Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xứ Tuyết

Xứ tuyết  là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông. Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng. Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một ca kỹ với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng. Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng. Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komado, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội. *** Trong “Xứ tuyết”, thiên nhiên Nhật Bản hiện lên giản dị và tĩnh mịch, mong manh và u huyền. Những tác phẩm của Yasunari Kawabata đã giữ một vị trí đặc biệt trong văn học cận-hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giúp Kawabata dành giải Nobel văn học (Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết), tiểu thuyết Xứ tuyết thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong truyền thống của người Nhật Bản. Đó là bài thơ về cảnh sắc thiên nhiên, là bài ca về tình yêu, cũng là nơi tìm lại vẻ đẹp Nhật Bản. Nhóm sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nghiên cứu khoa học “Thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong quan niệm Kawabata”, thông qua tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. Biên tập viên Sóng Trẻ xin lược trích chương 2 của báo cáo khoa học, “Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản” ở bài đăng này. Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản Trong Xứ tuyết, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp xuất phát từ chính những quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata. Cái đẹp phong phú của tự nhiên hiện ra từ chính vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ tuyết. Thiên nhiên xứ tuyết là một bài thơ Haiku bằng văn xuôi dung hợp trong đó những quan niệm thẩm mỹ nổi bật nhất của Kawabata. Từ đặc trưng của các nguyên lý thẩm mỹ và nội dung cụ thể của tiểu thuyết Xứ tuyết, chúng tôi tiến hành phân loại và tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ của Kawabata với 4 nội dung: 1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống (Wabi) 2. Thiên nhiên mang vẻ cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian (Sabi) 3. Thiên nhiên trong cảm nhận về sự mong manh, u buồn (Aware) 4. Thiên nhiên mang vẻ đẹp u huyền (Yugen) 1. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống 1.1. Thiên nhiên với những sự vật nhỏ bé Trong cảm nhận của Shimamura, bên cạnh những giây phút thiên nhiên hiện ra với vẻ lung linh kì ảo thì đó là hình ảnh thiên nhiên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc: “Lưng chừng dốc trên lùm cỏ cao và đám bụi rậm, là một bụi tre lùn rậm rạp mà cành tỏa ra mọi phía. Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng. Mảnh vườn thật bình thường lại rực rỡ ánh ban mai khiến Shimamura được hưởng lần đầu tiên thứ màu xanh tươi tắn lạ, như được đánh bóng lên trong buổi sáng mát lành”. Hình ảnh bụi tre, vườn tược với những luống khoai lang, củ cải… giống như những biểu tượng của một làng quê hồn hậu, giản dị. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của vùng đất phương Bắc băng giá hiện lên từ chính những hình ảnh giản dị này. Thiên nhiên xứ tuyết dường như mất đi cái lạnh lẽo, cô đơn trong mỗi trận bão tuyết mà trở về với vẻ đẹp thường ngày. Hình ảnh thiên nhiên phương Bắc đối lập với sự hoa lệ, ồn ào của Tokyo chính là những gì mà người lữ khách Shimamura đang tìm kiếm. Dường như có một sự cách biệt rất lớn giữa cuộc sống thành thị và thiên nhiên ở xứ tuyết. “Đó cũng là khoảng cách giữa hai cõi: thế giới loài người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng tầm thường, tâm hồn chai sạn do ảnh hưởng của nền công nghiệp cơ khí hiện đại và thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu những giá trị truyền thống”. Qua nhận định trên của TS. Nguyễn Thị Mai Liên, vẻ đẹp Wabi hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên xứ tuyết cũng chính là giá trị của cái đẹp theo quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản – cái đẹp đơn sơ, giản dị. [...] 1.2. Thiên nhiên trong nhịp sống thường nhật Thiên nhiên xứ tuyết hiện lên trong nhịp điệu cuộc sống thường ngày, phập phồng hơi thở của cuộc sống con người. Thiên nhiên thấp thoáng bóng dáng của con người, của những ngày sống đơn điệu mà đẹp đẽ, yên bình. Trong xứ tuyết, vẻ đẹp của ngày mùa, của những bông lúa hiện lên với tất cả những gì thanh bình, ấm áp. Đó là cuộc sống con người, cuộc sống của vùng núi phía Bắc – một cuộc sống giản đơn êm ả bên cạnh sự lạnh lẽo, dữ dội của những ngày tuyết phủ: “Lúa khô cũng phơi trên sào trước nhà yoko trong cánh đồng thoai thoải ngăn cách với đường. Một dãy dài treo thành một bức rèm giữa đám cây hồng, trước bức tường trắng bao quanh khu vườn đến tận lỗi vào nhà bên cạnh, một dãy khác, ở góc phải, men theo rìa cánh cổng trước vườn, chìa ra một góc để lấy lối đi lại. Trong đồng lúa, những cây khoai sọ vẫn đang xanh tốt, tàu khỏe, lá cứng cáp; ngược lại, những đóa thược dược và những hoa hồng thì đã héo tàn. Chiếc ao sen nuôi cá vàng lấp lõ phía sau những tầng lúa…”. Vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên xứ tuyết đã tái hiện nguyên vẹn nhịp sống thường ngày của con người nơi đây. Đó là những vẻ đẹp vẫn luôn tồn tại trong đời sống, vẻ đẹp của mỗi ngày trôi qua ở vùng đất phương Bắc. Nhưng dưới con mắt của Shimamura, nó hiện ra tràn đầy hơi thở, tràn đầy sức sống, nhịp sống chảy trôi, tràn đầy bóng dáng của con người. 2. Vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian 2.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch Sabi được Kawabata khơi dậy trong thiên nhiên Xứ tuyết giống với vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch trong mỹ học Nhật Bản trung đại với những vần thơ của Basho. “Tác phẩm không chỉ mang phong cách haiku mà còn gợi nhớ đến tập nhật kí du hành của Basho là Oku no hosomichi (Con đường sâu thẳm). Cả hai đều tìm kiếm cái đẹp trong sâu thẳm thiên nhiên ở tận phương Bắc: Oku của Basho và Xứ tuyết của Kawabata. Cả hai đều tìm kiếm cái tố phác chưa bị những hội chợ phù hoa làm vẩn đục”. Nhận định trên đây của Nhật Chiêu đã đặt vẻ đẹp ấy trong sự đối sánh với những “Hội chợ phù hoa” của phương Tây. Có thể nói, vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch của thiên nhiên là vẻ đẹp dường như ngưng đọng trong không gian xứ tuyết, không pha lẫn sự ồn ào, náo nhiệt mà trái lại là vẻ đẹp của sự yên tĩnh, thâm trầm. Sabi với vẻ cô đơn, tĩnh mịch hiện lên trong thiên nhiên xứ tuyết là hình ảnh những cây bá hương và sự yên tĩnh của những khu rừng bá hương. “Thân của những cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi mặt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lớp lá kim xanh thẫm dày đặc. Yên tĩnh và thanh bình như một bài thánh ca”. Sự cô đơn, tĩnh mịch của rừng cây được gợi tả bằng những cảm nhận nhãn quang về màu sắc: đen, xanh thẫm. Những gam màu tối ấy khiến thiên nhiên xứ tuyết không hiện lên rực rỡ, thanh khiết mà cô đơn, trầm lặng, tĩnh mịch. “Những cây bá hương phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây ấy, hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng”. Những cây bá hương vào mùa thu hiện lên với màu trắng. Tuy không phải là những gam màu tối mà Shimamura đã cảm nhận khi lần đầu ngắm nhìn những cây bá hương nhưng sắc trắng này vẫn mang lại cho thiên nhiên một vẻ đẹp cô đơn. Sự mờ ảo lẫn vào khu rừng bá hương cũng chính là vẻ cô đơn, tĩnh mịch không lời của thiên nhiên xứ tuyết. Có thể nói, Sabi với vẻ đẹp không lời của sự cô đơn và tĩnh mịch đã hiện lên nguyên vẹn trong thiên nhiên xứ tuyết. Sự tĩnh mịch gần như ngưng đọng của thiên nhiên xứ tuyết khiến cho cảm nhận về thời gian ở đây dường như không trôi chảy. Đó cũng chính là vẻ đẹp mà thời gian đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây. 2.2. Thiên nhiên cổ sơ mang dấu ấn thời gian Những thiên tiểu thuyết của Yasunari Kawabata thường xuất hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm quan về thời gian. Trong Xứ tuyết, dấu ấn thời gian hiện lên rõ nét qua hệ thống những biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Từ đó, Sabi lại được cảm nhận dưới vẻ đẹp được tạo nên từ thời gian trôi chảy – vẻ đẹp cổ sơ mang màu dấu ấn thời gian. Trước hết, vẻ đẹp cổ sơ hiện lên từ những hình ảnh biểu tượng của thiện nhiên xứ tuyết. Trước hết, vẻ đẹp đó hiện ra từ hình ảnh con tàu. Ngay từ đầu tác phẩm, con tàu đã hiện lên với tư cách là một phương tiện đến với xứ tuyết – một vùng đất gần như riêng rẽ, tách biệt: “Còn các toa tàu cũ kĩ, chúng như đã trút bỏ trong đường hầm bộ áo lóng lánh của sương giá tuyết băng. Tàu chạy xuống một thung lung, ở đây, những khoảng tối hơi nhuốm màu hoàng hôn và ngập đầy những vực thẳm xen giữa các ngọn núi chồng lên nhau”. “Con tàu với ba hoặc bốn toa cũ rích và cổ lỗ, chẳng giống gì những đoàn tàu nhanh ở các chuyến lớn trung tâm, khiến ta tưởng như đang ở trong một con tàu của xứ sở khác hoàn toàn xa lạ”. Con tàu của xứ tuyết cũng mang dáng vẻ của vùng đất này – đó là dáng vẻ của cổ sơ, cũ kỹ trên nền băng tuyết. Con tàu cổ lỗ này giống đã đi xuyên thời gian, xuyên qua quá khứ để đưa con người đến đây. Kawabata đã đặc biệt khắc họa hình ảnh “con tàu của xứ sở hoàn toàn khác lạ” như một vật thể thuộc về vùng đất xứ tuyết, thuộc về thiên nhiên cổ sơ. Tiếp đến, vẻ đẹp cổ sơ, cũ kỹ từ sự trôi chảy thời gian hiện lên trong những ngôi nhà ở xứ tuyết với bóng dáng của những mái nhà, mái chùa với vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Khu suối nước nóng mà Shimamura chọn làm điểm nghỉ ngơi với những dãy hành lang hiện rõ thời gian mà nó tồn tại: “… Mỗi bước chân anh trên lớp sàn gỗ cũ kĩ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên”. Lớp sàn gỗ là dấu ấn của thời gian, là lớp thời gian đã bao trùm lên xứ tuyết. Âm thanh của những cánh cửa là tiếng kêu của thời gian. Dường như đó là vẻ đẹp tích tụ theo dòng chảy của thời gian, vẻ đẹp ngưng đọng từ quá khứ. Vẻ đẹp cổ sơ của thiên nhiên xứ tuyết còn hiện lên qua hình ảnh những mái nhà, mái chùa với những lớp lợp cũ kĩ: “… Một ngôi nhà cũ, mái đã trĩu xuống với một cửa sổ sơn đã bong vì mưa nắng... Phần lớn lợp bằng gỗ, có chẹn đá, các mái nhà trông như những dãy giống nhau, các hòn đá song song với con đường, những hòn đã to, tròn và nhẵn, trắng xóa những tuyết ở phía bóng râm và sáng loáng ở phía có nắng, đen như mực, chúng bóng loáng không hẳn vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhắn bởi băng giá, gió mưa”. Vẻ đẹp của những ngôi nhà, những mái gỗ chẹn đá được Shimamura nhìn nhận dưới những tác động của thời gian. Thời gian đã làm những ngôi nhà, những chiếc mái trở nên cũ kĩ, hao mòn nhưng chính thời gian cũng tạo nên vẻ đẹp cổ kính đặc trưng của những ngôi nhà xứ tuyết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của thời gian đã đi qua vùng đất này, của “mưa nắng”, “băng giá” và “gió mưa”. Đó cũng chính là Sabi, là vẻ đẹp hiện lên từ những gì cũ kĩ, hoen gỉ. [...] Thiên nhiên mang vẻ đẹp Sabi trong Xứ tuyết còn hiện lên dưới cảm thức thời gian (ảnh: internet) Trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, rất ít khi thời gian chính xác được đề cập trong các chi tiết truyện. Tuy nhiên, thời điểm mùa trong năm luôn được thể hiện rõ nét qua những đặc trưng, dấu ấn của mùa. Điều này giống với cách gợi cảm thức thời gian trong thơ Haiku. Khi Basho viết: “Một đám mây hoa/ Chuông đền Ueno vang vọng/ Hay đền Asakusa” thì thời điểm mùa xuân hiện lên chính từ hình ảnh “Đám mây hoa” đó. Điều này cho thấy sự gắn bó giữa thơ Haiku Nhật Bản và Kawabata trong quan niệm về thời gian. Những dấu hiệu về thời gian trong ngày hay dấu hiệu về mùa trong Xứ tuyết cũng là một yếu tố khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong tác phẩm và đặc biệt, nó thể hiện rõ dấu ấn thời gian trong nguyên lý thẩm mỹ Sabi. “Cái đẹp của tuyết, cùa các mùa và phụ nữ luôn luôn lấp lánh qua từng trang văn, đẹp như thơ”. [...] 3. Vẻ đẹp u buồn, mong manh Trong cảm nhận của người Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên có lẽ cũng đi liền với sự buồn bã, mong manh. Điều này thể hiện ở chính việc lựa chọn quốc hoa của đất nước này, đó là hoa anh đào. Hoa anh đào đẹp nhất là khi chúng nở rộ, nhưng dù hoa có nở đẹp đến đâu đi chăng nữa thì nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất bởi một lẽ, anh đào sẽ rụng vào đúng lúc nó nở rực rỡ nhất. Như vậy, ngay từ trong cảm quan của mình, người Nhật đã đã để cho hai khái niệm “đẹp” và “buồn” song hành với nhau. Ngay cả với thiên nhiên, cái đẹp cũng gắn với cái buồn. Đây cũng chính là một trong những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của Nhật Bản. […] 3.1. Thiên nhiên trong sự lạnh giá Thiên nhiên xứ tuyết mang một sự lạnh giá đến gay gắt. Tuyết ở đây rơi rất nhiều và mạnh, “tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị những khối tuyết lở chặn lại”. Không chỉ có tuyết bao phủ “dày hai, ba mét, đôi khi đến hơn bốn mét” mà ở nơi đây, nhiệt độ cũng xuống rất thấp: “năm ngoái, nhiệt độ ở đây xuống đến hơn hai mươi độ âm”. Khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho xứ tuyết một cái lạnh không giống với bất kì một nơi nào khác, “sờ vào vật gì, ta cũng thấy nó lạnh khác lắm”. Xứ tuyết lạnh giá tạo nên một vẻ buồn man mác. Sự lạnh lẽo ấy thấm hết vào cảnh vật, khiến chúng cũng trở nên khác biệt với Shimamura. Cái lạnh của xứ tuyết không chỉ thể hiện trực tiếp ở khí hậu nơi đây mà còn thể hiện gián tiếp qua sự hòa hợp của ánh sáng, bóng tối. Cứ mỗi lần sáng, tối lồng vào nhau, là một lần tạo cho người ta cảm giác hoài vọng, nuối tiếc và u buồn. Bóng tối đang hiện hữu thì ánh sáng cũng xuất hiện. Ngay khi đang nồi trên tàu, dưới con mắt tinh tế của Shimamura hay của chính Kawabata, bầu trời đêm hiện lên và để lại ấn tượng thật đặc biệt: “Phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Bóng đêm đã bao trùm lên xứ tuyết nhưng ở đằng xa, ánh sáng vẫn còn hiện hữu. Dù có ở trong toa tàu hay bên cánh cửa sổ, Shimamura vẫn luôn cảm nhận được sự xen kẽ sáng tối này. […] Cũng chính từ căn phòng mình, Shimamura nhìn thấy “ở đáy thung lũng, nơi thường tối sớm, đã bắt đầu tối. Nhô cao ở bên ngoài vùng tối, các ngọn núi ở đằng kia rực rỡ nắng chiều, chúng như gần hơn bởi chúng tương phản với những hõm tối và màu trắng của chúng như ánh lân quang dưới bầu trời đỏ ối”. Và Shimamura “cảm thấy mỗi lúc một buồn”. Bóng tối và ánh sáng cùng nhau xuất hiện trên khung cảnh thiên nhiên xứ tuyết, sự tồn tại song song của cả bóng tối lẫn ánh sáng làm cho thiên nhiên như lạnh hơn, tạo nên một khung cảnh băng giá đầy u buồn, hoài vọng. 3.2. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mong manh Trong quan niệm của người Nhật Bản, cái đẹp và cái hư vô, mong manh luôn đi cùng với nhau. Điều này được thể hiện khá rõ qua thơ Haiku. Nhà thơ Shiki đã từng viết: “Đẹp lạ lùng Ai mà không ghen tị Lá đỏ rời cành phong” Vẻ đẹp mong manh ấy hiện lên trong Xứ tuyết là thiên nhiên ngập trong sắc trắng. Màu trắng cũng là màu sắc được nhắc tới khá nhiều trong Kinh Phật. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khiết, thanh cao và cũng là màu của sự hư ảo. Trong Xứ tuyết, rất nhiều lần tác giả nhắc tới sắc trắng. Có khi, cảnh vật trở nên mềm mại hơn khi được che phủ bởi sự nhẹ nhàng của tuyết: “Xa xa, trên các ngọn núi, tuyết trông như một lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ”. Tuyết cũng làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, chật hẹp và cô đơn: “Sự chật hẹp của cái thung lũng bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn tuyết phủ dày. Nơi đây chẳng khác gì một cái túi tối om, một cái hốc xiết bao đơn độc giữ lòng núi hẻo lánh này”. [...] Thiên nhiên xứ tuyết là nơi “cư ngụ” của những kiếp phù du như những loài côn trùng. Màu xanh của loài bướm đêm đã gây một ấn tượng cho anh. Với anh, đó là “màu xanh ngỡ ngàng, đơn độc, ngược ngạo thay, nhuốm màu chết chóc”; “nó rơi xuống như một chiếc lá khô, chậm và nhẹ buông rơi, lúc lên lúc xuống, trước khi chạm đất” hay lời tự hỏi “không biết con côn trùng đã chết chưa”. Chúng chỉ là những sinh mệnh mang kiếp phù du, bay lượn trong không trung rồi lìa đời nhanh chóng. Cuộc đời của những kiếp phù du luôn là như vậy. Cõi đời này sẽ không lưu lại được gì từ những vẻ đẹp ấy. [...] 4. Vẻ đẹp u huyền, kì ảo Trong các tác phẩm của Kawabata, thiên nhiên thường xuyên xuất hiện trong gương. Thiên nhiên qua những tấm gương hiện lên rất sống động nhưng cũng manh đầy vẻ siêu thưc, huyền ảo. Thiên nhiên vẫn luôn là bí ẩn mà con người luôn muốn tìm kiếm và chinh phục. Thông qua chiếc gương soi, thiên nhiên bỗng trở nên kỳ ảo hơn, khó nắm bắt hơn bao giờ hết. Với Xứ tuyết, Shimamura không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp u huyền con người mà còn cảm nhận được cả vẻ u huyền của thiên nhiên nơi xứ tuyết. Gương phản chiếu hình ảnh của tuyết, làm cho tuyết kỳ ảo hơn rất nhiều: “Tuyết bỗng sáng rực thêm nữa trong gương, chẳng khác gì ở đó có một đám cháy băng giá”. Tấm gương khiến cho lớp tuyết trắng “bỗng sáng rực”, đây vừa là hình ảnh tự nhiên của tuyết nhưng cũng lại là hình ảnh tuyết được “cải biến” trong thế giới gương soi. Từ trong gương soi, thiên nhiên đã đổi khác. Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự thân của nó mà vẻ đẹp ấy còn được nhân lên, đưa con người vào một thế giới mới với những khung cảnh vừa thực mà vừa hư: “Trong bầu trời đêm, phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm, muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Thiên nhiên trong gương soi được Shimamura cảm nhận không chỉ với hình ảnh đơn lẻ mà nó còn hòa vào vẻ đẹp của con người xứ tuyết. Thiên nhiên và con người như soi chiếu vào nhau: Cảnh đêm và điểm sáng đều được Shimamura nhìn qua tấm kính của toa tàu. Chúng ở phía xa và ở đằng sau, chúng mang những cái đẹp lung linh và huyền ảo. Shimamura cảm nhận được những vẻ đẹp ấy và anh cũng không thể rời mắt khỏi Yoko: “Anh bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trong núi bỗng lóe sang ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt đến đỉnh điểm”. Trong tấm gương soi, thiên nhiên và con người cùng tồn tại, vẻ đẹp thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp con người. Chính và thế mà vào một buổi sáng, khi nhìn thấy vẻ đẹp của Komako hiện lên trong gương và trên nền tuyết, Shimamura đã nhớ lại vẻ đẹp của Yoko được phản chiếu lại trên cửa kính của toa tàu. Vẻ đẹp của Komako cùng với vẻ đẹp của tuyết trắng tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh. Ở đây, tuyết trắng như làm nền cho Komako. Cụ thể hơn, vẻ đẹp của tuyết làm nổi bật đôi má đỏ hồng của cô. Shimamura hay chính Kawabata đã “mượn những chiếc gương soi để tạo lập nên một thế giới huyền ảo chưa từng có nhưng lại làm cho chúng ta tin tưởng vào đấy”. Thiên nhiên trong gương soi mang một vẻ đẹp của sự hư ảo, của sương khói bao phủ và của tuyết trắng. Chính bản thân Shimamura cũng giống như một chiếc gương. Ở đó ta có thể nhìn thấy sự mơ hồ của anh cũng giống như lúc anh nhìn thấy sự mơ hồ, kì ảo của thiên nhiên qua tấm gương.   Mời các bạn đón đọc Xứ Tuyết của tác giả Yasunari Kawabata.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Brésil Đỏ
Các cuộc chinh phục Brazil của người Pháp là một trong những sự kiện kì lạ nhất và ít được biết đến nhất của thời kỳ Phục hưng.   Brésil đỏ kể câu chuyện của hai đứa trẻ, Just và Colombe, bị ép tham gia chuyến thám hiểm để làm thông dịch viên với các bộ tộc da đỏ. Mọi thứ trong cuộc phiêu lưu này đều quá mức. Khung cảnh: vịnh Rio hoang dã vẫn còn các khu rừng rậm và các bộ lạc da đỏ ăn thịt người. Các nhân vật – trước tiên là hiệp sĩ Villegagenon, người đứng đầu cuộc thám hiểm, hoài cổ về các cuộc thập tự chinh, chì đắm trong nền văn hóa cổ xưa, tiền thân của D'Artagnan hay Cyrano. Các sự kiện: vụ xử kín kịch tính của Pháp miền nhiệt đới là sự lặp lại cuộc chiến tranh tôn giáo mười năm trước.   Đầy ắp những chân dung, phong cảnh, hành động, Brésil đỏ, được viết bằng một ngôn ngữ mỉa mai kiểu Voltaire, có dạng của một cuốn tiểu thuyết giáo dục và tình yêu. Nhưng sâu xa hơn, thông qua việc số phận và những lựa chọn của Just và Colombe, cuốn sách này đưa ra hai quan niệm đối lập về con người và thiên nhiên. Một mặt, nền văn minh châu Âu, thích chinh phục và toàn cầu, muốn giải phóng và gây chết chóc. Mặt khác, thế giới của người da đỏ, với những cảm xúc nhục dục, ý nghĩa của sự hòa hợp và cái thiêng liêng, tiếng gọi thường trực của hạnh phúc...   Well Leon dịch *** JEAN-CHRISTOPHE RUFIN sinh ngày 28 tháng 6 năm 1952.   Khi thi đậu vào Trường Đại học Y khoa, chắc hẳn Jean-Christophe Rufin không nghĩ rằng ông sẽ thành đạt bằng nghề viết lách, chứ không phải bằng con dao mổ. Ngày 6.11.2001 Rufin đã đăng quang lần thứ hai trên văn đàn Pháp. Tác phẩm “Rouge Bresil” (Brazil Đỏ) đoạt giải Goncourt – giải thưởng văn học cao quý nhất nước Pháp.   Rufin còn là một nhà hoạt động xã hội lớn. Ông đã từng giữ chức Phó Chủ tịch Hiệp hội Bác sĩ không biên giới – tổ chức đoạt giải Nobel Hoà bình năm 1999. Tại vòng bỏ phiếu thứ 10 của giải Goncourt năm nay, Rufin đã chiến thắng nhờ hơn đúng có một phiếu. “Tôi đã khóc như một đứa trẻ khi hay tin này. Tôi đã thuyết phục mình rằng tôi sẽ không đoạt được giải này” – bác sĩ Rufin thổ lộ với kênh truyền hình LCI.   Địa điểm hội đồng giám khảo Goncourt gặp hàng năm để chọn tác phẩm trao giải “lãng mạn theo đúng kiểu Pháp” – đó là nhà hàng Drouant ở Paris. Giá trị vật chất của Goncourt chẳng nhiều nhặn gì – chỉ vẻn vẹn khoảng 7USD, song nó vẫn được coi là giải thưởng văn học danh giá nhất nước Pháp, bởi thu hút được sự chú ý lớn của báo chí và khiến tác giả ngay lập tức trở thành người nổi tiếng, còn tác phẩm được phát hành với số lượng vô cùng lớn.   “Rouge Bresil” là cuốn tiểu thuyết lịch sử thuật lại cuộc chinh phục của Pháp ở Brazil thời kỳ Phục hưng qua con mắt của hai đứa trẻ đi tìm cha mẹ mình. Just, cậu con trai sau trở thành quan chức trong bộ máy thực dân, còn Colombe, cô con gái lại đứng về phía những người da đỏ. Cô là đường dây độc đáo dẫn người đọc đi qua thế giới của người da đỏ mà giờ đây không còn tồn tại nữa. “Đây là loại tiểu thuyết sinh thái học, nếu ta có thể gọi được như vậy. Đó là sự đối đầu giữa hai khái niệm khác nhau về thiên nhiên” – Rufin nhận xét.   Rufin bắt đầu cầm bút năm 1997 và ngay lập tức ông đoạt giải Goncourt cho tác phẩm đầu tay “L’Abyssin” (Người Abyssinia), Abyssinia là tên gọi cũ của Ethiopia. Hai năm sau với tác phẩm “Les Causes perdues” (Những mục tiêu bị đánh mất) kể về những sự mập mờ trong các hoạt động cứu trợ nhân đạo, Rufin đã đoạt một giải thưởng văn học khác. Ngao du nhiều nơi theo các hoạt động của tổ chức Bác sĩ Không biên giới, Rufin đã đưa vào tác phẩm của mình những vùng đất liên quan đến lịch sử nước Pháp.   “Người Abyssinia” đưa người đọc trở về năm 1699, khi Vua Louis XIV cử đại sứ đến yết kiến Negus, Quốc vương Abyssinia với hy vọng sẽ lôi kéo được đất nước này vào quỹ đạo chính trị và tôn giáo của Pháp. Jean-Baptiste Poncet, chàng dược sĩ trẻ chuyên bào chế thuốc cho các tổng trấn ở Cairo được Lãnh sự Pháp chọn dẫn đầu phái đoàn này. Họ đã vượt qua sa mạc Ai Cập và vùng núi hiểm trở của Abyssinia để đến cung điện của Negus, sau đó trở về Versailles, rồi lại quay trở lại. Trên đường đi chàng đã phải lòng con gái viên lãnh sự, chữa chứng bệnh kỳ dị về da cho Negus và tiếp kiến Vua Louis tại Pháp.   Trong phần hai của cuốn tiểu thuyết có tên gọi “The Siege of Isfahan” (Vòng vây ở Isfahan), Rufin đưa Jean-Baptiste Poncet đến những vùng đất huyền bí như Ba Tư, Nga trong bối cảnh 20 năm sau đó. Ngoài mối quan hệ với Vua Louis XIV, Poncet còn trở thành bạn của Quốc vương Ba Tư Shah và Sa hoàng Peter Đại đế. Trong một chuyến đi ở Trung Đông, vợ và con gái ông rơi vào vòng vây của quân đội Afghanistan và trở thành vật mặc cả của Quốc vương Mahmud. Bên cạnh sự hiểu biết uyên bác về Trung Đông và Nga, Rufin đã tiếp tục hoàn thiện phong cách viết lôi cuốn, huyền ảo với bố cục vô cùng chặt chẽ.   Nguồn: Lao Động, 10.11.2001  *** - Kính thưa Đức Ông, Ngài thử tưởng tượng một người nhìn thấy vạc nước sôi sùng sục sắp luộc chín mình, thì sẽ có cảm giác thế nào.   Nói rồi, người thủy thủ đưa mắt u sầu nhìn đống than hồng.   Người Anh điêng nhổm người lên, kêu:   - Nói bậy! Nói bậy!   - Sao, bậy ư? Dễ các người không ăn thịt đồng loại chắc? Hay mày cho cách thịt người như thế là chưa đúng, hở thằng khốn?   Rồi người thủy thủ lại quay sang thưa với viên sĩ quan:   - Thưa Ngài, đúng là không phải người Brésil nào cũng làm như cách bọn bắt được tôi đã làm. Một số bọn chúng còn “hun sống”, tóm lại là chúng quay chín anh. Mày chịu chưa, hở thằng khốn?   Anh thủy thủ, với sức lực yếu ớt nhưng ngoan cố của một người say, túm lấy áo người Anh điêng kéo vào sát cái mũi bóng loáng của mình. Hai bên gầm ghè nhau vài giây, mắt làm ra vẻ gườm gườm. Rồi anh thủy thủ bỗng buông tay, và hai người phá lên cười ha hả, bắt tay nhau rối rít. Tháp chuông lớn nhà thờ Rouen điểm tám tiếng, và tất cả các xà rầm trong quán rượu đối diện với công trình kiến trúc lâu đời ấy lại rung lên theo mỗi tiếng ngân.   Viên sĩ quan, người gày khẳng và mặt xương xẩu, trông có vẻ ảo não. Cuộc hội ngộ giữa hai người chẳng làm ông xúc động. Ông đang sốt ruột vì có việc phải lo. Đã giữa năm 1555 rồi, nếu để qua tháng sáu thì gió sẽ không thuận. Ông đập tay lên bàn, nói giọng hầm hừ như đe dọa ai:   - Ai cũng biết, bờ biển nơi ta sẽ đổ bộ là rất nguy hiểm. Nhưng ý ta đã quyết: tám ngày nữa, chúng ta sẽ nhổ neo để đi thiết lập một nước Pháp mới ở Brésil.   Anh thủy thủ và anh thổ dân da đỏ nhấp nhổm trong chiếc ghế đẩu ba chân. Chỉ mới nghe thấy từ Brésil, một niềm hứng khởi chưa hoàn toàn quên lãng và những hình ảnh khó có thể tả bằng lời lại đã thoáng hiện trong ký ức và tạo cho nét mặt họ một vẻ mỉa mai chua chát có lẽ chỉ là do trí tưởng tượng. Viên sĩ quan lạnh lùng nói tiếp:   - Chúng tôi không còn nhiều thời giờ nữa. Hai người nói xem, có đồng ý đi cùng đoàn viễn chinh của ta để làm thông dịch với bọn thổ dân hay không?   Thích thú vì được chiêu đãi bia, anh thủy thủ tìm cách kéo dài cuộc gặp mặt. Anh thì thầm, giọng lè nhè:   - Thưa Đức Ông, tôi đã thưa với ngài rồi: cứ đến đấy, ngài sẽ kiếm được khối thông dịch. Đã ba đời nay, những người Noócmăng chúng tôi đều đã tới đấy để kiếm thứ gỗ đỏ rất quý tạo ra màu đặc biệt riêng cho vải nhuộm của anh em nhà Gobelins. Bọn Bồ Đào Nha thật trâng tráo, dám nói chúng là người đầu tiên khám phá miền đất ấy! Thật ra chúng tôi đã làm ăn ở đó trước chúng nhiều.   Không ai nói gì, anh ta lại hăng hái:   - Ngài chỉ cần cặp bờ ai hôm là sẽ có hàng chục tên từ các làng gần đó kéo đến, sẵn sàng làm thông dịch cho ngài.   Viên sĩ quan tỏ vẻ mệt mỏi:   - Ta đã nói rồi, hiệp sĩ Villegagnon, là người cầm đầu đoàn viễn chinh, không muốn có điều gì bất trắc. Đoàn sẽ mang đủ mọi thứ cần thiết đến đấy lập cơ sở vững chắc. Chúng ta muốn có thông dịch của riêng mình, không phụ thuộc ai hết.   Mọi người trong quán đều chú ý đến đôi bạn không xứng hợp với nhau chút nào, một người da đỏ và một thủy thủ gầy nhẳng. Anh này đánh bạo hỏi:   - Ngài đã nói ngày nào đi, thế là rõ. Nhưng bao giờ về, Ngài cũng phải cho biết chứ.   - Không bao giờ về. Đi đây là đi lập một tỉnh mới cho Đức vua. Ai đi cùng chúng ta sẽ ở lại đấy mãi mãi. Chúng tôi sẽ cung cấp cho họ đủ mọi thứ cần thiết, song không ai được nói đến chữ về. Họ là người của nước Pháp, thì ở đó chính là nước Pháp rồi.   - Ngài đã đến đó bao giờ chưa? anh thủy thủ nheo mắt tinh quái.   - Chưa – viên sĩ quan lườm một cái dài. Nhưng ta đã từng phiêu bạt ở nhiều nước phương đông.   Anh thủy thủ đứng dậy, cả người chỉ còn lại một chút thịt dán sát vào khung xương mà cuộc sống bôn ba chưa lấy đi hết, lấy vẻ nghiêm trang tuyên bố:   - Tôi cũng từng đi biển sang phương đông. Mùi gì! Ở đấy như ở nhà mình. Châu Mỹ, thì khác. Tôi đã đi bốn lần, thật tồi tệ. Vẫn là cái xứ Brésil mà ngài nói định lập một nước Pháp mới ở đó. Đã trải đủ thứ: nào sốt rét, nào mọi ăn thịt người, may mà tôi thoát khỏi tay bọn chúng. Và bây giờ còn có lũ chó đểu Bồ Đào Nha, chúng mà chặn được thuyền ta ngoài khơi thì chúng chặt chân tay ta không thương tiếc. Ngài nghĩ tôi lấy đâu ra nghị lực để chịu đựng tất cả khổ ải ấy?   Anh vung tay, đưa một vại bia lên miệng, rồi nói như để chặn trước:   - Giầu sang ư, xin đừng nói tới! Vàng, vẹt, gỗ quý chỉ vỗ béo bọn chủ tàu, chúng ngồi nhà mà vơ hết. Còn thủy thủ mạt hạng chúng tôi thì ngài xem: may còn cái xác… Không, thưa ngài, ý nghĩa duy nhất khiến chúng tôi cố chịu đựng mọi hiểm nguy ấy – nói đến đây, anh ta lén nhìn người bạn da đỏ, cứ như thể anh chàng khốn khổ này là nguyên nhân gây ra những khó khăn nguy hiểm cho mình ở châu Mỹ ấy – là hy vọng chờ ngày trở về.   Anh thủy thủ nắm chặt hai tay đặt lên bàn, nói thật hùng hồn và dứt khoát phần kết luận:   - Rất tiếc làm ngài không vừa lòng, song thà nói ngay còn hơn, tôi không đi đâu.   Viên sĩ quan ngồi cắn môi. Phải lúc khác, ông đã giọt cho tên thủy thủ hỗn láo này một trận. Nhưng nếu làm thế, e rằng những người tự do khác trong đoàn sẽ chuồn hết. Còn lại người Anh điêng. Đến lúc này, anh ta mới hiểu, nhưng quá muộn, lời khước từ thứ nhất mà anh bạn thủy thủ vừa đưa ra đã đẩy anh vào tình thế phải hứng chịu cơn thịnh nộ dữ dội như thế nào. Ai nấy đều chú mục nhìn vào anh.   Trời cuối xuân bắt đầu nóng, anh vẫn mặc áo cài hết cúc lên tận cổ và bó chặt hai cổ tay. Cẩn thận vậy không phải để làm dáng hay do nhu cầu gì, mà bắt nguồn từ sự lo lắng âm thầm: không biết được cởi cúc đến đâu là phải phép. Trong mấy tháng bị đưa sang Pháp, anh chàng khốn khổ đã mấy lần bị hố về cách ăn mặc, cứ thản nhiên để lộ những bộ phận thân thể kín đáo nhất, với mục đích rất vô hại là muốn cho chúng được mát mẻ. Người ta đã riễu cợt anh nhiều lần về chuyện này.   Những ai bao dung lẽ ra nên thông cảm với anh. Bị đối phương bắt sống trong các trận chiến nơi rừng rậm Brésil, anh được các thủy thủ Pháp – trong đó có anh bạn đang ngồi cạnh anh – mua lại. Với mục đích bày tỏ lòng tôn kính đối với Đức Vua Henri II, Ngài đã báo trước là sắp tới sẽ đến ngự giá xuống Noóc-man-đi, một số nhà buôn ở địa phương đã gửi anh ta về Pháp cùng với khoảng năm mươi đồng hương khác. Vừa mới xuống tàu ở Rouen, người ta đã bảo anh nhẩy múa trước nhà vua và hoàng hậu, trên người chỉ đúng có túm lông che đậy, y như lúc anh bị bắt. Từng ở trần như vậy trước nhà vua nên sau đó, anh không hiểu rõ lắm, tại sao người ta lại bảo anh che đậy trước mặt dân thường người Pháp.   Mời các bạn đón đọc Brésil Đỏ của tác giả Jean-Christophe Rufin.
Cảng Xu Đăng
Nhà văn Pháp Olivier Rolin sinh năm 1947, từng nghiên cứu Triết học và Ngôn ngữ. Ông cũng là một người say mê địa lý, tàu thuyền và ham thích du lịch. Năm 1994, ông đoạt giải Prix Fémina với tác phẩm Cảng Xu đăng *** ‘Cảng Xuđăng là hải cảng duy nhất của Xuđăng có khả năng tiếp nhận tàu lớn có độ dài tới 277 m và độ mớn nước là 11,3 m đối với tàu chở dầu, và 10,5 m đối với các tàu khác. […] Từ tháng 7 tới tháng 9, các cơn gió mạnh và bất ngờ thổi từ giữa hướng đông nam và tây, có thể đạt tới cấp 8 Bôpho. Các cơn gió từ hướng tây nam, được gọi là bão cát, đem theo cát và bụi; khi ấy tầm nhìn xa bị giảm xuống dưới 100 m; nhiệt độ có thể lên tới 52oC. Trong thời gian này, những chiếc tàu nào chưa kịp cập bờ thì phải tìm một chỗ kín nào trong vịnh chứ không nên thả neo đứng chết ướt giữa trời’.   Chỉ dẫn hàng hải, bờ tây Biển Đỏ   Des Jaza’ir ở Ras Kasar  *** Chính ở cảng Xuđăng tôi đã biết được tin về cái chết của A. Những chuyện ngẫu nhiên của bưu điện ở đất nước này đã làm cho tin tức về bạn tôi đến khá chậm sau khi bạn tôi đã qua đời. Một viên chức ăn mặc rất rách rưới, bộ mặt bị biến dạng bởi bệnh hủi, mang một khẩu súng ổ quay lớn màu đen, bao súng buộc vào thắt lưng bằng một chiếc roi da trâu bện, đưa cho tôi bức thư vào lúc xế chiều. Bộ mặt sứt môi của ông ta, với đôi tai mào gà, làm cho ông ta lúc nào cũng như đang cười nhăn nhở. Người ta có thể tưởng như cơ thể ông ta được tạc bằng gỗ trong một vũ điệu của tử thần. Giống như hầu hết những người còn sống sót trong thành phố, nhiệm vụ chính của ông ta vả chăng là tống tiền và ám sát. Tôi không biết làm thế nào mà ông ta kiếm được phong bì. Có thể là ông ta đã ăn cắp của chính tử thần.   Tôi run run ngồi viết những dòng này. Tôi viết trên tờ giấy xấu của một quyển vở mua ở Khartoum, vào một ngày mà một đội cảnh sát đã triệu tập tôi ra đồn vì một chuyện phiền nhiễu liên miên nào đó với những lời đe dọa làm cho nặng nề thêm, những dòng chữ thoát khỏi sự kiểm soát của bàn tay tôi, chúng chạy ngoằn ngoèo không theo đúng đường đi thường ngày của chúng. Mồ hôi trên trán tôi nhỏ xuống giấy thành những vệt trong suốt làm cho mực bị nhòe thành những đốm sao, lan ra như một dây thần kinh bị xé nát, sau đó làm thành những đám mây phớt xanh mỏng mảnh. Liệu tôi có đọc lại được điều mình viết không, tôi cũng không biết nữa. Theo một cách nào đó thì tôi viết ra những dòng này là để tiếp tục tồn tại. Tôi nghĩ là tôi chẳng có lý do nào khác để viết cả. Tôi nói, tôi viết điều đó, và tôi chẳng biết gì về điều đó cả: Liệu ta có thể biết được gì?   Mặt trời đỏ ối và cũng run rẩy như bàn tay tôi đang lặn xuống trên cái cơ thể to lớn cũng đang run rẩy của châu Phi. Một đám sương mù phản chiếu ánh nắng rạng rỡ đang che mờ những mái nhà bằng tôn và bằng gạch nén, với những bể nước dựng lên tua tủa, của hải cảng Xuđăng. Những ngọn tháp nhỏ này, nổi bật lên trong ánh hoàng hôn màu tím, làm cho thành phố trong buổi xế chiều trông giống như một doanh trại của quân La Mã mà đế quốc La Mã suy tàn đã bỏ quên trên bờ Biển Đỏ, hoặc giống như một nhà trừng giới có các tháp canh bao quanh. Tôi uống một cốc rượu anizet mua lậu, rất độc được chở tới trên một trong những con tàu chở hàng hiếm hoi của Hi Lạp từ lâu đã chạy qua trước con đê chắn sóng phủ đầy cát bồi của hải cảng ngay dưới mái hiên nhà tôi: tôi đang bị nỗi buồn phiền vò xé. Tôi phải thú nhận rằng thoạt đầu cái bức thư này – bức thư mà thông qua nó có một cái gì đó của đời tôi đã kết thúc – là một cách giải trí của tôi.   A. và tôi đã quen nhau khoảng hai mươi nhăm năm trước đây. Khi ấy chúng tôi đã chia sẻ với nhau những ước mơ lớn lao và mơ hồ. Ý nghĩ về một sự biến đổi thế giới hòa lẫn với lòng mong muốn một cuộc sống phiêu lưu. Tôi sẽ không bao giờ coi thường cái thời ấy, và tôi cũng không đồng tình với những ai chế nhạo nó. Cùng với nhiều sự việc nghiêm trọng và nhậy cảm mà sau đó chúng tôi đã được biết, thì chúng tôi lại không biết thế nào là sự sợ hãi, nỗi ghen tuông, sự hèn nhát.   Chúng tôi không tin vào Chúa, cũng không tin vào một con quỷ nào đó có những nỗi thăng trầm một cách nực cười theo kiểu tư sản. Chúng tôi là những kẻ cực kỳ táo bạo và hiền lành. Điều đó cũng quá đủ để chúng tôi không ruồng bỏ thời tuổi trẻ của chúng tôi. Rồi cái thời ấy cũng phải chấm dứt. Sự trì trệ của thế giới đã thắng, sức trai trẻ của chúng tôi đối lập lại nó đã bị cạn kiệt, và, như ở thời xa xưa, thuật thần bí lại biến thành chính trị, các khán giả vỗ tay hoan nghênh trước một kết cục đã trở nên rõ ràng của trận đấu. Tôi tin chắc rằng lần cuối cùng tôi gặp A. là một ngày mùa thu. Lúc đó chúng tôi cùng uống bia với nhau tại một quầy rượu bia ở cầu Cardinet. Giá thổi làm cho những chiếc lá khô ép sát xuống những vũng nước đen trông như những bàn tay vấy máu. Có lẽ là chúng tôi đã khóc. Về sau, anh ấy đã chọn nghề văn, còn tôi chọn nghề hàng hải. Tôi cho rằng đối với cả hai chúng tôi, có lẽ những nghề này không phản bội hoàn toàn những giấc mơ bay bổng mà từ lâu chúng tôi hằng ấp ủ. Đúng thế. Đây là một sự lựa chọn sai lầm, vì đó là những nghề không có tương lai. Người ta không thể tiến cao lên được bằng những nghề này.   Sau những năm tháng làm nghề vận chuyển những chuyến hàng thối thiu dọc theo bãi biển Châu Phi, mặt trái của sức khỏe đã quật ngã tôi. Thế là tôi nằm lại ở cảng Xuđăng, nơi đây, một loạt sự kiện ngẫu nhiên thoạt tiên đã trao cho tôi nhiệm vụ harbour master[1]. Khi hải cảng này có thể nói là bị biến mất, như thể bị nhận chìm trong cơn bão biển chung của đất nước, thì từ nay trở đi nhiệm vụ của tôi chỉ còn mang ý nghĩa tượng trưng, vả lại bọn cướp biển cũng không chịu công nhận chức vụ của tôi, đó là bọn sẵn sàng cướp bóc những tàu thuyền nào tình cờ qua đây, ngoài ra tôi còn phải kiêm nhiệm thêm chức vụ lãnh sự danh dự của nước cộng hòa Madagaxca, một chức vụ cũng không hề cồng kềnh hơn khoản thu nhập ít ỏi của tôi có được không phải nhờ vào các khoản thuế mà thực ra tôi cũng chẳng thu, và cũng không dựa vào tiền lương mà từ lâu tôi cũng không còn nhớ tới nó nữa, mà dựa vào những chuyện buôn lậu vặt vãnh mà lòng hám của của những kẻ tống tiền đã để lại cho cái nghề khiêm tốn của tôi: một chút rượu ở một đất nước mà ở đó nó bị cấm, một vài người đói khát với đôi mắt thâm đen, với nước da tím tái, được tôi sai xuống những con thuyền chạy bằng dầu mazút để ra khơi chuyển mấy bó lá cây thuốc khát[2] lên các tàu buôn quốc tế. Tóm lại chỉ là những việc lặt vặt, nhưng tôi chỉ cần có thế. Cái cuộc sống như cỏ cây mà càng ngày tôi càng thu mình vào ấy từ lâu đã tránh cho tôi khỏi mắc vào cảnh túng quẫn về nhu cầu cuộc sống. Tôi là một người dễ chịu đựng, người khác có lẽ họ đã đòi hỏi nhiều hơn.   Mặc dù đọc nhiều, nhưng tôi chẳng bao giờ hiểu được văn học là mấy: ít nhất đó là quan niệm của tôi. Các cuốn sách của A., tôi cũng có vài quyển của anh ấy, tỏ ra khó đọc và gây bất an. Tôi không biết nói tại sao, nhưng chúng gợi cho tôi hình ảnh về cảnh bầu trời giông bão nằm chắn ngang chân trời, ngược với chiều gió mùa, trông như những cánh rừng rậm bị cầy xới bởi những tia phản xạ màu đồng, màu đỏ tía và màu xanh lam. Tôi tưởng như nhìn thấy ở đây vẻ chán ngán và nỗi buồn những cái mà chung quy lại cuộc sống xã hội đã không ngừng đánh thức dậy trong chúng ta, tôi nhìn thấy một sự bất lực nào đó trong việc làm cho chúng ta quen thuộc với những lễ nghi u mê của cuộc sống, cũng như thấy một sự luyến tiếc một thời có triển vọng về một tương lai rộng lớn. Trong khi luồng ánh nắng mặt trời, có khả năng nung chẩy như một chiếc mỏ hàn những đống đổ nát của đêm tối, đang thiêu cháy những dụng cụ làm việc và làm nheo mắt người trực ban, thì thỉnh thoảng tôi nghĩ rằng cái vẫn tiếp tục gắn bó chúng tôi từ lâu và một cách bí ẩn chính là trạng thái hay sợ bóng sợ vía của chúng tôi, cái đã ngăn không để cho lứa tuổi chín chắn của chúng tôi hoàn toàn trở thành giai đoạn phủ nhận thời tuổi trẻ, bất chấp tất cả những hiện tượng bên ngoài. Tôi không biết là liệu mình đã hiểu đúng sách của anh ấy chưa, không biết liệu anh ấy có thích mình hiểu như vậy không. Tôi không tin là sách vở, kể cả sách của anh ấy lẫn sách vở nói chung, lại có thể chứa đựng một chuyện gì đó đáng giá hơn sự phủ nhận bất an ấy.   Tác giả của bức thư cho tôi biết bà là người giúp việc, làm việc cho anh A. vài giờ mỗi tuần. Bà đã tìm thấy địa chỉ của tôi trên một chiếc phong bì nằm lẫn trong đống giấy tờ lộn xộn. Vì thấy phong bì để mở nên bà nghĩ là mình được phép tìm hiểu xem bên trong có gì. Nhưng trong phòng bì chẳng có gì ngoài một tờ giấy trắng vẻn vẹn chỉ có dòng chữ: “Bạn thân mến”. Bức thư bỏ dở này được viết từ hôm trước ngày mất của A.: lối diễn đạt ngắn gọn của nó đã làm cho nó mất sức nặng, theo một cách nào đó thì hoàn cảnh mà anh ấy rơi vào để rồi sau đó lại từ bỏ anh ấy là cái đã hoàn trả cho anh ấy lối diễn đạt như vậy. Người viết thư cho tôi nói rằng “Bạn ông đã tạ thế vào một ngày thứ hai”. Bà không nói “chết” mà nói “tạ thế”, như những người bình dân và những viên chức nhà tang lễ thường nói. Bà còn viết tắt chữ này là “t.th.” như người ta thường thấy ở một số bia mộ nông thôn. Bà nói thêm là gần đây mọi việc tỏ ra không ổn. Thái độ ân cần của bà tỏ ra tử tế và cảm động. Tôi đoán chắc là ít nhất bà cũng phải có thiện cảm với A. Bà để địa chỉ lại cho tôi, đó là phố Grange aux Belles. Tôi quyết định trở về Pháp để mong tái lập lại nội dung bức thư đã bị vĩnh viễn mất đi. Cuộc sống hàng ngày vô công rồi nghề làm cho tôi rỗi rãi, thêm vào đó tôi cũng còn có một nghĩa vụ tình bạn. Tình cờ có một con tàu đang chuẩn bị rời cảng Xuđăng để đi Alếchxandrơ, Tripôli và Mácxây, thế là tôi xách túi xuống tàu.   Mời các bạn đón đọc Cảng Xu Đăng của tác giả Olivier Rolin.
Chúa Tể Đầm Lầy
Michel Tournier, sinh năm 1924 ở Paris, đoạt Giải Thưởng Lớn của Viện Hàn Lâm quốc gia về Tiểu Thuyết với tác phẩm Gã Thứ Sáu hay là Ngày Tháng Thái Bình Dương, và giải thưởng Goncourt với tác phẩm Chúa tể đầm lầy. Ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Goncourt năm 1972.   Riêng nhan đề Chúa tể đầm lầy là một sự hướng đến thần thoại của dân tộc Đức, đến những biểu tượng sâu thẳm. Nhưng tiểu thuyết cũng bắt gặp một huyền thoại có tính phổ biến hơn, đó là huyền thoại về Gã hung thần.   Một tuổi nhỏ mất hẳn tình thương, một thời mới lớn chuốc nhục, một nghề thấp kém, tất cả đã biến Abel Tiffauges thành kẻ thù của xã hội. Nhưng một giai đoạn của đời y là làm học sinh giúp cho y đinh ninh rằng có một sự đồng lõa âm thầm giữa việc đời và phần số của y: số là một hôm ra trước hội đồng kỷ luật, y cầu sao cho trường bị cháy rụi. Bình thường lời mong cầu như thế chẳng bao giờ thành, thì nay trận hỏa hoạn giải phóng lại xảy ra…   Trong con người Tiffauges có tính chất của vị sứ đồ và của Gã hung thần, mà sứ đồ thì dẫn dắt và cứu độ cho hung thần. Nhờ thế mà đang khi một vụ hiếp dâm lăm le bắt y đi tù đày thì đợt tổng động viên 1939 giúp y được miễn tố: ngôi trường bị cháy lần nữa!   Làm tù binh năm 1940, y bị đưa sang vùng phía đông nước Phổ. Nhưng trong khi đồng bọn kêu trời tại vùng đất bao la hoang dại thì Tiffauges lại cho là vùng đất màu nhiệm mình hằng mong đợi, và cảm thấy mình được giải phóng một cách khác thường trong cảnh ngộ tù tội.   Hai gã hung thần thượng đẳng đang ngự trị trong chốn rừng xanh và đầm lầy: Goring, là Gã hung thần vùng Rominten, tàn sát nai và ngốn thịt rừng, và Hitler, là Gã hung thần vùng Rastenburg kẻ nhồi sung đại bác bằng thịt trẻ con nước Đức. Tiffauges trở nên Gã hung thân vùng Kaltenborn, một pháo đài Đức của ngày xưa mà nay là nơi chọn lọc và rèn luyện lớp thanh niên nhắm trở thành tinh hoa của Đức quốc xã.   Bước bôn ba tiêu biểu của một gã vô chính phủ lọt vào cạm bẫy của phát xít, cuộc đời ba chìm bảy nổi hiện thực của một tù binh Pháp trên đất Đức, một chuỗi biến tấu có mạch lạc về chủ đề chất thịt tươi sống và nuôi dưỡng thế nào cho thịt được tươi sống, chân dung dăm Gã hung thần, cuốn tiểu thuyết này còn có một tham vọng sâu xa hơn: tham vọng diễn dịch cuộc “thế chiến quái đản”, cái chủ nghĩa Hitler, các trại tập trung và sự tràn sang của hồng quân theo một hướng thuần túy biểu tượng và không dùng đến các lợi khí xưa củ của lịch sử và tâm lý.   Sau hết, Chúa tể đầm lầy, đặt vào viễn tượng do cuốn Gã Thứ Sáu hay Ngày Tháng Thái Bình Dương đã từng mở đường, hiện ra như là một tiểu luận nhằm miêu tả một kiểu thúc mới về dục tính thông qua ngõ ngách thông dụng.  ***  3.1.1938. Anh là một hung thần, đôi khi Rachel bảo tôi vậy. Một tên hung thần ư? Nghĩa là một con quỷ trong truyện thần kỳ, xuất hiện từ trong bóng đêm của thời gian? Phải, tôi tin ở bản chất thần kỳ của mình, nghĩa là sự a tòn bí ẩn ngấm trộn lẫn dòng đời tôi với dòng đời sự vật, và cho phép đời tôi uốn sự vật theo chiều của nó.   Tôi cũng tin rằng mình xuất thân từ bóng đêm của thời gian. Tôi luôn luôn khó cảm thông với sự nhẹ dạ của những ai miệt mài băn khoăn đến những gì xảy ra sau khi chết đi, mà lại chẳng buồn để ý đến những gì trước khi mình sinh ra. Đời trước cũng như đời sau. Mà tôi thì đã có mặt từ lâu, từ nghìn năm, trăm nghìn năm khi trái đất mới còn là một hòn lửa quay quay giữa một bầu trời bằng chết ê-li-com, thì cái linh hồn giúp cho nó phân phật lửa và quay quay là linh hồn của tôi. Và vả lại cái thời xa lơ xa lắc ngờm ngợp của căn nguyên tôi cũng đủ để giải thích cái quyền năng siêu nhiên của tôi: bản thể và tôi, cả hai xưa nay đi bên nhau, cùng là bạn cố tri, đến nỗi, dù chẳng cảm tình đặc biệt với nhau, nhưng vốn quen hơi nhau già năm như trái đất, chúng tôi hiểu nhau, chẳng khước từ gì nhau.   Còn như cái chất quỷ…   Mà trước hết quỷ là gì? Quỷ là quái, quái là quỷ, quái quỷ quái kiệt…, là cái trưng bày ra, phô diễn ra[1]. Quỷ là cái gì được người ta chỉ trỏ - bằng ngón tay, trong hội chợ, v.v. Và do đó một sinh vật càng quái quỷ, nó càng được trưng bày. Đó là cái khiến tôi dựng tóc gáy, tôi vốn chỉ sống nổi trong bóng tối và vốn tin rằng đám đồng loại của tôi sở dĩ để cho tôi sống là nhờ họ chẳng hiểu tôi, chẳng biết tôi.   Muốn đừng là quỷ, thì phải giống như đồng loại, cùng khuôn mẫu với chủng loại, hoặc là cha mẹ sao thì mình vậy. Hoặc là có một dây tua con cái mà ta là cái mắc xích đầu tiên của một chủng loại mới mẻ. Chẳng qua loài quỷ không phải là loài sinh con đẻ cái. Con bê sáu chân làm sao sống lâu được. Con vật sinh ra từ cha lừa mẹ ngựa hoặc mẹ lừa cha ngựa thì có ra đời cũng chẳng sinh sôi, chẳng khác nào tạo hóa muốn xóa bỏ một thử nghiệm xét thấy vô lối. Và tôi tìm lại được cái lý do vĩnh cửu của mình, do cha mẹ cũng có mà do con cái cũng có. Tôi già như trái đất, tôi bất tử như trái đất, tôi chỉ có thể có cha và mẹ tinh thần, và chỉ có thể có con nuôi thôi.   …   Tôi đọc lại mấy dòng trên đây. Tôi tên là Abel Tiffauges, tôi trông coi một cửa hiệu sửa xe ở quảng trường Porte - des - Ternes, và tôi không điên. Tuy nhiên những gì tôi vừa viết ra đều nên được xem xét một cách đầy đủ nghiêm túc. Rồi sao nữa? Rồi tương lai sẽ có nhiệm vụ thiết yếu là chứng minh – hay nói cho đúng hơi, là minh họa – tính cách nghiêm túc của những dòng trên đây.     6.1.1938. Hình con ngựa mọc cánh của hãng ét-xăng Mobilgas sáng lên bằng đèn nê-ông trong bầu trời tối ẩm, rọi xuống tay tôi, và tắt ngấm ngay. Ánh chớp đỏ ấy cùng với mùi mỡ thiu thấm nhập vào mọi thứ ở nơi này tạo nên một không khí mà tôi ghét nhưng hóa ra lại quen hơi mà không nói ra. Nói rằng tôi đã quen sống là chưa đúng: không khí này thân thuộc với tôi như hơi hám chỗ nằm hay là như cái khuôn mặt mỗi buổi sang tôi thấy lại trong gương. Nhưng nếu như lần thứ hai tôi ngồi xuống với cây bút trong bàn tay trái trước trang giấy trắng – trang thứ ba của Những trang viết bằng tay trái -, là vì tôi tin chắc, như người ta thường nói, mình đang ở vào một khúc ngoặt của đời sống, và vì tôi có phần trông cậy vào tập nhật ký này để thoát khỏi cửa hiệu sửa xe, khỏi những tính toán hèn mọn trói buộc tôi chốn này, và trong một ý nghĩa nào đó là để thoát khỏi chính tôi.   Mọi thứ đều là ký hiệu. Nhưng cần có một thứ ánh sáng hay âm thanh chói lọi mới chọc thủng tình trạng đui điếc của ta. Kể từ những năm học vỡ lòng tại trường cấp hai Saint - Christophe, tôi không ngừng quan sát những nét chữ dọc ngang nguệch ngoạc trên đường tôi đi và nghe ngóng những lời nhỏ to vo ve bên tai mà chẳng hiểu gì, chẳng rút tỉa được gì ngoài một nỗi ngờ vực gia tăng phủ lên lối sống của mình, nhưng thật sự cũng có thêm cái bằng chứng, một lần nữa, rằng bầu trời không trống rỗng. Còn cái thứ ánh sáng kia, những cảnh ngộ xoàng xĩnh nhất đã giúp nó lóe lên hôm qua, và nó không ngừng soi sáng con đường tôi đi.   Một sự cố vặt vãnh bắt tôi ngưng dùng tay mặt một thời gian. Tôi muốn sử dụng tay quay lột bỏ mấy miếng chằng nơi xác-măng của máy nổ bị yếu điện. Tay quay bật lại, nhưng may là cánh tay tôi để lỏng và vai để hờ. Chỉ có cổ tay là chịu sức bật, và chắc là có tiếng rắc trong gân. Thiếu đường ọc lên một tiếng, vì đau đớn, và dưới lớp vải cao su băng bó cồm cộm, tôi thấy mạch máu bùng nhùng nhức nhối. Không thể đến hiệu xe làm việc gì hết bằng mỗi một tay, tôi leo lên tầng hai lánh mình vào một phòng xép chứa sổ sách và báo cũ. Để khỏi rảnh trí, tôi dùng tay kia hí hoáy dăm ba chữ không đầu không đuôi trên lốc giấy.   Lúc ấy tôi bất ngờ phát hiện mình viết được bằng tay trái! Phải, chẳng cần tập trước, chẳng ngập ngừng chậm chạp, bàn tay trái của tôi vững vàng kẻ những nét chữ toàn vẹn, nét uốn lượn khác thường, lạ mắt, hơi co quắp, chẳng giống gì với chữ viết quen thuộc, chữ viết của bàn tay phải. Tôi sẽ trở lại biến cố đảo lộn này mà tôi chẳng dè nguồn gốc, nhưng trước hết phải ghi lại các cảnh xui khiến lần đầu tiên tôi cầm bút là chỉ để trút nỗi lòng và lớn tiếng nói lên sự thật. Liệu có nên nhắc nhở một hoàn cảnh khác nữa, một hoàn cảnh có lẽ không kém phần quyết định, là sự dứt đoạn của tôi với Rachel? Mà thế thì cả một câu chuyện phải đêm ra kể lể, một câu chuyện tình, câu chuyện tình của tôi vậy. Đương nhiên tôi không thích, có lẽ vì không quen thói. Đối với một kẻ kín miệng một cách tự nhiên như tôi, phơi ruột phơi gan trên giấy thì lúc đầu ngấy thật, nhưng bàn tay đưa đẩy, hình như đã trót kể thì không dừng được trước khi cạn lời. Cũng có thể biến cố đời tôi từ nay không thể nối đuôi nhau nếu không có sự phản chiếu của lời mà ta gọi là nhật ký?   Tôi đã mất Rachel. Nàng là người đàn bà của tôi. Không phải là vợ trước mặt Chúa và người đời, mà là người đàn bà của đời tôi, có nghĩa là – nói một cách không kiểu cách chút nào – con người nữ của vũ trụ riêng tôi. Tôi quen biết nàng cách đây mấy năm, như tôi quen biết mọi người, như khách hàng của cửa hiệu sửa xe. Nàng xuất hiện ngồi cầm tay lái một chiếc Peugeot tàn, lộ rõ nét hí hửng vì có người ngạc nhiên bắt gặp một phụ nữ lái xe, điều này có thật vào thời ấy hơn là ngày nay. Với tôi nàng làm ra vẻ thân quen ngay, mượn cớ chuyện xe cộ kết hợp qua lại, rồi vẻ thân quen nhanh chóng bắt quàng, thoắt một cái nàng lọt vào giường tôi.   Lúc đầu tôi ngẩn người theo dáng khỏa thân của nàng, khoả thân một cách dễ chịu, bình thường, mặc lớp da không hơn không kém mặc một thứ gì khác, áo quần du lịch hay là áo dạ hội. Cái tệ nhất của một người phụ nữ là không biết mình có thể khỏa thân, quả tình là thế, là không biết còn có những cái thói khoả thân và có luôn cả lớp vỏ khoả thân. Và tôi buộc lòng nhận ra được ngay hạng người phụ nữ ngu ngơ này do dáng vẻ khô khan thế nào ấy, do cái áo cái quần dính bám vào da họ một cách dị kỳ.   Mái đầu nhỏ sắc nét khi nhìn nghiêng, nón bảo hộ quai đen, Rache có một thân hình chắc nịch, tròn trĩnh, chất nữ khá bất ngờ với bắp về ấm áp, bộ ngực với đôi nuốm tím chài rộng, thắt lưng thóp sâu, và một loạt mum múp rắn chắc không tì vết, bao nhiêu thứ tràn trề khỏi năm ngón tay ôm và tạo chung thành một toàn thể không chiếm lĩnh nổi. Về mặt tinh thần, nàng thuộc loại “như con trai” không có nét gì độc đáo đáng kể, đó là loại phụ nữ rất ăn khách của một tiểu thuyết bán chạy nào đó.   Nàng bảo toàn tính độc lập của mình nhờ nghề kế toán tốc hành, đi tới các nghệ nhân, các nhà buôn hoặc cai quản các xí nghiệp nhỏ trình bày đầy đủ các con số. Nàng là người Do Thái, tôi có dịp nhận ra khách hàng của nàng toàn là Do Thái, do đó càng rõ thêm tính cách riêng tư của các giấy tờ dưới tay của nàng.   Kể ra tôi có thể không hợp với các óc người ngược đời của nàng, một cách nhìn làm tan tành sự vật, một tình trạng ngọ nguậy của não cân khiến nàng ngay ngáy sợ hãi buồn chán, thế nhưng cái óc dí dỏm của nàng, cái tài nhìn ra khía cạnh phi lý sâu xa của con người, của tình huống, cái vui tính có nồng độ mà nàng biết cách làm dậy lên từ cái xám xịt của cuộc sống, tất cả những thứ ấy đều gây ảnh hưởng tốt cho cái tính tự nhiên vốn lầm lì của tôi.   Viết mấy dòng này, tôi buộc mình lường xem nàng có ý nghĩa như thế nào đối với tôi, và cổ họng tôi nghèn nghẹn khi tôi lặp lại rằng tôi đã mất Rachel. Rachel ạ, anh không thể nói là chúng ta có yêu nhau không, nhưng có điều chắc chắn là chúng ta đã cười thỏa thích với nhau, và như thế cũng là một cái gì đấy chứ?   Dù sao nàng vẫn cười và không hề có ác ý gì khi đề ra những tiền đề để cho cả hai, từ đó, bằng con đương khác nhau, đi đến kết luận giống nhau, là chia tay nhau.   Có khi nàng vụt đến, giao chiếu xe con cho thợ của tôi sửa hoặc súc, thế là chúng tôi thừa cơ lên phòng tôi, và nàng không khỏi thốt lên một lời gì đó muôn thuở có ý đùa bỡn cớt nhã có vẻ như lẫn lộn số phận chiếc xe với số phận nữ chủ nhân chiếc xe. Hôm ấy, vừa mặc áo xống, nàng vừa vu vơ đưa ra nhận xét rằng tôi làm tình “y như chim hoàng anh” vậy. Thoạt tiên tôi ngỡ nàng bắt tội tôi không hiểu biết, không biết cách. Nàng bảo không phải vậy. Giai do cái hấp tấp của tôi mà ra cả, theo nàng thì nó giống như bọn chim đóng dấu vội cho nhau để hoàn thành bổn phận vợ chồng. Rồi nàng mơ màng gợi nhớ kỷ niệm một trong những người yêu ngày trước, chắc hẳn là người đáng nhớ hơn cả. Hắn hứa với nàng sẽ hú hí với nàng ngay khi vào ngủ và sẽ không chịu buông trước khi trời sáng. Và hắn giữ y như lời, hành nàng cho tới khi ngày rạng. “Thật ra, nàng thật thà chua thêm, hai đứa đi ngủ muộn, mà đêm mùa ấy thì ngắn”.   Câu chuyện làm tôi liên tưởng đến chuyện chú dê con của ông Seguin muốn bắt chước con dê già nên cứu vớt danh dự bằng cách cầm cự suốt đêm với sói và mãi đến đầu sáng mới chịu bó tay.   Cũng nên để cho anh nghĩ rằng em có thể vồ ngay khi anh ngừng nghỉ, lời kết của Rachel.   Và lập tức tôi trông thấy nàng có dáng dấp con sói thật, với đôi mày đen, mũi hếch và mồm rộng hau háu. Lại một phen chúng tôi cười. Phen cuối cùng. Bởi tôi hiểu rằng cái đầu óc kế toán tốc hành của nàng đã chối từ sự bất kham của tôi và truy tầm được một nơi ngả lưng khác để đặt mình.   Y như chim hoàng anh. Lời nói thốt ra đã sáu tháng nay cứ âm trầm trong tôi. Lâu nay tôi biết rằng một trong những dạng thường nói đến hơn cả trong sự thất bại nam nữ là tình trạng xuất tinh sớm, nói chung là tình dục không biết nương giữ, trì kéo. Sự kết tội của Rachel đi xa, vì nàng nhắm nhe liệt tôi ở mấp mé tình trạng bất lực, hơn thế nữa nàng khai diễn nỗi bất hòa hợp đậm nét của lứa đôi, sự truất hữu thấm thía của phụ nữa suốt đời thụ tinh mà chẳng đời nào thoả dạ.   - Em sung sướng hay không, anh cóc cần mà. Mời các bạn đón đọc Chúa Tể Đầm Lầy của tác giả Pascal Lainé.
Cô Thợ Thêu
Pascal Lainé là một nhà văn Pháp sinh năm 1942 ở Anet.    Ông đã đoạt cả hai giải thưởng lớn của Pháp là Medicis (1971 với tác phẩm l'Irrévolution) và Goncourt (1974 với tác phẩm La Dentellière), ngoài ra ông còn là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết cũng như kịch bản phim.    Tác phẩm chính:  B comme Barrabas (1967) L'Irrévolution (Prix Médicis - 1971) La Dentellière (Prix Goncourt - 1974) Si on partait (1978) L'Eau du miroir (1979) Tendres cousines (1979) Terres des ombres (1982) Les Petites Egarées (1988) Dialogues du désir (1992) L'Incertaine (1993) Le Commerce des apparences (1997) Derniers jours avant fermeture (2001) Capitaine Bringuier (Théâtre) Monsieur vous oubliez votre cadavre Le mystère de la Tour Eiffel (2005) Un clou chasse l'autre ou La vie d'artiste (essai, Punctum editions 2006) *** Chuyện bắt đầu ở một tỉnh phía Bắc nước Pháp, cái tỉnh nhìn trên bản đồ nom giống một củ cải đường.   Về mùa đông, những người từ xa tới bằng ô-tô nhìn thấy trước mắt mình một vết phồng. Một mảng rộp ở chân trời. Cây cối ven đồng trơ trụi làm cho cảnh chiều tà thành mênh mông vô tận.   Nhà cửa trong làng rặt bằng gạch, một tầng. Vẫn chưa phải là phố, tuy giữa hai dãy nhà có con đường nhựa cộc cằn, thường được các trận mưa kỳ cọ chu đáo làm cho bóng loáng lên. Xe cộ rạch bùn trong các thửa ruộng trồng củ cải đường bị xéo nát thành hai cái rãnh sóng đôi. Cả những chiếc xe tải cũng làm việc tương tự đó.   Ngoài cái dòng các em bé đầu đội mũ trùm kín trước cửa trường học, mà sự lộn xộn tan biến ngay lập tức vì các em buộc phải tản đi theo lề đường, hoặc đi vào các rãnh rau, làng xóm nói chung im ắng vào mùa đông. Trong đêm tối, những con chó luồn từ xó tối này sang xó tối khác. Hoặc giả, tiếng lạch cạch của một chiếc xe đạp, tiếng động duy nhất làm nổi bật sự im ắng mỗi lúc một sâu hơn giữa các cơn động quen thuộc do những chiếc xe kéo moóc gây nên.   Đó là một làng công nhân nhưng nhà máy đã ngừng hoạt động, chỉ còn lại có cái vỏ bằng gạch và sắt.   Mùa hè ở đây thậm chí còn kỳ cục hơn. Có những đợt nắng kéo dài và con đường trở nên sạch sẽ. Khoai tây mọc trên những mảnh vườn nhỏ. Quần áo được đem phơi ra ngoài trời. Con đường hẻm xen giữa các ngôi nhà đầy những vỏ chai rỗng. Buổi tối, người đi làm ở thành phố trở về, sau khi bước khỏi ôtô, còn nán lại một chút. Họ sưởi chút nắng còn sót lại của mặt trời đang lặn trong ráng đỏ ánh lên từ phía đường quốc lộ. Đêm xuống. Bầu trời chuyển sang màu ximăng ướt và biến thành một bức tường nhẵn bóng, trên đó treo lơ lửng chiếc bóng đèn to tướng là mặt trăng.   Vào khoảng bảy giờ rưỡi, họ trở về nhà để xem tivi.   Với lũ trẻ, đó là khoảng thời gian để chạy nhảy trên đường phố và chơi những trò nghịch ngợm trong các ngõ ngách phía sau nhà.   Ở chỗ giao nhau của quốc lộ và con đường nội tỉnh đã có từ lâu là một quảng trường. Quốc lộ có trước. Trên quảng trường có nhà thờ; kề đó là đài tưởng niệm, xung quanh có những chiếc ghế dài. Các cụ ông, cụ bà bé choắt lại vì tuổi tác, thường đến đây vào những ngày đẹp trời. Với dáng điệu khẽ khàng một cách co ro, họ ngồi lên những chiếc ghế băng để đan len hoặc đọc báo. Cũng có khi hai ba em bé gái, mà thường thì vẫn chỉ có bọn chúng, ngồi trước mặt con đường quốc lộ, nhìn những chiếc xe con và xe tải chạy qua chạy lại. Một cô bé trong số đó có tên là Pom (Pomme - quả táo tây).   Và đây là ngôi nhà của hai mẹ con cô bé Pom. Trước hết là một phòng lớn với chiếc bàn dài sơn trắng. Mặt bàn phủ tấm vải dầu có in những bông hồng đã ngả màu vàng vì thuốc tẩy (cũng còn có cả những vết nhòe màu vàng giống như những chiếc lá của bó hoa. Còn những vết thủng do tàn thuốc lá gây nên thì chẳng ra hình thù gì cả).   Những chiếc ghế sơn, có vài chiếc cùng kiểu với bàn, còn nữa thì mỗi chiếc mỗi kiểu. Rồi đến chạn bát.   Có thể ru rú trong nhà đốt lò sưởi, cũng có thể ngồi thoải mái với bộ quần áo ngủ; và bất chấp tất cả, ta vẫn cảm thấy, hầu như bằng xúc giác, cũng rung lên theo nhịp rung của những chiếc bánh xe tải đồ sộ. Những chiếc xe hối hả chạy qua, chỉ cách nhà có vài mét, nó cũng là lý do để tạo nên một cái gì đó khiến ở trong nhà cũng có cái vẻ ở ngay cạnh lề đường.   Căn phòng này do vậy đã trở thành phòng chính, và ở hai bên, mỗi bên một phòng nhỏ. Trong phòng thứ nhất có một chiếc tủ gương và một chiếc giường, một cái vũng mềm mại từ đó các giấc mơ, như ta vẫn thường nói, sẽ chảy thẳng ra lề đường. Ở chân chiếc giường lớn là một chiếc giường cũi dành cho trẻ em. Các thanh chắn trên thành cũi có cái bằng sắt mạ kền, có cái đã han gỉ.   Pom ngủ ở phòng thứ hai, căn phòng mà chúng ta chưa hề miêu tà đến, từ khi nó còn quá rộng đối với một chiếc giường cũi.   Chính vì có đôi má bầu bĩnh nên người ta mới gọi cô bé là Pom. Đôi má của cô rất nhẵn và khi có ai đó nói về nó trước mặt cô thì nó càng nhẵn, càng tròn và càng bóng nhoáng lên.   Cô bé còn có những thứ tròn trịa khác nữa. Vì thiếu một nhà thơ, kẻ xa lạ đến tội nghiệp trong câu chuyện này, bọn con trai trong làng bắt đầu nhìn cô bé như nhìn một giỏ trái cây.   Nhưng cô bé Pom cũng chẳng cần có nhà thơ để có thể rất hài hòa theo cốt cách riêng của cô. Có thể không thật đẹp. Cô không có cái mảnh mai thú vị của các thiếu nữ yêu kiều mà chỉ nhìn thôi, ta cũng đã có cảm giác rằng làn da tay của họ có thể làm chén nước rửa tay[1] mát mẻ và trong vắt hẳn lên. Trái lại, đôi bàn tay của cô, tuy không đến nỗi thô thiển, vẫn được gắn một cách chắn chắn vào cổ tay, rồi cổ tay lại được gắn vào cánh tay, và cứ như thế với cái vẻ hết sức tự nhiên.   Từ đầy đặn không phải dành cho một cô bé ở độ tuổi này (cứ cho là tuổi 14 đi), nhưng quả thật cô bé này tạo cho ta ngay lập tức một ấn tượng về sự đầy đặn: dù cô bận tíu tít hay chỉ ngồi rồi một chỗ, hoặc giả nằm bất động, mơ màng, dù mắt cô có lim dim, miệng há ra và tâm trí có phiêu diêu trong trạng thái gà gật thì sự có mặt của thân thể cô vẫn chế ngự cả căn phòng. Pom chỉ vừa đến độ tuổi trưởng thành, nhưng cả thân thể cô là một khối đồng nhất và chắc nịch. Cả phần hồn của cô cũng vậy. Cô không thuộc loại sinh vật mà sự hiện diện của nó tan biến đi những cái nhìn và những lời nói mơ hồ; cử chỉ, công việc của cô, dù là phù phiếm nhất, cũng vẫn làm cho mỗi giây phút của cô trở nên vĩnh cửu. Cô dọn ăn ở chỗ này, giặt giũ ở chỗ kia, cô ngồi làm bài tập (với một sự chăm chú khiến ai cũng phải mủi lòng) và những thái độ ấy, những cung cách ấy đều toát lên từ cô theo một nhu cầu hoàn toàn tự nhiên trong một thế giới yên bình.   Đôi bàn tay ngắn ngủi của cô bé trở nên luống cuống khi tập thêu, tưởng chừng như đã bị tách khỏi cô, nhưng cũng không vì thế mà mất đi ở cô cái nhất quán của sự tinh tế và sự thô kệch nào đó. Công việc cô làm, dù là việc gì ngay lập tức trở thành sự hòa hợp ấy, sự nhất quán ấy. Khi đó, cũng như những người khác, cô là chủ đề của một trong những bức tranh sinh hoạt mà trong đó hiện ra rất sống động qua cách bố cục và qua các giai thoại. Cái dáng vẻ ấy của cô thật riêng biệt, chẳng hạn như khi cô ngậm giữa hai làn môi chiếc ghim trong lúc đang sửa lại mái tóc. Cô bé là Cô thợ giặt, Cô xách nước, hoặc giả, Cô thợ thêu.   Có thể Pom đã thừa hưởng những năng khiếu đó ở bà mẹ, người đang phục vụ ở một quán rượu trong thành phố. Bà nói “Xin hầu ngài” một cách rất thoải mái bất cứ khi nào có một quý ông yêu cầu bà lên buồng trên gác. Bởi vì bà cũng là một người hầu theo đúng nghĩa riêng của từ đó dù ở gác lửng hay dưới tầng trệt, đứng hay bò, luôn luôn đơn giản và tự nhiên, cũng đơn giản, tự nhiên như cô con gái của bà vậy. Cả ở nhà bà mẹ và cô con gái, sự thoải mái trong tư thế là giống hệt nhau, kể cả khi ở trong căn buồng trên gác của quán rượu, vẫn là động tác tự nhiên ấy, luôn luôn đồng nhất và với một sự trong trẻo chân thành bất chấp tất cả. Tuy nhiên bà mẹ, người hầu ấy, không cởi giày vì trên sàn có những cái giằm. Đó chính là chỗ bất ổn duy nhất trong cuộc sống của bà.   Hai mẹ con nhà Pom còn giống nhau về tính nết. Họ chấp nhận một cách đơn giản những niềm vui và nỗi cay đắng mà số phận ban phát cho họ, cũng chẳng lấy gì làm nhiều lắm. Cả hai, cùng với ngôi nhà nhỏ của họ nằm ở rìa đường, tạo thành một cánh tay chết của cuộc sống, vệt sáng lặng lẽ từ một ô cửa sổ ở ngay cạnh một miệng cống, nơi những sinh vật khác qua lại nhộn nhịp.   Pom không hề tỏ ra ngạc nhiên và hoảng sợ khi cô thấy những dấu hiệu đầu tiên của giới tính, những dấu hiệu chưa ai nói trước với cô. Cô tự thay và giặt lấy đồ lót của mình, không giấu giếm nhưng cũng không nói với ai, như một con mèo bới đất và mùn cưa giấu đi các thứ bẩn thỉu mà nó vừa bĩnh ra. Mẹ cô đã nhìn thấy cô làm cái công việc tỉ mẩn và lặng lẽ này, và cô lắng nghe những lời khuyên của mẹ với một sự chăm chú chừng như chính cô đã hỏi vậy. Tâm hồn Pom cũng tròn trĩnh và nhẵn bóng như thân thể cô: không có chỗ gồ ghề khúc khuỷu nào ngăn được dòng chảy mọi vật trong cô.   (Ở đây tác giả có thể nhấn mạnh một chút về sự chung sống giữa một thiếu nữ với một người mẹ có quan hệ với nghề làm điếm. Có thể gợi lại những đêm không ngủ, những giờ khác chờ đợi dày thêm nỗi tủi nhục âm thầm của cô gái, cho đến tận khi mẹ trở về vào giữa đêm khuya, bước đi mệt mỏi và nặng nề, đôi mắt đờ dại vì mệt và chán chường, đụng phải ngay khi cánh cửa vừa hé mở, bộ mặt nhợt nhạt và cái vẻ dò hỏi đầy đau khổ của đứa con. Cũng cần phải nói về những lời giễu cợt bóng gió, hoặc sự im lặng nhọn hoắt như lưỡi kim mà Pom thật khó bề chống đỡ được mỗi khi cô đi trên đường làng, làm những thương tổn của tâm hồn cô mỗi lúc một rõ ràng, sâu sắc hơn. Ta cứ hình dung số phận chua xót của cô bé, và cuốn tiểu thuyết có thể sẽ trở nên một câu chuyện về những hư đốn của cô tiếp theo sau sự ngây thơ trong trắng ban đầu).   Thế nhưng mọi việc lại khác hẳn. Trước tiên Pom và mẹ cô có đặc quyền về sự vô tư. Cái đó không che lấp thực tế mà ngược lại làm cho thực tế trở nên trong suốt khiến con mắt người đời lướt qua đi mà không dừng lại. Quả thật chẳng ích lợi gì để mà tìm hiểu xem Pom có “nghi ngờ” vị thế của bà mẹ hay không. Pom làm gì có đủ tư cách để mà nghi ngờ. Tuy nhiên, số phận của cô (nếu chúng ta cứ khoác cho tâm hồn đơn sơ ấy tấm áo “số phận”) không phải không liên quan đến việc mẹ cô làm điếm tại một quán rượu trong thành phố, hơn nữa, bà mẹ vốn tính ngay thật, cứ kể bô bô trước mặt con gái về những người đàn ông đã chung chạ với mình. Tình trạng đó cùng với những câu chuyện mà mẹ cô thường nói, những câu chuyện kỳ quặc vì sự tầm thường của nó (trong đó chỉ có sự vô hại và chỉ có một người mẹ trung thực mới có thể nói với con mình bằng những từ ngữ chính xác như vậy), đã tạo nên trong Pom lòng kính trọng lớn lao đối với phẩm chất của “các quý ông”. Cô không nhìn thấy phẩm chất ấy ở trong đám trai làng. (Chẳng hạn khi cô đi đến trường hoặc khi cô trở về nhà). Bọn này mang trên mình chúng tất cả những gì là bừa bãi, là nhếch nhác trên trái đất này, mùi rượu vang, mùi các cuộc đình công, các đám rước ngày Một tháng Năm, và mọi lộn xộn khác mà đôi khi người ta đã chiếu trên vô tuyến truyền hình. Mẹ con nhà Pom có một người hàng xóm, gã này mỗi lần say khướt thường làm bọn trẻ trong làng sợ hết hồn, chạy bán sóng bán chết cho đến tận đường cái. Pom đã nhìn thấy bộ phận sinh dục của gã. Những quý ông ở thành phố không thể được tạo nên như vậy. Bằng chứng là các quý ông ấy là những chưởng khế, dược sĩ, nhà công nghiệp, nhà buôn. Ngoài thú tính, họ còn có những chiếc đồng hồ, những chiếc nhẫn vàng và sau nữa là những tập séc dày cộp. Chính với những thứ ấy mà các quý ông cưỡi lên bụng các cô gái trong khi vợ của quý ông đang vào thời kỳ mãn kinh ở nhà (tất nhiên Pom không thể diễn đạt nổi tất cả những điều đó).   Mùa hè, cô bé ngồi trên một chiếc ghế băng ở quảng trường, buông thả mình trong một sự chú ý mơ hồ đến những người lái xe, rất gần vào lúc mà bọn chúng chuẩn bị chạy qua đường quốc lộ đến tận chân trời; và cũng rất xa, như những quý ông mà cô nhận biết được qua tấm kính bằng những lời kể của bà mẹ.   Mời các bạn đón đọc Cô Thợ Thêu của tác giả Pascal Lainé.