Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chàng Trai Tháng 12 - Michael Noonan

Michael Noonan là tác giả của 18 cuốn tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn nổi tiếng dành cho độc giả ở nhiều lứa tuổi, bao gồm series truyện dài kì Flying Doctor, Magwitch và A Different Drummer. Ông cũng là nhà viết kịch bản, nhà soạn kịch cho các chương trình phát thanh, đài truyền hình, phim truyện và sân khấu. Các tác phẩm của ông đã được xuất bản, dựng thành phim và trình chiếu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cuốn sách đầu tay của ông có tên là In the Land of the Talking Trees được sáng tác khi ông còn đang phục vụ trong quân ngũ ở New Guinea trong Chiến tranh Thế giới thứ II. Cuốn tiểu thuyết dành cho các độc giả tuổi teen của ông có tên là McKenzie’s Boots (có tên trong dang sách “Những cuốn sách bán chạy nhất cho thanh thiếu niên” vào năm 1988 do American Library Association bầu chọn) được dựa theo những kinh nghiệm mà ông có được trong suốt thời kì chiến tranh. Tác phẩm The Patchwork Hero đã được Đài truyền hình ABC chuyển thể thành phim và dành giải thưởng cao. Giống như The December Boys, bối cảnh cho câu chuyện xảy ra vào năm 1930. Sau chiến tranh, Michel Noonan theo học ngành hội hoạ tại Phòng tranh Quốc gia ở Melbourne ( ông là tác giả của cuốn tiểu sử về hoạ sĩ Turner, cha đẻ của bức tranh The Sun Ir God nổi tiếng ), tiếp đó là ngành kịch nghệ, văn học, lịch sử và triết học tai Đại học Sydney. Từ năm 1957 đến năm 1979, ông sống ở Anh, sau đó quay trở về Australia và sống nốt quãng đời còn lại ở Queensland. Ông mất năm 2000. Những chàng trai tháng 12 (The December Boys) từ lâu đã được coi là một tác phẩm kinh điển của Australia. Đó là câu chuyện về 5 cậu bé đến từ Cô nhi viện St.Roderick. Tên của 5 cậu là Maps – thích lần theo đường bờ biển, Sharks – tóc đỏ và đầy chấm tàn nhang, Fido – được đặt tên theo một chú cún trong truyện tranh, Misty – có một mắt bình thường còn mắt kia không tốt, và bị che bởi cái mắt kính mờ tịt, và Choker – được đặt tên như thế (“Choker” có nghĩa là kẻ hay bị nghẹt, nói không nên lời) vì chẳng bao giờ trả lời được các câu hỏi trong lớp học. Năm người bạn này được gọi là “Những chàng trai tháng Mười Hai” vì mọi người đều nghĩ chúng đều được sinh vào tháng Mười Hai. Chúng được đưa đến bãi biển vào kì nghỉ, do bà Hodge “tài trợ”. Câu chuyện này được kể qua lời của Choker với một cái nhìn mới mẻ, ngây thơ và lạ lẫm đối với môi trường xung quanh cũng như với những sự việc xảy ra ở đó. Khi các cậu bé mới đến , tất cả đều sung sướng vì cảm giác tự do. Vì trước đó chưa đứa nào được đến bãi biển, nên chúng thích thú từ cơn sóng, bãi cát và mọi trò khám phá mà chúng có thể thực hiên quanh bãi biển. Captian’s Folly là một thị trấn nổi lên từ cuộc Đại Khủng hoảng những năm 1930 và khá vắng vẻ. Các cậu bé được giới thiệu với một đám dân cư sinh sống ở đây – những người lập dị một cách ngộ ngĩnh và thú vị. Trong đó gồm chủ nhà – ông bà McAnsh, và mấy cậu bé nhanh chóng phát hiện ra rắng hai ông bà dễ dàng bị “hạ gục” bời vài chai rượu vang, cho phép chúng được tự do nhiều hơn. Mấy cậu cũng kết bạn với một đôi vợ chồng – cô Teresa và chú Can Đảm, cùng với ông Lão Làng O’Leary – một người có rất nhiều kiến thức về địa phương. Qua O’Leary mà các chú còn gặp những người khác như Galore Bàn Tay Vàng, Hai Martin và Porter Bụng Phệ. Vào đêm Giao Thừa, Choker tình cờ nghe được chú Can Đảm nói với ông Lão Làng rằng họ (chú Can Đảm và cô Teresa) không thể sinh con và họ muốn nhận một đứa con nuôi. Cảm thấy quá “nặng gánh” nếu cứ giữ bí mật này một mình, Choker đành thú nhận với vị linh mục, và ông khuyên cậu nói ra với những người bạn của mình. Kể từ đó, kỳ nghỉ hầu như bị phá hỏng bởi sự ganh đua và cạnh tranh căng thẳng của các cậu bé, nhằm thể hiện mình vượt trội hơn những đứa khác, để thu hút sự chú ý và cảm tình của cô Teresa, với mong muốn được nhận làm con nuôi, trở thánh thánh viên của một gia đình thật sự… Xuyên suốt câu chuyện là chủ đề về tình bạn, về ước mơ có một gia đình, vế mong muốn rất hường hấy của tuổi mới lớn là được “hoà nhập” với xã hội, được “bình thường” như những người khác. “The December Boys” đã được dựng thành phim, với vai chính thuộc về Daniel Radcliffe (diễn viên đóng vai Harry Potter). Thân tặng Ted Willis – chủ nhân của căn nhà nơi cuốn sách này được thai nghén – vì tình bạn lâu năm và những lời động viên chân thành của anh. *** “Con còn lời nào muốn xưng tội nữa không, con trai?” Một giọng thì thầm khàn đục cất lên, phía bên kia tấm lưới sắt là cái bóng của vị linh mục. Có chứ, tôi vẫn còn muốn xưng tội tiếp nhưng không biết phải mở lời như thế nào. Từ trước tới nay mọi tội lỗi của tôi chỉ xoay quanh mấy chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, không có gì là đặc biệt: lỡ miệng nói bậy, gọi tên Người, bật cười trong nhà thờ, nói dối về việc rửa chân mỗi tối, bỏ qua các buổi cầu nguyện sáng và đêm. Tuy nhiên tôi luôn cảm thấy mình có lý do để bỏ qua mấy buổi cầu nguyện đó, bởi lâu nay tôi vốn đã không chăm chú lắm vào điều được coi là Thiên đường của mọi người – các tín đồ Công giáo, Tin Lành… “Hãy nói ta nghe, con trai.” Biết phải giải thích thế nào đây? Tôi tình cờ nghe được thông tin đó thì đâu phải là lỗi của tôi. Nó đè nén trong tôi suốt quãng thời gian qua, như một thứ trái cấm mà tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài mong muốn được nếm thử một lần xem sao. “Con có một bí mật.” – Cuối cùng tôi cũng cất lời. “Một bí mật sao, con trai?” “Vâng, thưa Cha.” “Và nó khiến con phải lo lắng?” “Vâng, thưa Cha.” “Có lẽ con đã bị cám dỗ bởi những suy nghĩ tội lỗi?” Mọi việc có thể không phải bắt đầu theo cái cách mà Cha nghĩ, nhưng rõ ràng là những suy nghĩ tội lỗi của tôi thì có thật. Sự thật là mấy tuần gần đây trong đầu tôi luôn tràn ngập cái ý nghĩ tội lỗi ấy. Thông tin mà tôi nghe lỏm được thật quý giá, và tôi đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải làm sao để ngăn không cho thông tin ấy lọt vào tai của bốn đứa bạn thân. “Một bí mật cũng có thể là tội lỗi, con trai ạ.” Đó chính là điều mà tôi đã luôn lo sợ. “Hãy bày tỏ nỗi lòng của con và rồi tâm hồn con sẽ được thanh thản.” Và thế là tôi kể cho Cha nghe. Về việc tôi đã nghe lỏm được, một cách vô tình, cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông có tên Foley Can Đảm và O’Leary Lão Làng về một phụ nữ tên Teresa. Có lẽ Cha hiếm khi phải nghe lời xưng tội từ một con chiên mới 12 tuổi như tôi. Cha ngồi trầm ngâm suy tư bên trong căn buồng buông rèm tối đó, nơi những suy nghĩ vẩn đục được các con chiên tự do thổ lộ và chế ngự. Phía bên kia tấm lưới sắt là tôi, đang quỳ gối xưng tội. Toàn bộ căn phòng được bao trùm bởi một sự yên lặng như tờ, đâu đó thỉnh thoảng vang vọng những tiếng thì thầm xưng tội của những con chiên đang ngồi trên các băng ghế dài phía bên ngoài. “Con trai của ta,” – Cha khẽ nói – “bằng việc muốn giữ riêng thông tin này cho bản thân, liệu con đã công bằng với những người khác chưa? Nếu con vẫn tiếp tục giữ im lặng, thì có nghĩa là con đang ích kỷ và trong mắt của Chúa, đó là một tội lỗi. Do đó, để tìm lại sự thanh thản cho mình, có lẽ tốt nhất là con nên chia sẻ thông tin mà con nghe được với những người bạn của mình. Hãy chia sẻ bí mật với họ, con trai của ta. Niềm vui và những nỗi lo trong cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu chúng ta được chia sẻ”. Tiếp đó Cha nói lời xá tội cho tôi bằng tiếng Latinh. Ngày nay phương thức sám hối có vẻ cũng thay đổi, từ việc đọc ba lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng hằng đêm đến việc đọc kinh Mân Côi trong 10 ngày liên tục, phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ và độ thường xuyên của tội lỗi mà người đó mắc phải. Tôi đã được Cha miễn cho không phải sám hối nhưng vốn kiến thức ít ỏi về tín ngưỡng vẫn đủ để tôi hiểu được rằng tội lỗi của tôi sẽ chỉ được gột rửa hoàn toàn khi tôi chịu làm theo lời khuyên của Cha và tiết lộ với tám cái tai thính kia của tụi bạn về cái điều sẽ khiến chúng phải ồ lên vì kinh ngạc. “Hãy cầu nguyện cho ta, con trai” – vừa nói Cha vừa kéo tấm gỗ nhỏ đằng sau tấm sắt và quay qua tiếp tục nghe lời cầu nguyện ở phía bên kia của căn phòng. Cầu nguyện cho Cha nữa ư? Với “nhiệm vụ” mà Cha vừa giao, chắc chắn tôi sẽ vô cùng bận rộn cầu nguyện cho bản thân mình ấy chứ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Các Người Khắc Biết Tay Tôi! - Katarzyna Grochola
Judyta, người đàn bà từng tuyên bố “Xin cạch đàn ông!” bây giờ đã đính hôn, và chỉ một bước nữa thôi là giấc mơ về “chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng đến tận nhà” sẽ thành hiện thực. Nhưng trở ngại bỗng xuất hiện: Adam Xanh Lơ – vị hôn phu của cô – chuẩn bị đi Mỹ, đất nước của vô vàn cám dỗ, trong sáu tháng. Làm đám cưới ngay bây giờ hay đợi đến khi anh về là một bài toán khó giải cho cô. Còn Tosia – cô con gái yêu quý – chẳng mấy chốc là đến kỳ thi tốt nghiệp trung học. Cô bé ngây thơ ngày nào giờ sắp tròn mười tám, biết yêu say đắm, dám nghĩ dám liều, và là nguyên do của vô số hiểu lầm, rắc rối cho mẹ cô. Vẫn giọng văn khôi hài, dí dỏm, nhiều tự trào như trong Xin cạch đàn ông!, Katarzyna Grochola viết tiếp về những thách thức của số phận vẫn đang chờ đón Judyta, người đàn bà đại diện cho một tầng lớp phụ nữ vừa hiện đại vừa mơ mộng trong các thành phố Ba Lan. *** Với “Các người khắc biết tay tôi”, độc giả sẽ được gặp lại “gái già” Judyta, người đàn bà với phương châm “phải hôn nhiều ếch thì mới gặp được hoàng tử” trong một cuộc sống hoàn toàn mới. Không còn “Xin cạch đàn ông!” nữa, bởi Judyta đã tìm thấy chàng bạch mã hoàng tử của cuộc đời mình. Nhưng sau khi tìm được hoàng tử thì sao, có lẽ cuộc sống vẫn là vô số điều bất ngờ xen lẫn rắc rối luôn chờ đợi bạn ở phía trước. Không ai đoán được ngày mai sẽ ra sao… Có được tình yêu của chàng Adam Xanh Lơ, Judyta ngỡ mình là người đàn bà hạnh phúc nhất thế giới. Nhưng một biến cố nho nhỏ đã xảy ra, khi Adam có quyết định sang Mỹ công tác trong vòng 6 tháng. 6 tháng! Nửa năm! Một phần tám mươi cuộc đời (còn lại). Nhưng 6 tháng đâu phải là muôn đời, Judyta đã tự an ủi mình như thế để có thêm dũng khí chờ đợi. Thế nhưng chẳng ai ngờ được khoảng thời gian 6 tháng đó cũng đủ cho muôn vàn rắc rối ập đến. Người phụ nữ từng một thời tuyên bố “Xin cạch đàn ông!” lại tiếp tục lao vào một guồng quay mới tất bật của cuộc sống. Với một cô con gái tuổi ấm ương đang chuẩn bị bước vào kỳ thi tốt nghiệp trung học. Với một con chó già lười biếng thích ăn tranh thức ăn của mèo. Với hai con mèo ham chơi không chịu về nhà. Với anh chàng “Cựu chồng” đang cãi nhau với vợ mới. Với thằng cháu trai nghịch ngợm chẳng bao giờ nhớ được khăn tắm của mình màu gì. Với một gã sếp trái tính trái nết và những cô bạn đồng nghiệp hay ganh tỵ…   Judyta, một nữ nhà báo đảm nhiệm công việc giải đáp những thắc mắc và gỡ rối cho bạn đọc giờ lại đang bơi trong hàng tá những rắc rối của chính mình. Không còn cách nào khác, phải tự bơi vào bờ. Không còn cách nào khác, phải tự trả lời cho những câu hỏi của mình. Nếu như “Xin cạch đàn ông” cho chúng ta thấy một Judyta mạnh mẽ, kiên cường, một phụ nữ sẵn sàng tuyên bố mình có thể sống mà không cần đàn ông thì “Các nguời khắc biết tay tôi” lại cho thấy một người đàn bà đang yêu đằm thắm. Vẫn tự nhủ là sẽ mạnh mẽ đấy, nhưng nội tâm thì lại cực kỳ mong manh dễ vỡ. Có đôi lúc cố tỏ ra bất cần đấy, nhưng trái tim thì lại đang tan nát vì thương nhớ người đàn ông của cuộc đời mình. So với “Xin cạch đàn ông!”, “Các người khắc biết tay tôi” thể hiện một độ “đằm” hơn, sâu lắng hơn, rung động hơn. Đó cũng là một sự chuyển đổi logic với tâm lý người phụ nữ khi yêu. Và nếu như “Xin cạch đàn ông” tập trung miêu tả thế giới của người phụ nữ trong cuộc khủng hoảng “hậu hôn nhân” thì “Các người khắc biết tay tôi” lại xoáy sâu vào công cuộc “tái lập” lại hạnh phúc gia đình sau khủng hoảng. Những rắc rối thường gặp giữa “người mới” và “người cũ”, những bất đồng trong quan hệ “con anh con tôi”… lần lượt được khai thác. Đặc biệt, “Các người khắc biết tay tôi” một lần nữa đề cập đến vấn đề giáo dục con cái. Ở“Xin cạch đàn ông”, đó là việc nuôi dạy một đứa trẻ còn đang ở tuổi niên thiếu. Còn trong “Các người khắc biết tay tôi”, đó là việc giáo dục một đứa trẻ đang ngập ngừng trước ngưỡng cửa trưởng thành. Ngoài những bỡ ngỡ về sự biến đổi giới tính còn là hàng tá những rắc rối liên quan đến tâm sinh lý lứa tuổi. Đặc biệt, khi đứa trẻ ấy đã bắt đầu ý thức được sự tồn tại của cái Tôi cá thể, khi nó biết tự cho mình cái quyền quyết định và can thiệp vào các mối quan hệ gia đình. “Các người khắc biết tay tôi” vẫn viết về những điều bình dị như thế trong cuộc sống. Nhưng người đọc chắc chắn sẽ không thể rời mắt khỏi cuốn sách nếu chưa đọc đến trang cuối cùng. Bởi như có một năng lực đặc biệt, Katarzyna Grochola biết cách thổi vào trang viết của mình những nét hấp dẫn, dí dỏm đầy tươi mới. Người phụ nữ này rất biết cách tự đi tìm những niềm vui trong cuộc sống. Chị không ngần ngại cười cợt ngay cả những khó khăn rắc rối trong cuộc đời mình. Có lẽ bởi cũng giống như Judyta, Katarzyna Grochola luôn có một niềm tin vững chắc rằng: “Tất cả rồi lại sẽ ổn thôi!”. Phải chăng đó cũng là suy nghĩ mà nhà văn muốn hướng các độc giả của mình đi tới. Những người phụ nữ chưa yêu, những người phụ nữ đang yêu, những người đàn bà có chồng, những người đàn bà ly hôn, những người đàn bà đã tái hôn, hãy cứ tin rằng dù cuộc đời này giông bão thế nào thì cuối cùng “Tất cả rồi sẽ lại ổn thôi!”. Mời các bạn đón đọc Các Người Khắc Biết Tay Tôi! của tác giả Katarzyna Grochola
Bức Họa Maja Khỏa Thân - Samuel Edwards
BỨC HOẠ MAJA KHOẢ THÂN của Samuel Edwards là một cuốn tiểu thuyết lịch sử sôi động và hấp dẫn từ đầu đến cuối, một cuốn sách nồng nàn hơi ấm tình yêu Tổ Quốc, tình yêu tự do, công lý, tình yêu nghệ thuật, một cuốn sách phản ánh lịch sử và nghệ thuật trên quan điểm tiến bộ của thời đại chúng ta. Ít có cuốn sách nào viết về một nghệ sĩ của quá khứ mà lại sinh động, phong phú và chứa đựng được nhiều tư tưởng tốt đẹp đến như vậy. Phải yêu và phải hiểu Gôya đến thế nào, và hơn nữa phải có một tình yêu sâu sắc đối với đất nước và nhân dân lao động Tây Ban Nha như thế nào, phải hiểu và đồng cảm với nghệ thuật và nghệ sĩ đến thế nào… mới có thể tái hiện lại cả một đất nước và con người vĩ đại qua mấy trăm trang sách làm say mê mọi người… Samuel Edwards, một nhà văn tiến bộ Mỹ chưa phải là một tên tuổi lớn của văn học thế giới, nhưng rõ ràng chỉ với tác phẩm này thôi, đóng góp của ông thật đáng quý và đáng ghi nhận cho thể loại tiểu thuyết lịch sử và thể loại truyện danh nhân. Nhưng tại sao lại có tiêu đề BỨC HOẠ MAJA KHOẢ THÂN? – Đó là một bức tranh danh hoạ của thiên tài Gôya, kết quả của tình yêu nghệ thuật và của những giây phút đắm say trong tình yêu của nghệ sĩ với Maria Cayettana, một phụ nữ quý tộc lừng danh tiêu biểu cho khát vọng tự do, dân chủ, cho ý chí chống lại triều đình phong kiến mục nát. Toà án Giáo hội Tây Ban Nha, một công cụ của chế độ chuyên chế tàn ác, đã đưa bức hoạ này ra như một bằng chứng để kết tội hoạ sĩ. Chúng cho rằng vẽ người trần truồng là chống lại Thượng đế, chống lại con người là trọng tội. Nhưng Gôya, với lòng yêu và kính trọng vẻ đẹp của con người, vì những thôi thúc chống lại chế độ chuyên chế tàn bạo đè bẹp con người dưới những tín điều kinh viện học trung cổ của nó, đã dõng dạc trả lời: - Thân thể trần truồng của đàn bà là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hoá, còn ý thức về sự tà dâm, về sự trần truồng ấy là sản phẩm của bản chất gian manh! Cần phải đặt bức tranh vào bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó để hiểu nó và hiểu Gôya, và hiểu vì sao tiểu thuyết này lại mang tên bức tranh ấy, một cái tên có ý nghĩa ẩn dụ, tuyệt nhiên chẳng phải vì muốn khơi gợi một ý nghĩ không lành mạnh nào… Cuối tiểu thuyết này có những ưu điểm lớn: qua cuộc đời của một nghệ sĩ, nó làm ta hiểu và yêu cả một đất nước, một dân tộc. Dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ chuyên chế, những người lao động Tây Ban Nha luôn luôn nung nấu một ý chí đấu tranh cho tự do, công lý. Những con người bình thường ấy là bạn của Gôya, cũng như chính Gôya vĩ đại là con của một người thợ mộc bình thường ở một miền quê. Và khi quân xâm lược Pháp tới, những con người ấy đã đứng lên, cầm vũ khí, vào rừng sâu, chống giặc. Đất nước của những trận đấu bò tót, của những đấu sĩ bò tót (matađo) của những người áo vải, những người cùng khổ, những cô “maja”, đất nước của Xecvantec, của Gôya và của Picatxô sau này… đấy là một đất nước trong đau thương vẫn nồng thắm tình yêu đời, tình yêu công lý. Những người Việt Nam chúng ta, qua kinh nghiệm của bản thân mình, qua cuộc chiến đấu mấy chục năm cho độc lập, tự do của Tổ quốc, thông cảm sâu xa điều này. Và cuộc đời của một nghệ sĩ vĩ đại như Gôya bao giờ cũng gắn liền với vận mệnh của Tổ quốc và nhân dân mình. Bản thân cuộc đời Gôya là sôi động và phong phú. Nhưng nếu chỉ qua tóm lược tiểu sử hay qua sự thể hiện vụng về, sơ lược, sự phong phú ấy sẽ bị rơi rụng gần hết. Phải tái hiện lại. Nhưng bằng cách nào? Không thể bịa đặt, thêm thắt, mà phải căn cứ vào những sự kiện có thực trong cuộc đời nghệ sĩ, rồi bằng sự hiểu biết và rung cảm của mình đối với cuộc sống Tây Ban Nha thời đại Gôya, mà chắp cánh cho trí tưởng tượng và dựng lại cuộc đời ấy như chính mình từng chứng kiến. Như thế cuốn sách làm phong phú thêm chứ không làm nghèo đi cuộc đời Gôya, mà vẫn chân thật, một sự thật đầy tính nghệ thuật, nghĩa là một sự chân thật có cân nhắc, chọn lọc và đạt đến sự hoàn mỹ. Có thể xem cuốn sách là một trong những mẫu mực về viết danh nhân lịch sử, danh nhân văn hoá. Chúng tôi đã từng đọc Pie đại đế của A. Tôlxtôi, một mẫu mực (tuy A. Tôlxtôi chưa viết xong) về tiểu thuyết lịch sử. Cuốn sách này là một mẫu mực khác, của một tác giả khác viết về đất nước khác. Chúng tôi hy vọng rằng với việc xuất bản cuốn sách này sẽ cung cấp thêm một tài liệu tham khảo về việc viết danh nhân ở nước ta. Và tỉnh Nghĩa Bình, quê hương của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, quê hương của Đào Tấn, quê hương của đồng chí Phạm Văn Đồng… mong mỏi có được những cuốn sách tái hiện cuộc đời của các danh nhân ấy trong cuộc đời của đất nước và nhân dân ta qua mấy thế kỷ đấu tranh kiên cường, bất khuất. Như thế, mặc dù rất hấp dẫn – cái hấp dẫn trước hết là thuộc về chất liệu, về nội dung hừng hực sôi động của cuộc đời Gôya, thuộc về nghệ thuật biểu hiện của tác giả, cuốn sách này mang trong nó những chủ đề lớn, rất gần gũi với tâm hồn dân tộc ta. Đây không phải thuộc loại sách hấp dẫn bằng cái màu mè bên ngoài, cái nhảm nhí nhất thời, mà hấp dẫn bằng quy luật vĩnh cửu của cuộc đời và nghệ thuật: tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật trác việt. Vậy xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc danh tác về Gôya này của Samuel Edwards với hy vọng sẽ mở rộng thêm chân trời văn hoá và nghệ thuật của tất cả chúng ta, chân trời tuy xa mà ích lời thì gần gũi trong mỗi cuộc đời chiến đấu cho độc lập tự do, cho nền văn hoá, nghệ thuật mới xã hội chủ nghĩa của chúng ta. SỞ VĂN HOÁ và THÔNG TIN NGHĨA BÌNH​ *** Bức họa Maja khỏa thân (La Maja Nue) tác phẩm của Samuel Edwards, viết về Francisco José de Goya y Lucientes – họa sĩ người Tây Ban Nha, người theo trường phái lãng mạn từ thế kỷ 19 cho đến tiền bán thế kỷ 20. Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử không chỉ viết về một phần đời của người họa sĩ tài hoa mà còn cung cấp cho người đọc một một cái nhìn khái quát nhưng rất chân thực và sống động về lịch sử đất nước Tây Ban Nha thời ấy, những quan điểm về đấu tranh cho tự do, những giằng xé tâm lý giữa trách nhiệm, nghĩa vụ, tình yêu, lý tưởng, niềm kiêu hãnh và danh dự… Cuốn sách không làm công việc tóm tắt cuộc đời và tác phẩm của người nghệ sĩ, mà thay vào đó, bằng ngôn từ đã xoáy sâu vào phần tâm thức của Goya, ảnh hưởng của phần tâm thức này trên những bức họa mà ông vẽ “…Nó cay độc và tàn nhẫn – song chân lý nhiều khi tàn ác có phải không? Tranh của ông làm tôi có cảm giác như tận mắt nhìn thẳng vào sự thật. Rõ quá. Đáng sợ quá. Tại sao như vậy?...” Tác giả Samuel Edwards cũng nêu ra trong truyện những vấn đề tác động đến tình cảm giữa hai con người không cùng giai cấp Goya và nữ Công tước Maria, họ tuy khác biệt nhau nhưng lại cũng rất giống nhau. Họ cuốn hút nhau không chỉ bởi vẻ đẹp bề ngoài mà còn bởi lòng tự tôn và lý tưởng mà họ mang trong mình. Hai con người này, vừa kiêu hãnh lạnh lùng, lại vừa nồng nàn say đắm, trong xã hội nước Tây Ban Nha phong kiến, thoáng qua tưởng chừng như chẳng thể nào đến được với nhau bởi ngăn cách giữa họ là những vấn đề có thể hoặc không thể dễ dàng trả lời, nhưng khi chịu khó đọc kỹ và ngẫm nghĩ vẫn có thể nhận thấy lời yêu chưa ngỏ, khao khát biện minh cho chính mình của Goya, tỉ như đoạn ông đáp trả những lời buộc tội của nữ Công tước về bức biếm họa của mình “…Tôi thấy dường như trong cuộc sống, sự thật cái mà ta gọi là chân lý ấy, mang bộ mặt của ác quỉ. Nhưng quỉ dữ không làm ta sợ hãi, nếu ta dám nhìn thẳng vào mặt nó. Chỉ khi nào ta tìm cách tự đánh lừa mình, chỉ khi nào ta cố tình và hèn nhát lẩn trốn trong sự dối trá thì đó mới là điều nguy hiểm…”. Cuốn truyện cuốn hút không chỉ bởi câu chuyện tình yêu của họa sĩ và nữ Công tước mà còn trải ra trước mắt bạn là cả một đất nước Tây Ban Nha với đủ mọi tầng lớp, từ vua chúa, quý tộc tới thị dân, đấu sĩ, những cô “maja” phục vụ trong quán rượu, với đủ mọi bộ mặt của lớp người đại diện cho nó và còn nhiều nhiều nữa những ẩn ý nằm sâu trong từng câu chữ và câu truyện quanh bức họa Maja khỏa thân. Người đọc nào chưa có điều kiện đọc và tìm hiểu lịch sử cũng như nền hội họa châu Âu trong nửa đầu thế kỷ mười chín, qua cuốn tiểu thuyết này có thể có được một cái nhìn tổng quan và hiểu biết thêm. Sau tất cả, khi khép lại cuốn truyện này, đọng lại trong tôi là là những xúc cảm rất thực, đau đáu nỗi niềm của nữ Công tước Maria và Goya, người nghệ sĩ – họa sĩ tài hoa, cả hai đều chất chứa trong tim mình tình yêu dành cho tổ quốc, và tình yêu họ dành cho nhau đan xen trong đó, họ “mắc nợ” nhau: Anh mắc nợ em một lời xin lỗi Em mắc nợ anh một đời nông nổi Và cũng bởi “duyên” và “nợ” mà họ luôn đau đáu hướng về nhau. Họ đã minh chứng trong chuyện tình của mình một chân lý mà dù ở thời đại nào tôi vẫn thấy đúng “ Trong tình yêu, không có chỗ cho hận thù và lòng kiêu ngạo”– Phải. Cho đi để đón nhận hạnh phúc, vì sao phải mãi so đo thiệt hơn? Trân trọng giới thiệu tác phẩm này với các bạn.   Mời các bạn đón đọc Bức Họa Maja Khỏa Thân của tác giả Samuel Edwards.
Bố Là Bà Giúp Việc - Anne Fine
Được chuyển thể thành bộ phim nằm trong top 100 phim hài hước nhất thế kỷ 20. Bà giúp việc mới tới người to uỵch, mặt bứ phấn, trông rõ là kém duyên. Vậy mà lũ trẻ đứa nào cũng thích bà, chả là vì chúng biết bà là bố Daniel chứ chẳng ai xa lạ. Chỉ mẹ Miranda là không biết. Để có thêm thời gian bên các con, Daniel đã phải đóng giả bà Doubtfire tới nhà vợ cũ xin làm giúp việc. Có biết bao tình huống dở khóc dở cười bởi Daniel cứ quên mình đang là bà Doubtfire. Những lần như thế lũ trẻ lại được chứng kiến tài diễn xuất cũng như sự giảo hoạt của bố chúng. Nhưng lần này, Daniel phải đau đầu không biết xoay xở ra sao, phân thân thế nào, để đồng thời đóng cả hai vai: bà giúp việc Doubtfire kiêm người mẫu khỏa thân cho lớp vẽ của bà hàng xóm học. Đôi nét về tác giả: Anna Fine sinh ngày 7 tháng 12 năm 1947 tại Leicester, Anh. Bà tốt nghiệp ngành Chính trị tại đại học Warwick và hiện đang sống tại hạt Durham. Fine được biết tới với hơn 50 tác phẩm dành cho thiếu nhi trong đó có Ăn bằng xiên và Viết như gà bới đã được Nhã Nam giới thiệu tới độc giả Việt Nam. Bà là người thứ hai được chỉ định giữ danh hiệu Children's Laureate - danh hiệu tôn vinh các tác giả hoặc người vẽ minh họa sách thiếu nhi xuất sắc. Fine còn là thành viên của Hội văn học Hoàng gia Anh và năm 2003 được trao Huân chương Hoàng gia Anh. "Nhà văn này [Anne Fine] có thể mang đến cho bạn tiếng cười nhưng cũng có thể lấy đi của bạn nước mắt. Bà là một báu vật mà nếu giữ riêng cho thiếu nhi thôi thì uổng quá." - Independent   Mời các bạn đón đọc Bố Là Bà Giúp Việc của tác giả Anne Fine.
Bí Mật Đảo Lincoln - Jules Verne
Người dịch PHẠM HẬU In lần thứ ba NHÀ XUẤT BẢN TRẺ - 1997- “Đoạn kết của Những đứa con của thuyền trưởng Grant và Hai vạn dặm dưới đáy biển. Kết cấu hợp lý, tình tiết hấp dẫn, hình tượng nhân vật chắc, kết thúc hơi .. sến, nhưng đúng kiểu làm độc giả té ngửa vào trang chót, đặc biệt, con chó dễ thương :) Chắc hòn đảo này sinh ra để dành cho những kẻ đắm tàu! câu cảm thán của gã thủy thủ lầy nhất truyện rất đắt, tất nhiên, tạo dựng cả một cơ ngơi từ bàn tay trắng, à không, còn được mẩu diêm, cái đồng hồ, sau tháo luôn cả quả khinh khí cầu. Tri thức và đôi bàn tay, không thể thiếu sự đoàn kết và tin tưởng lẫn nhau của tất cả các thành viên trong nhóm, họ đã tồn tại, tất cả những gì họ làm để sống đều đáng cho ta học hỏi, từ bất kỳ chi tiết nào!" *** “Jules Verne…tôi không biết một nhà văn nào khác đã gây cho tô những ấn tượng như thế. Tôi đã khao khát đọc những tiểu thuyết của ông. Có những trang của ông đã gây cho tôi sự xúa động không gì cững nổi. Bí mật của hòn đảo Lincoln đã khiến tôi lạnh toát người vì khiếp sợ…” –(V.BRJUSOV, nhà văn Xô Viết). “Bí mật đảo Lincoln”…có thể nói là hình ảnh thu nhỏ của lịch sử văn minh Châu Âu, do đó, cũng là lịch sử phát triển khoa học…” (Báo Tiếng Nói, Peterburg, Nga, 1985 *** Sau khi các tiểu thuyết “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1868) và “Hai vạn dặm dưới biển” (1870) ra đời, được bạn đọc gần xa nhiệt liệt tán thưởng, năm 1875, Jules Verne (1828 - 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng, một trong những người sáng lập thể loại truyện khoa học viễn tưởng, đã cho xuất bản tiếp tiểu thuyết “Bí mật đảo Lincoln”[1]. Trong cuốn tiểu thuyết mới này, tác giả đã tiếp tục phát triển cốt truyện sinh động và hấp dẫn của hai tiểu thuyết trên, vì vậy nó đã liên kết các tác phẩm ấy thành bộ tiểu thuyết ba tập duy nhất và nổi tiếng nhất của Jules Verne: “Những đứa con của thuyền trưởng Grant”, “Hai vạn dặm dưới biển” và “Bí mật đảo Lincoln”.   Ta gặp trong “Bí mật đảo Lincoln” kỹ sư Cyrus Smith, nhà báo Gédéon Spilett, anh da đen Nab, thủy thủ Pencroff và chú thiếu niên Harbert. Họ là những người Mỹ lương thiện trốn khỏi trại tù binh bằng một quả khinh khí cầu, nhưng chẳng may bị bão cuốn, gặp tai nạn, rơi xuống một hòn đảo hoang ở Thái Bình Dương, cách rất xa đất liền, trở thành những người trần trụi giữa mảnh đất trần trụi. Họ thiếu thốn đủ mọi thứ cần thiết nhất cho cuộc sống của con người bình thường: không có cái ăn, không có lửa, không có một cái gì có thể gọi là công cụ… Thực tế đã buộc họ trở lại sống chẳng khác gì những người hoang sơ: ở hang, dùng đá, gậy, cung, tên để săn bắt muôn thú sống qua ngày. Song, là những người từng trải, mỗi người lại có những kiến thức và kinh nghiệm sống trong xã hội văn minh, họ không tỏ ra thất vọng, bi quan, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh khắc nghiệt. Dưới sự hướng dẫn của kỹ sư Cyrus Smith, một người trí thức tài năng, rất cần cù, sáng tạo, đôn hậu và chân thành, linh hồn của cả toán, những người bị nạn ấy đã dần dần vận dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật để chinh phục thiên nhiên, khai thác các tài nguyên tại chỗ, làm ra những thứ cần thiết cho cuộc sống của con người văn minh - lấy lửa, nung gạch, luyện sắt thép, chế thuốc súng, vũ khí, công cụ lao động, máy điện báo, đóng tàu, trồng lúa, nuôi gia súc, gia cầm… Từ những người bị nạn họ trở thành những người di dân chung sức chung lòng xây dựng hòn đảo hoang mà họ đã đặt tên là đảo “Lincoln” thành một vùng di dân trù phú, một công xã tiêu biểu cho lối sống mới - con người trong cộng đồng, trong tập thể đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau, không phân biệt địa vị xã hội, màu da, cùng hòa mình trong lao động tận tụy vì sự nghiệp chung…   Cư dân thứ sáu trên đảo là Ayrton. Đó chính là tên tướng cướp Ben Joyce trong “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” đã bị đày lên đảo Tabor (cách đảo Lincoln 150 hải lý) từ 12 năm trước đây để tự cải tạo, chuộc lại những tội lỗi của mình, trong một chuyến tàu đi thăm đảo Tabor, những người di dân trên đảo Lincoln đã tìm thấy anh ta trong trạng thái không còn là một con người, mà đã hoang hóa thành một con thú sau những năm tháng sống cô đơn và mất lý trí. Những người di dân đã đưa anh ta trở về sống trong xã hội nhỏ bé của mình. Và, trước niềm tin yêu con người mạnh mẽ cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của những người bạn mới, Ayrton đã bị cảm hóa và tự thú tội lỗi, trút bỏ dần nỗi u sầu, mặc cảm về quá khứ đen tối của mình, trở thành một người lao động cần cù và trung thực. Chính anh ta đã tham gia chiến đấu dũng cảm, giáng trả quyết liệt bọn cướp biển đến xâm chiếm đảo, bảo vệ những thành quả lao động mà tập thể họ đã tạo dựng nên, đồng thời khẳng định sự trung thành của mình.   Bạn đọc cũng sẽ bất ngờ và thích thú được gặp lại nhân vật yêu thích của mình trong “Hai vạn dặm dưới biển” - thuyền trưởng Nemo bí ẩn cùng với con tàu ngầm kỳ diệu “Nautilus” của ông trú đậu ngay bên dưới hòn đảo “Lincoln”. Nhưng, bây giờ đây chúng ta sẽ gặp lại một thái tử Dakkar, một người Ấn Độ yêu nước, một Nemo đầy lòng căm ghét, nguyền rủa sự áp bức, bóc lột và sự thống trị tàn bạo của giai cấp tư sản và thực dân đế quốc đối với nhân dân lao động, song ông không còn xa lánh xã hội loài người nữa. Chính là do tấm lòng cao thượng, đức tính trung thực, lao động cần cù và tình thương yêu gắn bó lẫn nhau của những người di dân - những đại diện của xã hội loài người trên hòn đảo này - đã thuyết phục, cảm hóa ông. Và, vì vậy, ông đã bí mật gắn bó với họ và nhiều lần ra tay cứu giúp họ thoát khỏi hiểm họa.   Trên đảo “Lincoln” liên tiếp xảy ra những sự việc bí ẩn, bất ngờ liên quan đến cuộc sống của những người di dân, khiến người đọc hồi hộp theo dõi. Những hiện tượng ấy tưởng như siêu nhiên, nhưng thật ra, tất cả đều được giải thích rõ ràng bởi chính sức mạnh của khoa học kỹ thuật, đúng hơn là, bởi chính những con người được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật, bởi lòng nhân đạo và niềm tin vào con người.   … Hòn đảo “Lincoln”, khu di dân, thực chất là một công xã kiểu mẫu mà những con người lao động cần cù, dũng cảm đã xây dựng nên và gắn bố suốt bốn năm trời ấy cuối cùng đã bị nổ tung, chỉ còn lại một tảng đá ngầm.   Vì sao tác giả lại kết thúc cuốn truyện đầy hấp dẫn của mình bằng một sự bi đát như vậy?   Có lẽ ở đây sự kết thúc ấy không phải chỉ thể hiện diễn biến của cốt truyện, mà còn mang một ý nghĩa triết học.   Jules Verne là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa xã hội không tưởng và Công xã Paris. Ông muốn khi di dân, hay cái công xã kiểu mẫu ấy tồn tại không phải trên một hòn đảo chơi vơi, xa cách với loài người, mà ở ngay trên đất liền, giữa thế giới con người…   Và, những người di dân ấy, kể cả con chó Top trung thành của họ, đều đã được con tàu “Duncan” tình nghĩa cứu thoát và đưa về Mỹ… Họ tiếp tục sống với nhau trong tình cảm cao đẹp như xưa, và đã dùng số châu báu của thuyền trưởng Nemo tặng để tái tạo một khu di dân, một công xã “Lincoln” mới ngay trong lòng nước Mỹ, thu nhận vào đây những người khốn khó, giúp họ lao động và xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong một cộng đồng mới đầy tình yêu thương, tin tưởng vào con người, bình đẳng và không có chế độ người bóc lột người…   “Bí mật đảo Lincoln” là cuốn tiểu thuyết vừa mang tính chất phiêu lưu mạo hiểm, lại vừa mang tính chất khoa học viễn tưởng với nội dung phong phú và hấp dẫn. Tuy nhiên, để cho phù hợp với hoàn cảnh của ta hiện nay, trong khi dịch chúng tôi đã lược bớt một số đoạn để tập sách khỏi dày quá. Mặt khác, việc dịch thuật chắc không tránh khỏi những thiếu sót. Mong được bạn đọc thông cảm và đóng góp cho những ý kiến phê bình.   Người dịch  *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne.