé đứng phân vân, Durbeyfield thò tay vào túi và móc ra một siling, một trong số vài đồng ít ỏi mà ông có. “Đây là tiền công của cậu, cậu bé.” Việc này tạo nên một khác biệt trong suy đoán của cậu bé về địa vị của ông. “Vâng, Ngài John. Cám ơn. Tôi có thể làm gì khác nữa, thưa Ngài John?” “Bảo với vợ ta rằng ta muốn ăn bữa tối với thịt cừu rán nếu bả có thể kiếm được, còn nếu không có thì dồi tiết heo, và nếu không có món này thì phèo heo cũng được.” “Vâng, thưa Ngài John.” Thằng bé cầm lấy cái giỏ, và khi nó cất bước, một điệu kèn đồng vang lên từ hướng ngôi làng. “Gì thế?” Durbeyfield nói. “Không phải vì ta đó chứ?” “Đó là đám rước của hội phụ nữ, Ngài John. Con gái của Ngài là một trong số các hội viên của nó.” “Chắc vậy rồi. Ta quên bẳng việc này vì đang nghĩ tới những điều lớn lao hơn. Được rồi, hãy tới Marlott và gọi cỗ xe ngựa, có lẽ ta sẽ đánh xe đi một vòng và kiểm tra cái hội đó.” Thằng bé lên đường, và Durbeyfield nằm chờ giữa những bụi cỏ và cúc dại dưới ánh nắng chiều. Suốt một hồi lâu không có ai đi ngang qua đó, và những điệu kèn đồng văng vẳng là những âm thanh con người duy nhất giữa những dãy đồi xanh Mời các bạn đón đọc Tess Một Tâm Hồn Trong Trắng của tác giả Thomas Hardy & Nguyễn Thành Nhân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Dona Flor Và Hai Người Chồng
Kiệt tác của tượng đài văn học Braxin Gợi cảm và là cô giáo dạy nấu ăn giỏi giang, Dona Flor kết hôn với Vadinho, một kẻ vô lại, bài bạc nhưng quyến rũ khó cưỡng. Tám năm sau, chính giữa những ngày vũ hội hóa trang, Vadinho đột tử khi đang cuồng nhiệt trong điệu samba sôi động, trên mình là bộ đồ giả trang thiếu nữ Bahia. Với người chồng thứ hai, dược sĩ Theodoro uy tín, cô được hưởng một sống đủ đầy, êm ả, có phần tẻ nhạt, cho đến một ngày dona Flor bàng hoàng nhìn thấy... một Vadinho trâng tráo, trần như nhộng, nằm trên chiếc giường của vợ chồng cô, mời gọi cô. Điều kỳ lạ là không ai ngoài cô có thể nhìn thấy anh ta… Đậm màu sắc văn hóa ẩm thực và âm nhạc Bahia, với thần Xangô, với samba, lễ candomblé,  rượu cachaça…. “Dona Flor và hai người chồng” còn vượt khỏi một “câu chuyện đạo đức, câu chuyện tình yêu” xúc động để trở thành “trận chiến khủng khiếp giữa Tinh thần và Vật chất” qua lời kể hài hước và sinh động của Jorge Amado, một trong những nhà văn hàng đầu của Braxin thế kỷ XX. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim vào năm 1976, bởi đạo diễn Bruno Barreto với vai dona Flor do Sonia Braga thể hiện. Bộ phim được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Braxin. *** Đôi nét về tác giả Jorge Amado   Jorge Amado (1912-2001) là cây đại thụ văn học của Braxin, nơi không một nhà văn nào nổi tiếng, được yêu mến và có uy tín như ông. Và ông cũng là nhà văn Braxin nổi tiếng nhất ở nước ngoài. Các tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng trên khắp năm châu. Dona Flor và hai người chồng là một trong những tác phẩm được ra nhiều thứ tiếng nhất của Jorge Amado. Đây là lần thứ hai tác phẩm này được xuất bản tại Việt Nam. *** Lời khen tặng dành cho Dona Flor và hai người chồng   "Đại sứ văn chương của Braxin.” - NXB Gallimard   “Một trong những tượng đài của nền văn học.” - L’Express *** trường nghệ thuật  ẩm thực và hương vị Phải mời khách món gì trong đêm viếng trước ngày tang lễ? Dona Flor trả lời câu hỏi của một học sinh. Cho dù đó là ngày tang gia bối rối, buồn bã khóc lóc thì cũng không thể để khách tới viếng phải nhịn đói nhịn khát. Nếu bà chủ nhà, đang nức nở nghẹn ngào và sắp ngất xỉu, ngập chìm trong đau đớn, hay chính là người nằm chết trong áo quan, không thể lo được, thì bà con hay bạn bè phải đứng ra lo liệu, vì không thể để những người khách khổ sở đến đây viếng thăm vì tình nghĩa phải nhịn đói nhịn khát suốt đêm; chưa kể lúc mùa đông giá rét hay tiết trời lạnh lẽo. Để cho đêm tang lễ được nhộn nhịp và thật sự tôn kính người đã khuất, chủ nhân của đêm đó, làm cho linh hồn anh được nhẹ nhàng trong đêm đầu tiên và đang rất bối rối trong cõi chết của anh, phải thật chu đáo, chăm chút về cả tinh thần lẫn đồ ăn thức uống. Lúc nào mời và mời món gì? Lúc nào ư? Đơn giản thôi: suốt cả đêm, từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc. Cà phê thì dĩ nhiên là cần thiết vào bất cứ lúc nào, rót vào những tách nhỏ. Còn bữa sáng đầy đủ cả sữa, bánh mì, bơ, pho mát, bánh bích quy, vài cái bánh sắn, vài lát bánh ngũ cốc kèm trứng đặt trên đĩa thì chỉ cần dọn vào buổi sáng và cho những người đã thức suốt đêm. Quan trọng nhất là luôn luôn phải có nước sôi trong bình để pha cà phê, vì lúc nào cũng có người đến viếng. Thêm cả bánh nướng, bích quy kèm với cafezinho§.Thi thoảng mang ra vài món khai vị như bánh kẹp pho mát, giăm bông, giò, những thứ đơn giản, thể hiện sự tế nhị trước người đã khuất. Nhưng nếu đêm tang lễ của gia đình ở tầng lớp cao, sau đêm này tiền viếng cứ là dồi dào, thì đương nhiên phải có tách sô cô la thật đặc và thật nóng vào lúc nửa đêm, hay bát xúp gà mỡ màng. Sau cùng là cá tuyết viên, các món rán, các loại bánh kẹo, đồ ăn vặt, hoa quả khô. Về đồ uống thì nếu đó là gia đình khá giả, ngoài cà phê, còn có bia hay rượu vang, chỉ một ly thôi và chỉ để uống kèm xúp gà và các món rán. Tuyệt đối không dùng sâm panh, như thế không hợp cảnh cho lắm. Trong mọi trường hợp, dù là đêm viếng ở nhà giàu hay nhà nghèo, bắt buộc và cần thiết, đều phải có rượu cachaça§ nổi tiếng. Có thể thiếu gì cũng được, kể cả cà phê, nhưng rượu đó thì không thể thiếu. Không có chất trợ lực ấy, đêm viếng sẽ mất hết giá trị. Đêm viếng không có rượu tức là thiếu tôn trọng đối với người đã khuất, là vô tình, là ác nghiệt. *** REVIEW “DONA FLOR VÀ HAI NGƯỜI CHỒNG” Chắc chắn là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất tôi từng đọc về tính hai mặt của tinh thần con người. Cuốn tiểu thuyết này đã chạm đến trái tim và tâm trí của tôi và lôi cuốn tôi vào câu chuyện huyền bí và mê tín của đất nước Brazil. Jorge Amado bắt đầu bằng cách nhắm trúng sự thích thú của độc giả thông qua một câu chuyện tình lãng mạn giữa một cô gái tốt bụng là Flor và một con bạc đáng yêu, gợi tình là Vadinho. Anh ấy là nhân vật phản diện kinh điển mà chúng ta khi đọc sẽ cảm giác vừa ghét vừa thương.  Amado tiếp tục đưa chúng đến với người dân của bang Bahian với những nhân vật tuyệt vời và thú vị. Người đọc gặp gỡ các nhà văn, người mù chữ, người ngoại đạo và người mê tín, người giàu và người nghèo, những lời đồn đoán, gái điếm, chế độ mẫu hệ và rất nhiều chuyện khác nữa. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy một bối cảnh đầy màu sắc với đủ các vấn đề và chi tiết khác nhau. Thêm vào đó, Amado đã vẽ ra nguyên mẫu hình ảnh của Brazil cùng với việc đặt “nền móng” phức tạp cho chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết. Ngay cả khi chúng ta đang suy ngẫm về tính hai mặt thể hiện trong tâm hồn của nhân vật chính là Flor thì câu chuyện của Amado nổ ra trong sự hỗn loạn và mâu thuẫn tâm trí đến mức khó tin. Những thay đổi thần bí xảy ra khi các vị thần trở nên minh bạch trong sự trùng lặp của chính họ. Bất bình đẳng giai cấp xã hội, số phận cá nhân, lòng trung thành và tình yêu,... không có chủ đề nào vượt quá giới hạn trong câu chuyện tâm lý sâu rộng này. Amado là một bậc thầy tuyệt vời về khả năng tạo ra một nền văn hóa và cuốn hút người đọc bằng cách sử dụng những câu văn kết nối với cốt truyện kỳ diệu, văn xuôi lôi cuốn, phát triển nhân vật hoàn toàn tài tình và khiến chúng ta mê đắm với màu sắc của bối cảnh truyện. Cuối cùng, người ta có thể tin vào điều gì? Hòa bình đi kèm với sự chấp nhận vừa có cảm giác cưỡng ép vừa có cảm giác thích thú? Hay những góc khuất trong chính con người đang sống trong xã hội hiện nay khi có vô vàn những ước muốn khác nhau và lòng tham vô đáy đã ngự trị hết thảy tâm hồn của mọi người? Tất cả điều này diễn ra tại Bahia - nơi những điều quái lạ và những hành động ma thuật khác xảy ra mà không làm ai ngạc nhiên hay giật mình. Một góc phố nghèo dù cho có chuyện gì kinh thiên động địa hay chuyện con cóc vỉa hè cũng không còn đáng quan trọng nữa.  - Trần Thông Mời các bạn đón đọc Dona Flor Và Hai Người Chồng của tác giả Jorge Amado.
Đoạn Tuyệt
Tiểu thuyết Đoạn tuyệt của nhà văn Nhất Linh xuất bản năm 1934, viết về cuộc đời Loan, một cô gái mới được tiếp thu những tư tưởng mới và hành trình chống lại những luật lệ phong kiến hà khắc, kìm kẹp quyền tự do cá nhân của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Qua tác phẩm của mình, Nhất Linh phản ánh một cách trực diện xung đột mới – cũ, cổ vũ sự giải phóng của con người thoát khỏi những hủ tục. Và ông cũng ca ngợi sự tự do sống theo đuổi những ước vọng, khát khao cá nhân, những lý tưởng cải tạo xã hội.  Đoạn tuyệt là một trong những tác phẩm mà Sống (Thương hiệu sách Tác giả Việt) đặc biệt tuyển chọn để đưa vào Tủ sách Khuê Văn – tủ sách gồm những áng văn trác tuyệt được ví như những vì tinh tú trong nền văn học Việt Nam. *** Chuyện nàng tân thời. “Đoạn tuyệt” gồm 28 chương, được viết trong năm 1934 – 1935, nội dung chính xoay quanh cô gái tân thời tên Loan. Loan thuộc hàng ngũ thanh niên có học, được tiếp thu nền văn minh mới, hiểu biết về tư tưởng nhân đạo, trọng tự do cá nhân. Nhưng rồi cảnh nhà túng bấn, nàng buộc phải bỏ học, thuận lời cha mẹ kết hôn với Thân con nhà giàu có, cũng là chủ nợ, dẫu lòng nàng vẫn yêu Dũng tha thiết. Dũng là điển hình của thanh niên tân thời vì thoát ly khỏi khuôn khổ đạo đức cũ mà làm trái ý gia đình, bị thầy me từ mặt. Anh sống một cuộc đời cô độc, lênh đênh, thiếu thốn, nhưng tự do. Dũng là hình tượng hướng tới của Loan, không chỉ là tình yêu, anh là hạt nhân trong tính cách của Loan, khiến nàng khát vọng được như Dũng, có những phẩm chất của Dũng, sống một cuộc đời như Dũng. Loan về nhà chồng, gạt bỏ cái tôi, cố sống như mọi người, cố lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nhưng nàng muốn yên mà gia đình chồng không để cho nàng yên. Nàng cưới chồng mà cảm tưởng như bị người ta mua về hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu hạ không công. Mâu thuẫn tư tưởng mới cũ diễn ra gay gắt. Đỉnh điểm là con trai bé bỏng của Loan không may sinh bệnh, mẹ chồng mê tín tin bọn thầy bùa, chữa bệnh bằng uống tàn hương nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm. Bé con qua đời một cách tức tưởi. Vốn khó sinh, Loan không còn khả năng mang thai, mẹ chồng bắt Loan đứng ra cưới vợ lẽ cho Thân, thật ra là hợp thức hóa một cuộc hoang dâm, ngoại tình. Vợ lẽ sinh được con trai, lại tỏ ra “kẻ trên”. Khi chức năng đẻ đã bị hỏng, Loan sống như một nô lệ không công, không thiếu đòn roi đánh mắng. Thương thân sinh và bởi cả món nợ cha mẹ chưa trả cho gia đình chồng, Loan tiếp tục nhẫn nhịn. Những tưởng cái đời sẽ từng bước đi lùi, mãi lùi về điểm già cỗi như thế, thì định mệnh xảy ra. Một vụ án mạng. Một phiên hầu tòa. Trắng án. Tự do! Nỗ lực tái thiết xã hội. Viết “Đoạn tuyệt”, Nhất Linh có chủ ý muốn bạn đọc đương thời yêu mới ghét cũ. Để thực hiện chủ ý ấy, ông dựng nên một cuộc xung đột giữa mới và cũ, ở đấy cái cũ hiện hình với tất thảy những xấu xí hủ bại: luân lý cay nghiệt ép con người vào đời nô lệ dưới vỏ bọc bổn phận gia đình, trọng nam khinh nữ, gia trưởng, dân trí thấp, mê tín dị đoan, bạo hành… Quyết định trắng án của quan tòa dành cho Loan, là thêm một tầng khẳng định để tác giả kết án chế độ đại gia đình cũ và dựng lập một chế độ mới, nơi con người cá nhân, đặc biệt là người phụ nữ có thể vui sống tự do trong tư tưởng lẫn thể xác, thoát ly mọi khuôn khổ gò bó của lễ giáo phong kiến. Ở một chừng mực nào đó, Nhất Linh đã thành công. “Đoạn tuyệt” được xem là một trong những kiệt tác của văn xuôi Việt Nam. Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu đã viết trên báo Loa năm 1945: ““Đoạn tuyệt” là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng phấn đấu. Nghĩa là vui mà sống.” Hẳn nhiên, không thiếu những ý kiến trái chiều, họ cho rằng xung đột trong gia đình  Việt Nam thời bấy giờ là kết quả tai hại của đầu óc lãng mạn trái mùa chạy theo Âu hóa (điều này đúng với cậu Văn Minh con cụ cố Hồng trong “Số đỏ”), nhưng lại sai đối với cô Loan. Loan trong “Đoạn tuyệt” là một người con gái có học, đứng đắn, khôn ngoan, đủ lý trí để xem xét mọi việc, đủ nghị lực để vượt qua thống khổ. Một người con gái mà khát khao “sống một cuộc đời tự lập, cường tráng” như Dũng, như một đấng nam nhi. Tuy nhiên, dùng tình tiết ngẫu nhiên để tạo bước ngoặc cởi bỏ nút thắt truyện đã gây nên một sự may rủi trong giải quyết vấn đề. Và bởi sự may rủi đó, nỗ lực tái thiết xã hội của Nhất Linh cũng còn bỏ ngỏ. Góc nhìn thiên lệch của Nhất Linh. Các sáng tác của Nhất Linh nói riêng, của Tự Lực văn đoàn nói chung đã “mở đầu một chặng đường mới trong văn xuôi” (chữ của Tô Hoài), góp phần định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, và “đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam” (chữ của Huy Cận). Tiểu thuyết của Nhất Linh hay! – Cho đến hiện tại, đây có lẽ đã là sự thật được chia ở thì hiện tại đơn. Cái hay ấy được tạo nên từ bút pháp nghệ thuật, lời văn, cách viết vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Nhưng về nội dung đề tài, phải nhận định rằng Nhất Linh đã có góc nhìn khá thiên lệch. Bản thân là một trí thức du học trời Tây 3 năm, Nhất Linh thành lập Tự Lực văn đoàn với 10 tôn chỉ, mà điều thứ 8 trong số đó là “Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa.” Để thực hiện tôn chỉ mà mình đưa ra, Nhất Linh kiên quyết bài trừ phong tục truyền thống, song song với ủng hộ văn minh, ủng hộ Âu hóa. Chưa nhắc đến việc Âu hóa trong bối cảnh đất nước bấy giờ có phải tất cả đều tốt đẹp hay không (cái này phải hỏi cụ Vũ Trọng Phụng). Nhưng phải chăng phong tục cũ nào cũng đáng bị công kích? Đạo Khổng du nhập vào Việt Nam hơn 1000 năm, để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo dục và lịch sử dựng giữ nước ở các triều đại phong kiến. Một ví dụ đơn giản dễ hiểu, đạo Khổng răn dạy con người phải “Trung quân ái quốc”, “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, bởi vậy góp phần không nhỏ tạo nên truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. Những truyền thống ấy có giá trị vĩnh hằng! Quay lại với “Đoạn tuyệt”, với luận đề giải phóng phụ nữ, mở rộng ra là giải phóng cá nhân và đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, chống chế độ đại gia đình, phê phán nền luân lý khắc khổ… Nhất Linh đã đặt toàn bộ phong tục tập quán truyền thống trong cái nhìn thành kiến, ông gạt bỏ toàn bộ, gạt bỏ luôn cả một cái lạy của đứa con khi tiễn đưa người mẹ về nơi chín suối. Ông đã để Loan, vì thể hiện thái độ chống cự lại tập tục cũ, mà không tế lễ, không bàn cỗ trong đám tang của mẹ mình. Dĩ nhiên, không cần rầm rộ “một đám ma gương mẫu” như cái cách ông vua phóng sự đất Bắc trào phúng trong “Số đỏ”, và đành rằng, có tưởng nhớ trong lòng, nhưng cái dập đầu với tất cả lòng thành kính tiếc thương đối với đấng sinh thành trước khi đưa người về nơi an nghỉ cuối cùng chưa bao giờ là điều thừa thãi hay đáng bài trừ cả! Nói cho cùng, đứng trước phong tục tập quán cũ, cần có thái độ gạn đục khơi trong để không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống cũng như các giá trị tinh thần, chứ không phải là phủ định toàn bộ như cách mà Nhất Linh tuyên ngôn và thực hiện. Hiểu thêm về Nhất Linh (1906 – 1963). Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, nguyên quán ở Quảng Nam nhưng sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là anh ruột của Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long và Thạch Lam Nguyễn Tường Lân. Ông từng theo học ngành Y và Mỹ thuật nhưng đều bỏ dở. Năm 1927, Nguyễn Tường Tam du học Pháp ngành khoa học, thời gian này ông có nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông lấy bằng cử nhân khoa học và về nước trong năm. Nguyễn Tường Tam đứng ra thành lập Tự Lực văn đoàn (03/1933), giữ vị trí cây bút chủ chốt và là linh hồn của nhóm. Ông cũng từng đảm nhiệm Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Ngoài cái tên Nhất Linh được dùng phổ biến hơn cả, ông còn sử dụng các bút danh Tam Linh, Nhất Chi Mai, Bảo Sơn, Lãng Du khi viết văn làm báo, Đông Sơn khi vẽ, Tân Việt khi làm thơ. Nguyễn Tường Tam còn là một chính trị gia. Ông sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một cây bút có tài, đồng thời là một chính khách có lòng yêu nước nhưng tham quyền lực và thiếu tầm nhìn nên đã lầm đường lạc lối. Bỏ qua lăng kính trính trị, cần khẳng định và thừa nhận những đóng góp có giá trị của Nhất Linh nói riêng và Tự Lực văn đoàn nói chung vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, vào câu văn và tiếng nói của dân tộc Việt Nam. *** Một buổi trưa chúa nhật, về mùa đông. Trong gian phòng ấm áp, bốn người ngồi quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài, mưa bụi lặng lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi, cành lá nặng nề, ướt át. Nghe có tiếng trẻ rao báo ngoài phố, cô giáo Thảo nhìn ra vườn hỏi chồng: – Cậu đã mua báo hôm nay chưa? Ông giáo Lâm đáp: – Mua rồi, tôi quên không đưa mợ xem – Thế họ có đăng tin gì thêm không, cậu? – Không. Thảo quay về phía một cô thiếu nữ ngồi ở ghế đệm dài, rồi hỏi: – Thế nào, chị Loan đã biết tin cô Minh Nguyệt tự tử chưa? Loan đáp: – Tôi biết rồi, biết trước khi họ đăng báo, vì tôi có quen cô ta. Khốn nạn, việc quái gì mà phải tự tử. Mẹ chồng ác thì về nhà bố mẹ mà ở, tội gì rước khổ vào thân rồi đến nỗi tự tử. Thảo nhìn bạn mỉm cười: – Chị nói dễ quá. Còn chồng, còn con… Loan ngắt lời: – Cô ấy chưa có con. – Vâng thì cô ấy chưa có con. Nhưng còn chồng… con gái đã bỏ chồng là mất cả một đời rồi còn gì. Mẹ chồng ghét, chồng bênh mẹ đuổi đi, cô Minh Nguyệt cho đời mình là hết hy vọng. Loan nói: – Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường. Thảo thấy bạn nói có vẻ giận dữ, mỉm cười đáp: – Chị đã biết ở xã hội mình, lấy chồng là lấy cả gia đình nhà chồng. Nếu không muốn thế thì chỉ có một cách là không lấy chồng nữa hay là chọn người nào không có gia đình mà lấy. Rồi nghĩ đến việc riêng của Loan, thấy Loan hiện đang bị bố mẹ ép lấy một người mà Loan không thuận, Thảo liền ôn tồn nói tiếp: – Nhưng nào mình có được tự ý kén chọn đâu mà bảo kén chọn. Từ nãy đến giờ, Dũng ngồi sát lò sưởi, loay hoay xếp lại mấy thanh củi, không nói một câu. Thấy hai cô bạn bàn tán mãi về một câu chuyện đã cũ kỹ, chàng liền quay lại nói: – Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi, muốn yên ổn thì đừng nghĩ đến nữa. Thảo đáp: – Anh thì anh cần gì gia đình mà bảo nghĩ đến. Còn chị Loan nay mai phải về nhà chồng, chị ấy không để tâm sao được. Rồi nàng mỉm cười tinh nghịch: – Chỉ trừ khi nào chị Loan lấy được người chồng không có gia đình như anh. Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt nghĩ đến nhân duyên của nàng. Nàng bị cha mẹ ép phải lấy Thân, một người bạn học thuở nhỏ của nàng, con một nhà giàu ở ấp Thái Hà. Việc này nàng thấy cha mẹ nói từ hồi nàng mới để tóc. Hai nhà trong mười năm trời nay vẫn đi lại thân mật, hai bên cha mẹ đã định ước cho Thân và Loan lấy nhau. Loan vẫn nhất quyết không chịu không phải là Loan chê gì Thân, vì Thân đối với nàng chỉ là một người quen, nàng không yêu mà cũng không ghét. Nhà Thân lại giàu, Loan chắc chắn rằng khi về nhà chồng, sẽ được sung sướng, an nhàn. Nhưng chỉ vì Loan càng ngày càng thấy cái tình của mình đối với Dũng không phải chỉ là cái tình bạn bè như trước kia. Nàng yêu Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng. Tuy định bụng không chịu lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha mẹ nàng đã quả quyết về việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong gia đình. Thảo nói: – Chị Loan nghĩ ngợi gì mà ngồi thừ ra thế kia? Hay là nghĩ đến đường chồng con sau này đấy? Loan mỉm cười rồi muốn giấu ý nghĩ riêng, nàng ngồi ngay người, hai tay để vào lòng, mặt nghiêm trang nhìn thẳng, bắt chước dáng cô dâu ngoan ngoãn, thỏ thẻ nói: – Cha mẹ đặt đâu, con xin ngồi đấy. Thảo cười bảo: – Còn cô rồi lại không thế à? Loan nói: – Em không lấy chồng. – Không lấy chồng thì làm gì? Loan ưa mắt nhìn Dũng đáp: – Thế anh Dũng thì sao? – Anh Dũng khác. Có phải không, anh Dũng? Dũng thẫn thờ đáp lại: – Phải, tôi thì đâu dám nghĩ đến đường vợ con. Không cửa, không nhà, nay đây mai đó, chính thân tôi, tôi cũng không biết sau này ra sao nữa là. Tôi chỉ có bạn chứ không có gia đình nào cả. Dũng đưa mắt nhìn vợ chồng ông giáo như cảm ơn hai người bấy lâu đã không sợ gì lời dị nghị của thiên hạ, sẵn lòng để chàng đi lại và lúc nào cũng âu yếm, coi chàng như một người em nhỏ đáng thương vì đã bị nhà và họ hàng ruồng bỏ. Ông giáo Lâm dựa vào câu của Dũng bảo đùa vợ: – Đấy, mợ xem sống như anh Dũng mới là đáng sống. Không vợ, không con, thênh thang tự do. Tôi thì có đi đâu một tí, mợ đã kêu la ầm trời đất. Cả ngày chỉ co ro ngồi đánh bóng tủ chè, đỉnh đồng. Cái đời vô vị tẻ ngắt. Mọi người cười ồ. Thảo nói tiếp câu của chồng: – Nhưng mà yên thân. Loan thoáng nghĩ đến hai cảnh đời trái ngược nhau: một cảnh đời yên tịnh ngày nọ trôi theo ngày kia như dòng sông êm đềm chảy, nhẫn nại sống trong sự phục tùng cổ lệ như mọi người con gái khác và một cảnh đời rộn rịp, khoáng đạt, siêu thoát ra hẳn ngoài lề lối thường. Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn, nghĩ thầm: – Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh năm phải kình kịch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh hợp với quan niệm mới của mình. Dũng chợt thấy Loan nhìn mình đăm đăm không chớp, có ý ngượng, quay lại với điếu thuốc lá, gắp than hồng châm hút, rồi uể oải đứng dậy xin phép về nhà. Thảo nhìn ra cửa sổ: – Trời vẫn còn mưa. Chúa nhật nhàn rỗi hãy ngồi ít lâu nữa. Rồi âu yếm như chị nói với em, Thảo ân cần hỏi: – Thế nào anh Dũng dọn nhà chưa? – Tôi vừa dọn xong, hôm nào thong thả mời anh chị và cô Loan lại chơi. Tôi xuống bếp đun nước lấy. Có thế mới quý. Thấy bộ quần áo của Dũng đã cũ kỹ, bạc màu, nghĩ đến cảnh nghèo của người bạn sống cô độc trong một gian nhà trọ, không thân thích, không đầy tớ, Loan bùi ngùi thương hại, hai con mắt dịu dàng nhìn Dũng, nói nửa đùa nửa thật: – Anh Dũng cần người hầu hạ thì đã có em. Em lấy rẻ mỗi tháng có năm hào công thôi… Câu nói đùa có ngụ ý không được tự nhiên làm cho Dũng ngượng nghịu, chàng gượng cười bắt tay ông giáo, cúi đầu chào Thảo và Loan, rồi cầm mũ, mở cửa đi ra ngoài mưa gió. Mời các bạn đón đọc Đoạn Tuyệt của tác giả Nhất Linh.
Chiếc Thang Cao Màu Xanh
Chiếc thang cao màu xanh là câu chuyện về sự trưởng thành, về tình yêu của một chàng trai - một tu sĩ. Tác giả Gong Ji Young đã vẽ nên câu chuyện tình yêu xen lẫn sự bàng hoàng của Yo-Han – một chàng trai sống và làm việc trong tu viện. Đó là quá trình mà Yo-Han gặp gỡ, yêu và trưởng thành, từ đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là cái gì?”… Thời gian dần qua đi, khi tất cả những sôi nổi yêu thương ngày nào đã trở thành dĩ vãng, Yo-Han của ngày hôm nay đã có thể bình tâm nhìn lại quá khứ:  “Ai sống trên đời cũng có những khoảng thời gian không thể nào quên. Đau khổ… Tươi đẹp… Cả những vết sẹo đã mờ nhưng vẫn còn nhức nhối... Mỗi khi nghĩ về quãng thời gian ấy, trái tim đang đập của tôi dường như nguội lạnh và phủ đầy rêu phong... Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng: “Tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây”. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời…” Câu chuyện bắt đầu từ một ngày nọ, Yo-Han nhận được tin của Soo-Hee và những ký ức về thời tuổi trẻ của ông trỗi dậy. Ngày ấy, Yo-Han trong khi giúp đỡ cô gái trẻ Soo-Hee làm luận văn đã nảy sinh một thứ tình cảm khác lạ, chưa từng biết đến, thôi thúc anh nghe theo tiếng nói nhân từ vang lên từ trái tim: “Ta đã mang cô ấy đến cho con. Hãy yêu đi, Yo Han”. Nhưng rồi sóng gió cuộc đời ập đến làm cho cuộc sống trong tu viện vốn đang trôi qua một cách bình lặng đột nhiên dậy sóng, nhấn chìm tất cả mọi bình yên đang có, và cuộc đời mỗi nhân vật rẽ sang những hướng khác nhau. Đó là một đêm mưa tầm tã, hai người bạn thân của Yo-Han là Micheal và Angelo chết vì tai nạn giao thông trong một cuộc tìm kiếm những chính kiến và niềm tin của riêng mình. Quá khủng hoảng, Yo-Han đã quay lại nhà thờ để cầu xin được gặp Soo-Hee một lần cuối cùng, nhưng cô đã không đến... Xuyên suốt cuốn sách là cách kể đan xen giữa những câu chuyện về thời kì Chiến tranh thế giới thứ 2 của một cha xứ người Đức, câu chuyện về cuộc loạn lạc trong nội chiến Nam - Bắc Hàn... và hơn hết là câu chuyện thấm đẫm tình yêu và sự hi sinh. Hóa ra, tình yêu thực sự không phải là cố công giữ lấy, mà là biết buông tay và quay đi để người kia bước tiếp mới thực là tình yêu cao cả. Câu chuyện đến cuối cùng mới để người đọc hiểu ra rằng, hóa ra tình yêu của cô gái trẻ Soo-Hee với Yo-Han lớn lao đến thế. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin thực tế về xã hội Hàn Quốc, có một số chi tiết đề cao tính nhân văn cao cả của tình yêu con người, sự hi sinh giữa cái sống và cái chết, giữa sự lựa chọn mất còn. Những chuỗi hồi tưởng nối tiếp nhau như ngàn con sóng vỗ bờ, kí ức với những cảm xúc sống động một thời tuổi trẻ sôi nổi và yêu thương của lớp người sinh ra sau chiến tranh, hưởng thụ cuộc sống đầy đủ về vật chất nhưng không vì thế mà không có lí tưởng về sự công bằng, về những điều đúng - sai, phải - trái, hoặc những bất công trong xã hội. Câu chuyện tình yêu của nhân vật chính được vẽ nên bằng thủ pháp hồi tưởng, vì vậy  càng khiến nó rung lên như những giai điệu trữ tình, sâu lắng nhất mà cũng ám ảnh nhất: “Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ, chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy, vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng”. Có thể nói, toàn bức tranh trong câu chuyện Chiếc thang cao màu xanh khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn cả về thông tin cũng như về tiết tấu cảm xúc của nhân vật trong truyện. Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn tiểu thuyết này, hi vọng mỗi độc giả sau khi đọc xong sẽ tự tìm được câu trả lời cho câu hỏi luôn ám ảnh chúng ta suốt cuộc đời: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là gì?” Tác giả GONG JI YOUNG  Sinh năm 1963 ở Seoul, tốt nghiệp khoa tiếng Anh trường Đại học Yonsei – một trong những trường đại học nổi tiếng nhất của Hàn Quốc. Bà là một trong bốn nữ nhà văn đương đại có sức ảnh hưởng lớn trên văn đàn Hàn Quốc, tác giả của nhiều cuốn sách bestseller. Tác phẩm của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có một số đã được dịch sang tiếng Việt như Cá Thu, Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ, Yêu người tử tù...  Bà được nhận nhiều giải thưởng văn học có uy tín: - 2001: Giải Văn học Hàn Quốc thế kỉ 21 lần thứ 7 và giải Văn học Tiểu thuyết lần thứ 27 của Hiệp hội Nhà văn Hàn Quốc. - 2004: Giải Văn học Oh Young Soo lần thứ 12. - 2011: Giải Văn học Yi Sang. Dịch giả: NGHIÊM THỊ THU HƯƠNG  Sinh năm 1979, Tốt nghiệp đại học chính quy ngành Tiếng Hàn, nhận học vị Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ học, từng được giải thưởng Sinh viên nước ngoài có thành tích học tập xuất sắc nhất năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tri thức Kinh tế Hàn Quốc. Hiện đang giảng dạy tại khoa Tiếng Hàn Quốc, Đại học Hà Nội. Các tác phẩm đã xuất bản:  Cẩm nang cho con gái đi lấy chồng (dịch chung), NXB Thanh niên, 2001 100 mẫu câu tiếng Hàn dành cho giáo viên và học sinh (Lee Yun Jin), NXB Giáo dục, 2004 Ngữ pháp tiếng Hàn đơn giản cho người nước ngoài (viết chung với tác giả Doo Won Sook), NXB Language Plus (Hàn Quốc), 2006 Hướng dẫn học và thi KLPT, NXB Giáo dục, 2008 Nâng cao năng lực dịch Hàn – Việt (viết chung với tác giả Lee Kye Sun), NXB Moon Erim (Hàn Quốc), 2015 Cá thu (Gong Ji Young), NXB Hội Nhà văn, 2015 Mây họa ánh trăng – Tập 5 (Yoon Isu), NXB Phụ nữ, 2018. Một số trích đoạn trong tác phẩm: 1. [...] Nói về cuộc sống trong tu viện, điều đầu tiên phải nhắc đến có lẽ là sự im lặng. Sống ở nơi này, tôi ngộ ra rằng sự im lặng không đơn giản là sự thanh vắng hay là trạng thái không có tiếng động, cũng không phải là khoảng lặng giữa những thanh âm. Ngược lại, có thể gọi nó là trạng thái của sự lắng nghe tích cực. Để tiếng ồn át tiếng ồn, cảm xúc vượt lên cảm xúc thì im lặng là lẽ tất nhiên.    Lần đầu tiên đến nơi này, tôi đang dạo bước bỗng dừng lại bởi nghe thấy tiếng chân mình – thứ âm thanh tôi chưa từng nghe thấy. Phần đế dép của tôi lúc đó bằng cao su, hầu như không phát ra tiếng động. Vậy mà có vô số tiếng động ẩn sau tiếng dép khe khẽ ấy vọng đến tai tôi. Tiếng của những bông hoa tuyết phủ trên cành thông rơi rơi, tiếng những cành cây trơ trụi lặng lẽ rung rung trong gió, tiếng côn trùng trở mình trong lòng đất, tiếng rễ cây từ từ vươn những nhánh rễ nhỏ đâm sâu vào đất mẹ. Tiếng gió nhẹ thoảng qua bên tai tôi lúc đó, phải chăng là tiếng ma sát của trái đất tự quay quanh trục? Dù vũ trụ, thần hay là người, khoảnh khắc dường như hé lộ về bản thân một cách ít ỏi, chính là những lúc như vậy. Thi thoảng những lúc ấy, bầu trời bất chợt mở ra với tôi, và có cái gì đó như sự bình yên không thể diễn tả được cứ lan ra trong lồng ngực.[...] 2. [...] Bi kịch của cuộc sống là khi ta giải mã được những tín hiệu đó thì sự việc đã kết thúc, hoặc không thể quay lại được nữa. Khi tất cả mọi sự đã chấm dứt rồi, ta nhìn lại, ta cứ tin rằng cuộc sống sẽ cho ta thấy những điểm sáng, nhưng cuộc sống lại phản chiếu cho ta những khung cảnh lộn xộn. Thế nên, tôi biết bắt đầu câu chuyện năm đó từ đâu nhỉ? Phải nói về ai trước nhỉ? Núi Bulamsan, tu viện Joseph, hoa lê trắng... Phải rồi, tên của cô gái ấy, tôi sẽ viết ra tên của cô ấy lần đầu tiên ở đây. Kim So Hee, So Hwa Teresa. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, cô ấy mặc chiếc áo len chui đầu màu đậu đỏ rộng thùng thình, đôi tất trắng cao đến đầu gối, đôi giầy thấp màu xanh nhạt diêm dúa. Khi tôi lần đầu tiên ngắm nhìn từ xa bóng dáng nhẹ nhàng ấy, cô gái ấy đang bước cùng một tu sĩ khác dưới những cành hoa lê. Cô vuốt ve mái tóc dài xõa ngang vai và nói gì đó với tu sĩ đang đi bên cạnh rồi nghiêng đầu về phía sau cười khúc khích. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, dáng vẻ của cô ấy là như thế đó. Lúc đó, tuy ở khoảng cách rất xa nhưng tôi vẫn như thấy rõ cô ấy đưa những ngón tay trắng ngần lên vuốt mái tóc. Những ngón tay mảnh mai. Và tôi giấu bức tranh chớp nhoáng của kí ức lần đầu gặp mặt người con gái ấy xuống tận đáy sâu của vô thức. Có lẽ là tôi đã xúc động mãnh liệt. Nếu lần đầu gặp mặt không bị uy hiếp thì chắc chắn tôi đã không cần thiết phải như vậy. Một thời gian sau, phải đến khi nhận được câu hỏi đầy thách thức của người con gái ấy ở thành phố W, kí ức cũ kĩ được lưu giữ trong vô thức kia mới hắt lên hóa thành ý thức của tôi. Đến lúc đó và một thời gian từ sau đó, cô ấy đã không hề có ý nghĩa gì đối với tôi.  “Cháu gái của Đức Giám mục, đã hoàn thành khóa học thạc sĩ ở Mỹ và về nước viết luận văn. Hình như là viết về sự áp lực của người theo tôn giáo. Thấy bảo là nhất định phải đến thành phố W”.[...] 3. [...] Đêm hôm đó, dường như tôi đã mang về phòng mình hình ảnh em bước đi giữa những bông hoa lê trắng, bộ váy trắng ngang đầu gối bay phất phơ, đôi chân nhỏ khi cánh cửa tàu bật mở, dáng ngồi nghiêng nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và tiếng em nghiêng đầu cười khúc khích.    Khác với cảm xúc hân hoan trong lòng, người tôi mệt lử, tôi không buồn nghĩ đến việc tắm rửa, mà đổ ập xuống giường và tắt đèn. Đúng khoảnh khắc đèn tắt, có luồng ánh sáng vụt qua. Tâm thức mệt ngoài của tôi tự hỏi, hay là tôi chưa tắt đèn? Chính giây phút tưởng lầm ấy, tôi hiểu ra ánh sáng đó chính là gương mặt em. Tôi chẳng ý thức được hết tất cả, gương mặt trắng mịn của em làm giãn các đốt xương tôi, ùa vào trái tim tôi. Ngẫm lại, có lẽ điều đó đi kèm với một chút đau đớn. Tôi hiểu đây là tình yêu. Dù tôi đã nhìn thấy mũi tên em bắn vào trái tim tôi, tôi nhìn thấy khoảnh khắc mũi tên lao đến, tôi đổ gục, nhưng tôi biết mình chẳng thể làm gì được. Nỗi đau của cảm giác ngọt ngào cực độ, nỗi đau của cảm giác cay đắng nghiệt ngã... “Như vậy không được đâu!” Tôi từ chối bằng một giọng rất nhỏ và cảm thấy thanh thản hơn. “Tại sao bạn yêu người ấy?” là một câu đúng về ngữ pháp. “Làm thế nào mà bạn được người ấy yêu?” cũng là một câu đúng về ngữ pháp. Thế nhưng thực tế, những câu đó không thể trả lời được. Nếu có thể nói rõ ràng lí do tại sao yêu thì là bởi vì trước đó không phải là tình yêu. Mãi sau này, một người đồng môn của tôi đã yêu một người con gái và rời tu viện để cưới cô ấy. Khi được hỏi tại sao cậu thấy yêu cô ấy, cậu ta đã trả lời thế này: “ Khoảnh khắc tớ nhìn thấy đôi tay cô ấy lúc đưa cho tớ tờ giấy A4, tớ đã phải lòng cô ấy rồi.” Thế thì là vì tờ giấy A4, hay là vì đôi tay của cô ấy? Câu trả lời là vì tình yêu, vậy thôi! [...] 4. [...] Đêm đó, tôi mang về phòng mình gương mặt em sau khi xóa lớp trang điểm có vết tàn nhang mờ mờ dưới mắt, tôi mang về đôi tay em mềm mại như cục bột mì mới nhào và giọng nói pha chút nũng nịu của em nữa. Lần này, trước khi tắt đèn, tôi thấy hình ảnh em vội nắm lấy và kéo tay tôi lại. Tôi không nhớ đã nhìn tay mình từ lúc nào. Tay trái tôi là tay So Hee, tay trái ấy nắm lấy tay phải. Bàn tay đã sần sùi nhiều. Tôi ngượng nghịu xoa xoa bàn tay thô ráp lên mu bàn tay khô. Rồi tôi ngả lưng, tôi trông thấy gương mặt em với đôi mắt mở to, chớp chớp và cứ thế tôi gọi tên em. “So” nghĩa là Hy vọng, “Hee” nghĩa là Màu trắng. Tên em nghĩa là HY VỌNG MÀU TRẮNG. Tôi gọi tên em mà thấy như từ đâu những bông hoa trắng đang rơi rơi.  Tôi không kể với ai chuyện có hình bóng em trong trái tim tôi. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện vì em. Tôi tin những lời cầu nguyện của tôi là chân thành, và tôi hạnh phúc. Tiếng chuông sáng sớm vừa reo, tôi cất gương mặt trắng mịn ấy trong lồng ngực và dự giờ cầu nguyện sáng. Cả thế giới đang là mùa xuân, khắp đất trời đang ngập tràn hương hoa.[...] 5. [...] Chúng tôi đi vào con đường hướng ra phía bờ sông. Thành phố W rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng có chiếc xe chạy ngang qua rất nhanh như cắt mặt đường nhựa nhợt nhạt, gió thổi mạnh làm mái tóc của So Hee tung bay, và mỗi lần như thế, tôi lại nghe như có một mùi hương tựa hương hoa thần bí lãng đãng đâu đây. Mặt trăng đang chiếu soi mọi con đường của thành phố W. Con đường hắt lên thứ ánh sáng bàng bạc, và những cột đèn đường màu vàng đứng sừng sững như những cây hoa cao lớn ở thành phố W lúc về đêm. Bóng của chúng tôi đổ xuống lắc lư, dài ngoằng. Lúc đầu, khoảng cách giữa cô ấy và tôi rộng đủ để gập cả khuỷu tay, nhưng rồi theo bước chân và hình dáng của con đường mà khoảng cách ấy dần dần thu hẹp lại, và cứ mỗi lần bờ vai của hai chúng tôi va vào nhau, chúng tôi lại cúi đầu và tiếp tục bước đều, xen lẫn chút căng thẳng. Mỗi người cầm một lon bia trên tay, và chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng bên bờ sông. Dường như thứ bột ánh sáng bạc từ mặt trăng rắc xuống đang bao phủ cả thế gian này. Dường như khi chúng ta ngủ, bằng một mùi hương khác, thế gian như bị ủ lại, muối và lên men. Việc tôi ngồi cùng cô ấy ở bờ sông đêm nay chỉ như một giấc mơ. So Hee ngồi trên băng ghế, chân đung đưa, chắp hai tay lại ngay ngắn và nhìn ngắm nước sông. Chiếc bóng của vầng trán trắng, của sống mũi  thật sự rất đẹp. “Em đã đọc một bài viết của tác giả nào đó. Trong đó có nói là thế giới này có hai loại người. Một là bỗng dưng vào một đêm nào đó muốn nắm tay ai thật chặt và bỏ chạy, một là chưa từng có suy nghĩ như vậy. Vấn đề là ở chỗ phải nắm tay thật chặt”. So Hee nhìn dòng sông và lẩm nhẩm như đang nói một mình, vừa dứt lời liền quay đầu nhìn tôi chăm chú. Tôi không nhớ rõ ai là người đã tiến đến gần với người kia trước. Và rồi đêm hôm ấy, hai cặp môi, một thì lạnh như đá khô và một thì nóng bỏng như lò luyện, một nét đẹp như cánh hoa hồng và sắc ngọt như một vết thương của lưỡi dao lam đã khắc sâu vào trái tim tôi. Khoảnh khắc môi chạm vào bờ môi, toàn bộ cơ thể tôi như tan vụn xuống giống những hạt vụn bạc, và toàn bộ cơ thể tôi lại đột ngột trong tích tắc như muốn bay vút lên đỉnh núi. Máu trong huyết quản dồn ứ như nước sông xoay vần, và một dòng điện hàng vạn vôn khiến tôi không còn chút sức lực nào, tôi thấy mình rộng thênh thang như những bình nguyên lộng gió. Chúng tôi ngồi trên băng ghế, hai tay của mỗi người vẫn giữ những lon bia, đôi môi vừa chạm nhẹ, So Hee liền vừa vòng tay ôm lấy cổ tôi, vừa nép sát vào người tôi. “Chúng mình nắm thật chặt tay, rồi... bỏ chạy nhé?” Tôi hỏi. “Ừ, chúng mình nắm thật chặt tay rồi...” Cô ấy đã trả lời. Chúng tôi đã nắm tay thật chặt và ngồi ở đó cho đến khi mặt trăng gần như lặn mất ở phía bên kia sông. Ngày hôm ấy, dòng sông, ánh trăng, băng ghế, con đường và những thân cây đã hiện diện cùng chúng tôi hết sức bình yên. Đến khi giây phút mà tôi đã ước gì thời gian ngưng lại được ấy, cái đêm mà tôi đã nghĩ muốn buộc chặt trăng vào bầu trời trên kia, giữ lại nước sông và làm cho những thân cây với màu xanh mơn mởn sẽ mãi mãi đung đưa trên đầu chúng tôi ấy tàn đi, chúng tôi lại bước về hướng tu viện. Tu viện đang chìm trong giấc ngủ. Thế nhưng tu viện đang ngủ như bao ngày khác đó, đối với tôi đã không còn là tu viện ấy nữa. [...] 6. [...] “Bà chỉ sống chung được với ông khoảng một năm sáu tháng. Nhưng năm mươi năm trôi qua, chưa một lần tình yêu của bà với ông thay đổi. Thật đấy! Dù chỉ là một lần… Như cháu đã biết, sau này bà cũng có những người bạn mới. Nếu nói bà không có người bạn khác là không đúng. Nhưng bà không thể tiến xa hơn với họ được bởi không thể hứa hẹn được điều gì. Vì trong lòng bà, ông ấy vẫn còn hiện hữu. Đừng có mang cái nét mặt như thế, Yo Han! Điều đó không có gì phải buồn! Không phải là vì sau này bà yêu những người đó ít hơn, mà là vì dù cho họ có là ai đi nữa thì tình yêu của bà với họ cũng không thể nào sống động, mạnh mẽ như tình yêu của bà với ông cháu được. Và bà cũng không cảm thấy được ở họ cảm xúc như của ông khi yêu bà. Sau một thời gian dài, thỉnh thoảng bà lại nghĩ, liệu mình có phải là một người phụ nữ hạnh phúc ở tuổi này hay không?” Hồi tưởng lại những việc đã qua hơn năm mươi năm, sức mạnh tình yêu có thể khóc lên như vậy gọi là gì? Là sức mạnh có thể nói rằng: Hạnh phúc khi trải qua nỗi đau? Hay sức mạnh tình yêu ngắn ngủi mãnh liệt hơn tất cả? Người ta cho rằng thời gian là liều thuốc chữa lành vết thương, thời gian trôi đi ta có thể quên tất cả, tôi tin những người lớn tuổi sẽ nói như vậy. Thế chẳng phải thời gian có thể xoa dịu nỗi đau hay sao? Sau đó rất lâu tôi vẫn cứ nghĩ mãi về điều ấy. Và sau rồi tôi nhận ra, sự mài mòn của thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Tình yêu chân chính dường như là thứ không thể nào mòn được, nỗi đau chân chính, nỗi buồn chân chính và cả niềm vui chân chính, thời gian có thể làm tiêu tan, làm biến mất mọi thứ giả dối nhưng để lại tất cả những chân tình, đích thực. Như vậy, có thể nói cái mà thời gian có thể khiến ta quên đi được không phải là những chân tình. [...] 7. [...] Một hôm, sau lễ Misa, tôi quỳ lạy ở bục xưng tội và lại ngước nhìn lên cây thánh giá. “Ta gửi cô ấy đến bên con. Hãy yêu đi! Hãy yêu nhiều hơn nữa”. Dường như giọng nói ấy lại vang lên. Sự tức giận vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Rốt cuộc Người bảo tôi hãy yêu nhiều hơn nữa, yêu hết mình rồi lại bảo “cái gọi là tình yêu nghĩa là tình yêu không báo đáp”, rốt cuộc thì Người đang chế giễu tôi. Vào một đêm mất ngủ, tôi nghe thấy tiếng những con rệp kêu dai dẳng. Tôi chợt nhận ra mùa thu đã tràn ngập khắp nơi, vào giây phút vũ trụ vẫn đang chuyển mình như thế, tôi thậm chí còn cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ. Đó là bởi từ nơi sâu thẳm bên trong tôi có điều gì đó đang thay đổi và đang muốn thay đổi. Bên trong tôi, những điều không muốn thay đổi và những điều muốn thay đổi đang cọ xát và tranh đấu với nhau. Những vết thương lại đau đớn và nhức nhối. Tôi cảm nhận được linh hồn mình sốt cao. Dù không biết điều gì sẽ đến, nhưng tôi dự cảm được rằng qua đêm nay sẽ có điều quan trọng nào đó đến. Dù sao, đêm nay giống như một tiết giao mùa của cuộc đời.  Tôi đứng dậy và đi đến gần cửa sổ. Lâu lắm rồi tôi mới ngước nhìn bầu trời đêm. Mặt trăng tròn viên mãn, phía nửa kia là những vì sao đang tỏa sáng hòng đua tranh. Tôi bỗng lại nhớ về một đêm trong thời gian tu tập ở tu viện. Tôi nhớ đến cây thánh giá của tu viện sáng lấp lánh nhờ luồng sáng kì lạ do những chòm sao gắn với nhau tỏa ra. Sự khoan khoái mỗi khi ngắm nhìn cây thánh giá của tu viện, tấm chân tình của tuổi thanh xuân nồng nhiệt hướng đến thánh thần của tôi đã đi đâu mất rồi? “Bởi tình yêu không biết đi”. Câu nói của tu sĩ Thomas lại vang lên. Tôi cũng nhớ đến câu nói của vị linh mục người Đức: “Đối với chúng ta, cho dù không có niềm tin đủ để xê dịch núi sông, cho dù không thể nói được thứ ngôn ngữ kì lạ, dù không chết vì người khác, nhưng nếu có tình yêu thì chúng ta cũng không vì những điều đó mà trở nên vô nghĩa”. Nghĩ đến việc trong muôn vàn tình yêu thương mà tôi được nhận từ khi sinh ra mà không có thứ gì đọng lại làm trái tim tôi thấy xót xa. Tôi cảm thấy thật bi thảm, cảm thấy mình có lỗi và một chút gì đó như bi quan khiến tôi không thể hiên ngang được. Kể từ sau khi Michael và Angelo chết, tôi còn lại có một mình. Sự cô độc đã kéo tôi chìm sâu hơn nữa vào trong nỗi cô đơn. Sự trầm mặc thì luôn nặng nề mà sự cô đơn thì luôn yếu đuối. Tôi mang tâm trạng hoang mang của một người không biết phải đi đâu, mà con đường trước mắt thì mờ mịt như sương phủ kín. Giống như lời của một nhà thơ nào đó đã nói, “đến cả một chỗ để đặt chân” cũng không thấy. Hàn Quốc trong trái tim tu sĩ Thomas cũng vậy, ông nội tôi trong trái tim bà tôi cũng vậy, Michael trong trái tim cô gái ấy, tôi trong trái tim của người mẹ đơn thân Monica kia, đâu đó luôn ngự trị một tình yêu. Nhưng trong trái tim tôi chẳng có gì. Tự nhiên, lúc đó trong lòng tôi lại vang vang những lời như ai đó đang thủ thỉ vỗ về:  “Không sao đâu Yo Han! Thế cũng được mà”. Trong phút chốc tôi bỗng thấy bàng hoàng, tôi do dự hỏi lại chính mình “có thực sự là không sao không?” và bật khóc. [...]      8. [...] Tôi đã rời khỏi tu viện. Bỗng nhiên đập vào mắt tôi là hình ảnh cây mộc liên mà tôi đã từng treo bộ lễ phục tôi cởi ra để đi dạo đêm với So Hee. Trong mười năm vừa qua, cây đã lan ra thành rất nhiều tán và cao lên nhiều. Dưới bóng râm của tán cây ấy, Angelo trẻ tuổi đang đứng chất những hộp nến sáp ong mới làm xong lên. Michael đang từ từ lần chuỗi hạt và treo hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh lên. So Hee mặc áo len trắng, tai đang đeo tai nghe và vẫy tôi từ đằng xa. Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ. Chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy. Vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng. Tu sĩ Thomas, người đã lên thiên đàng năm ngoái, đã từng nói với tôi như thế này: “Tình yêu là thứ không thể mất đi được. Vì tình yêu là thứ không biết đến sự ra đi”.  Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng sẽ không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời.[...] Mời các bạn đón đọc Chiếc Thang Cao Màu Xanh của tác giả Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch).
Bản Đồ Và Vùng Đất
Giải Goncourt 2010   Cuốn tiểu thuyết nào của Michel Houellebecq cũng gây ra náo loạn trên văn đàn Pháp; không ra khỏi thông lệ đó, Bản đồ và vùng đất cũng vậy, mặc dù người ta đã không còn lạ giọng văn và thái độ khiêu khích của nhà văn sau một loạt tác phẩm của chừng hai mươi năm trở lại đây. Houellebecq vẫn còn sở hữu nguyên vẹn khả năng quấy rầy tâm trí độc giả, và nhất quyết không để thế giới yên ổn với những gì cầm chừng, nhạt nhẽo. Nhưng tinh ý hơn, ta sẽ thấy Michel Houellebecq của Bản đồ và vùng đất sâu sắc (và thậm chí là đằm thắm) hơn hẳn, cũng mệt mỏi hơn (mặc dù vẫn vô cùng sắc nét). Câu chuyện về người nghệ sĩ Jed Martin đặt lại vấn đề về bản chất của nghệ thuật trong tương quan với thế giới vật chất, nhưng cùng lúc đó cũng là một câu chuyện sâu lắng, buồn bã. Có lẽ chưa bao giờ Houellebecq viết hay như vậy về tình yêu, về sự bất khả của tình yêu con người. Lời khen tặng “Michel Houellebecq tạo nên một cuốn tiểu thuyết có kết cấu vô cùng vững chắc và trôi chảy hoàn hảo […] có thể là tiểu thuyết hoàn chỉnh nhất của ông, chắc chắn là cuốn sách mỉa mai nhiều nhất, và hẳn là cuốn sách sâu sắc nhất.” - Télérama   “Với Bản đồ và vùng đất, tiểu thuyết gia đã lặn ngụp vào thế giới nghệ thuật đương đại. Người ta chờ đợi một quả bom, nhưng kết quả lại là một cuộc bắn pháo hoa của sự hài hước, sự châm biếm và nỗi buồn.” - Le Nouvel Observateur   “Chính là xuất phát từ quãng cách giữa sự thiếu vắng cảm xúc và những ảo ảnh do sự nổi tiếng tạo ra mà Michel Houellebecq (Houellebecq đích thực) tạo nên một câu chuyện có sức mạnh, hài hước và sáng tạo cao độ.” - Le Monde   “Houellebecq của năm 2010 ít nghiệt ngã và ít gây cười hơn (chúng ta lấy làm tiếc vì điều đó) so với trong quá khứ nhưng ông đã hoàn toàn thành công trong cách thức giữ khoảng cách với mọi thứ mà vẫn nhìn chúng thật sát.” - Fluctuat.net Về tác giả Michel Thomas (sinh ngày 26 Tháng 2, 1956) nổi tiếng với bút danh của ông Michel Houellebecq, là một tác gia, nhà làm phim và nhà thơ Pháp. Từ những năm 1990, ông trở thành một trong số tác giả đương đại viết bằng tiếng Pháp nổi tiếng nhất trên thế giới. Ông bắt đầu được biết đến với tiểu thuyết đầu tay Mở rộng phạm vi đấu tranh năm 1994, đặc biệt là tác phẩm Hạt cơ bảnvào năm 1998 đã đem ông tới đông đảo độc giả. Cuốn này, cùng với tiểu thuyết kế đó,Nền tảng vào năm 2001 được xem như những tác phẩm khai phá của văn học tiếng Pháp, với những mô tả sắc bén mà không kém phần hài hước về những thiếu thốn tình cảm và tình dục của con người phương Tây thập niên 1990, 2000. Là một tác giả gây nhiều tranh cãi, ông đã nhiều lần hụt Giải Goncourt cho đến khi được vinh danh giải này năm 2010 với tiểu thuyết gần đây nhất, Bản đồ và vùng đất. *** Lời cảm ơn Thường thì tôi không có ai để cảm ơn, vì tôi ít khi đi tìm tài liệu, thậm chí là rất ít khi, mặc dù người ta cứ hay so sánh tôi với một tác giả người Mỹ. Nhưng lần này, tôi rất ấn tượng và rối trí trước ngành cảnh sát, và thấy có lẽ cần thu thập thông tin nhiều hơn. Vậy nên tôi rất sung sướng được cảm ơn Teresa Cremisi, người đã thực hiện các thủ tục cần thiết, cũng như chánh văn phòng Henry Moreau cùng thiếu tá cảnh sát Pierre Dieppois, họ đã thân ái tiếp đón tôi ở Ke Orfèvres và cho tôi những lời giải thích rất hữu ích về nghề nghiệp khó nhọc của mình. Lẽ dĩ nhiên tôi rất thoải mái trong việc thay đổi các sự kiện, và các ý kiến được nêu ra chỉ liên quan đến các nhân vật phát biểu ra chúng; nhìn chung, ta phải nhớ mình đang ở trong khuôn khổ một tác phẩm hư cấu. Tôi cũng cảm ơn Wikipedia (http://fr.wikipedia.org) và những người đóng góp ở đó, thỉnh thoảng tôi đã lấy nguồn thông tin này làm cảm hứng, nhất là các thông tin về loài ruồi, về thành phố Beauvais và về nhân vật Frédéric Nihous. *** Jeff Koons đứng bật dậy khỏi ghế, hai cánh tay vung về phía trước trong một cơn hứng khởi. Ngồi trước mặt ông trên ghế sofa bằng da màu trắng một phần phủ vải lụa, hơi thu mình lại, Damien Hirst(*) như thể sắp buột miệng một lời phản đối; khuôn mặt ông ửng đỏ, sầu muộn. Cả hai đều mặc com lê đen - bộ của Koons có các đường sọc mảnh - áo sơ mi trắng và cà vạt đen. Giữa hai người, trên cái bàn thấp là một giỏ đựng những thứ trái cây dầm mà không ai mảy may chú ý đến; Hirst uống một lon Budweiser Light. Sau lưng họ, một ô kính lớn mở xuống khung cảnh toàn những tòa nhà cao tạo thành khối chằng chịt kiểu Babylon những hình đa diện khổng lồ, trải dài đến tận chân trời; đêm thật sáng, không khí trong suốt. Như thể đang ở Qatar, hoặc Dubai; cách bài trí của căn phòng trên thực tế lấy cảm hứng từ bức ảnh rút ra từ một quảng cáo Đức rất xa xỉ, khách sạn Emirates ở Abu Dhabi. Trán Jeff Koons hơi sáng bóng lên; Jed lấy bàn chải đánh mờ đi, rồi lùi lại ba bước. Chắc chắn là có một vấn đề với Koons. Hirst về cơ bản thì dễ nắm bắt: có thể làm ông trở nên tàn bạo, vô sỉ, theo kiểu “tôi ngồi trên đống tiền của tôi ị vào các người”; cũng có thể biến ông thành nghệ sĩ nổi loạn (nhưng dù sao thì vẫn giàu) theo đuổi một tác phẩm đầy hoang mang về cái chết; rồi thì ở khuôn mặt ông có cái gì đó như tứa máu và nặng nề, điển hình kiểu Anh, trông rất giống một người hâm mộ cuồng nhiệt của câu lạc bộ Arsenal. Nhìn chung là nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng có thể kết hợp được trong bức chân dung thuần nhất, khả dĩ tái hiện, về một nghệ sĩ Anh điển hình của thế hệ ông. Còn Koons thì như thể mang trong mình cái gì đó có tính chất kép, giống như một điều mâu thuẫn không thể vượt qua giữa sự mưu mô thông thường của địa hạt kỹ thuật-thương mại và trạng thái xuất thần của người khổ hạnh. Đã ba tuần nay Jed bỏ công sửa sang biểu hiện của Koons đang đứng bật dậy khỏi ghế, hai cánh tay vung về phía trước trong một cơn hứng khởi như thể đang cố thuyết phục Hirst; việc này cũng khó y như khi phải vẽ một nhà văn theo phái Mormon(*) chuyên viết văn khiêu dâm. Anh có những bức ảnh chụp Koons một mình, chụp với Roman Abramovitch, Madonna, Barack Obama, Bono, Warren Buffett, Bill Gates… Không bức ảnh nào diễn đạt được dù chỉ một mảy may tính cách của Koons, thoát được ra khỏi cái vẻ ngoài một tay bán xe ôtô mui trần Chevrolet mà ông đã chọn khoác lên mình để đối mặt với thế giới, thật đáng bực, mặt khác từ lâu nay các nhiếp ảnh gia đã làm Jed phát bực, đặc biệt là các nhiếp ảnh gia lớn, với lời tự phụ có thể hé lộ được trong những bức ảnh của mình sự thật của những người làm mẫu cho họ; họ chẳng hé lộ được cái gì hết, họ chỉ làm mỗi một việc là đứng ra trước mặt bạn và nhấn nút kích hoạt động cơ chiếc máy của họ để chụp lấy hàng trăm bức ảnh trong niềm sung sướng nhỏ mọn với những tiếng cục cục thốt ra từ cổ họng, và sau này họ chọn lấy những bức đỡ tệ nhất của cả loạt, đó chính là cách họ tiến hành, không có ngoại lệ, tất cả những tay tự cho mình là nhiếp ảnh gia lớn ấy, cá nhân Jed có quen biết một số trong đó và chỉ cảm thấy khinh bỉ bọn họ, anh xem tất tật bọn họ có khả năng sáng tạo gần gần ngang bằng với một cái Photomaton(*). Trong bếp, vài bước chân đằng sau lưng anh, hệ thống sưởi liên tục phát ra những tiếng lạch xạch khô khốc. Anh đứng lặng, tê liệt. Đã là 15 tháng Chạp.   Mời các bạn đón đọc Bản Đồ Và Vùng Đất của tác giả Michel Houellebecq & Cao Việt Dũng (dịch).