Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vua Hàm Nghi (Phan Trần Chúc)

Hàm Nghi húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Minh. Ông là con thứ năm của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi, tức 3 tháng 8 năm 1871(có tài liệu ghi ông sinh ngày 22 tháng 7 năm 1872) tại Huế. Ông là em ruột của vua Kiến Phúc (Ưng Đăng) và vua Đồng Khánh (Chánh Mông hay Ưng Kỷ).

Sau khi vua Tự Đức qua đời vào tháng 7 năm 1883, mặc dù các Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyếtnắm trọn quyền hành trong việc phế bỏ vua này truất ngôi vua khác nhưng lại rất bị động trong việc tìm người trong Hoàng gia có cùng chí hướng để đưa lên ngôi. Trước thời Hàm Nghi, cả ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất sớm, trở thành những phần tử không thể không bị loại bỏ khỏi triều chính đang rối ren. Vua Kiến Phúc đột ngột qua đời trong lúc tình hình đang có lợi cho phái chủ chiến trong triều đình Huế.[3] Sau khi nhà vua mất, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ lên ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất quyền hành và hai ông chủ trương dứt khoát lựa chọn bằng được một vị vua ủng hộ lập trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch. Đây là một người có đủ tư cách về dòng dõi, nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân tộc và quan trọng hơn hết là hai ông có thể định hướng nhà vua về đại cuộc của đất nước một cách dễ dàng.

Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ ruột chứ không được nuôi dạy tử tế như hai người anh ruột ở trong cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân, tức ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi. Người ta nói rằng Hàm Nghi được lên nối ngôi theo di chúc của vua Kiến Phúc trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế, Hàm Nghi được phái chủ chiến lập lên ngôi. Nhân vật cầm đầu phái chủ chiến là Tôn Thất Thuyết - Phụ chính đại thần đồng thời là Thương thư bộ Binh.

***

1882-1883 - Về hai năm cuối đời Tự-Đức, lá cờ của triều Nguyễn ủ rũ, vì đã trải qua mấy phen thất-bại ở chiến trường. Tìm mua: Vua Hàm Nghi TiKi Lazada Shopee

Lốt chân người Pháp dẫm lên gần khắp cõi Đông-dương. Bức đồ Việt-nam thoạt tiên bị cắt đứt ba tỉnh Biên-hòa, Gia-định, Định-tường (5 tháng Sáu 1862). Ngày 25 tháng Sáu 1867, Nam-triều mất nốt ba tỉnh Vĩnh-long, Châu-đốc và Hà-tiên. Thế là trọn xứ Nam-kỳ đã về tay người Pháp mà chỉ còn giữ lại có hai trăm mẫu ở hai xã Linh-chung và Tân-mỹ thuộc tỉnh Biên-hòa, làm của hương hỏa để tế họ Đỗ và họ Phạm là họ Từ-Dụ Thái-hậu, mẹ vua Tự-Đức. 1

Trung và Bắc-kỳ tuy vẫn còn là của nhà Nguyễn, nhưng theo điều thứ ba, hiệp ước ngày 15 tháng Ba 1874 « vua An-nam không được phép ký thương-ước với bất cứ một nước nào mà không hợp với thương-ước Pháp-Nam và mỗi lần giao-thiệp với một ngoại-quốc phải trình trước đại-biểu Chánh-phủ Pháp ».

Nước Nam dồn lại chỉ còn có hai xứ là Trung, Bắc-kỳ. Hai xứ ấy lại cũng không được độc-lập hoàn-toàn. Vì ngoại giao của nó đã phải đi theo đuôi ngoại giao nước Pháp.

Trong một nước tạm yên: Những trận đánh ở Bắc-kỳ thoắt đổi làm cuộc giao-thiệp hòa-bình. Nhưng vua Tự-Đức không chịu nổi cái mầm bảo-hộ của người Âu, nên quay về lối ngoại-giao cổ của nước Nam. Ngày 25 tháng Chạp 1880, Nam-triều đệ các đồ tiến cống sang nhà Thanh và gây mối giao-thiệp cũ với Trung-hoa, có ý mượn sức người Tàu để trừ người Pháp.

Việc làm của vua Tự-đức trái với hiệp-ước Pháp-Nam. Ngày 13 tháng Ba 1882, Le Myre de Vilers là Thống-đốc Nam-kỳ có gửi một bức thư ra trách vua Tự-Đức.

Cuộc xung-đột này chưa giải quyết thì lại xẩy ra việc Le Myre de Vilers cử Thiếu-tá Henri Rivière ra Bắc để án ngữ thành Hà-nội.

Le Myre de Vilers hẹn Thiếu-tá Henri Rivière không được động binh. Quân Pháp đóng ở tô giới, quân Nam giữ trong thành. Bản ý Le Myre de Vilers là cho Thiếu-tá Rivière ra thị uy ở Bắc-kỳ để giúp thanh thế cho Rheinart, ngoại giao ủy-viên Pháp trong lúc điều đình với Nam-triều ở Huế.

Nhưng Henri Rivière vốn chủ chiến nên khi viết thư về Sài-gòn, có câu: « Lớp này chúng ta phải cố đứng vững ở Bắc-kỳ » 2. Rồi y bắn vào thành Hà-nội, rồi y cướp thành. Được tin, Nam-triều tức giận. Rheinart, vì thế mà hỏng việc, phải rời Huế vô Sài-gòn.

Hai tháng sau, ngày 19 tháng Năm 1883 thì Henri Rivière bị quân cờ đen giết ở ô Cầu-giấy (Hà-nội).

Sợi giây giao thiệp đứt.

Ngọn lửa chiến tranh vừa tắt, nhân cơ hội này lại bùng lên.

Khi tin Henri Rivière bị giết về đến Paris, Nghị-viện lập tức bàn ngay việc phái viện-binh sang đánh An-nam và có gửi bức điện sau này cho chức Thống-đốc Nam-kỳ: « Toàn-thể nghị-viện bỏ phiếu thuận xuất tiền ra để đánh lấy Bắc-kỳ. Nước Pháp sẽ báo thù cho các thần tử ».

Ngày 10 tháng Bẩy, Challemel Lacour, Tổng-trưởng bộ Ngoại-giao tuyên bố tại Hạ-nghị-viện: « Nếu chịu kiên nhẫn một chút thì quân ta cũng có thể giữ được Hà-nội mà chờ viện binh. Song vì quá can đảm nên quân ta không nhịn được chiến tranh mà chủ-tướng bị hại ».

Kinh thành Huế đón cái chết của Henri Rivière một cách khác hẳn.

Dân chúng và quan quân cùng vui mừng về cuộc thắng trận ở Bắc-hà. Quân và dân cùng tưởng tượng như một trận Cầu-giấy đã trừ cái ách cho nước Nam và sau khi đã giết Henri Rivière thì người Pháp không bao giờ dám bén mảng đến bờ cõi nước mình nữa.

Trong Triều, vua Tự-Đức tuy đang ngọa bệnh nhưng cũng cố gượng ngự triều. Giữa sự hoan-hỉ của triều-đình. Binh-bộ thượng-thư Trần Tiễn-Thành tỏ ra ý bất-bình. Thành phản-đối việc mở yến tiệc để khao cuộc thắng trận ở Bắc-kỳ, nói: « Trận tuy thắng nhưng phỏng có ích gì. Giết Henri Rivière mới là trừ được một người thù. Nhưng rồi đây sẽ có trăm ngàn người Pháp khác thay cho Henri Rivière. Trận ô Cầu-giấy không lợi gì hết mà chỉ hại cho việc giao thiệp của hai nước sau này. Mai mốt quân Pháp lại kéo ra đánh lấy Hà-nội, rồi dần dần, lấy cả thành Huế này nữa thì quân ta chống sao được »…

Tôn-thất-Thuyết tức giận, chê Trần Tiễn-Thành là hèn nhát. Ý Thuyết muốn đánh, đánh đến kỳ cùng. Nếu nước Pháp mang thêm quân sang đánh lấy Bắc-kỳ mà quân ta xét không chống nổi thì xin quân cứu viện của Tàu.

Hai bên không đồng ý, cãi nhau kịch liệt.

Trần Tiễn-Thành: « Tôi là người Tàu, lẽ tự-nhiên là tôi phải nói hay cho nước Tàu. Song cứ xét ở thực-sự thì quân Pháp tuy ít nhưng tinh nhuệ, lại có khí giới chỉnh bị. Quân Tàu và ta tuy đông nhưng không có thao luyện. Quân Tàu tôi dám chắc rằng không thể thắng được quân Pháp ».

Tôn-thất-Thuyết không bàn nữa, phủi áo đứng dậy, nói: « Ông là người Tàu mà ông khinh nước Tàu. Không biết nhục! ». 3

Trần Tiễn-Thành nguyên là giòng giõi người Tàu vì không phục nhà Thanh và muốn mưu đồ khôi phục lại nhà Minh, nên trốn sang Việt-nam. Trần Tiễn-Thành là người có thao-lược nên được triều-đình Huế tin dùng. Hiện Trần đã được phong đến chức Văn-minh-diện Đại-học-sĩ, lĩnh Binh-bộ Thượng-thư. Xét quân mình, mỗi lần đánh là một lần bại, Trần cho việc giao-chiến với nước Pháp là không thích thời nên thường khuyên vua Tự-Đức nên giảng hòa. Nhưng, phần vì quân địch vô cố gây sự, phần vì trong triều số đông chủ chiến, nên vua Tự-Đức trước sau vẫn do dự, không dám quyết là nên chiến hay nên hòa.

Nhà vua lại nhân lúc bệnh nguy nên việc nước đành chịu bỏ cho mấy vị quyền thần. Hai đảng, chiến do Nguyễn-văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết chủ trương và hòa, do Trần-tiễn-Thành đứng đầu, nhân sự suy nhược của nhà vua mà kéo vây cánh, chia ra làm hai phái phản đối nhau.

Phái muốn giảng hòa với Pháp, phái định đánh nhau đến kỳ cùng. Hai phái hai chính-kiến. Vậy nếu nói chung cả đoàn thể thì, triều-đình Huế cũng như vua Tự-đức trước khi lâm chung không có chính kiến gì hết. Nước Việt-nam như con thuyền trôi trên giòng nước chẩy mạnh, các thủy thủ vì tranh nhau tay lái nên không biết lái về phương nào.

Giữa lúc bối rối đó, vua Tự-Đức thăng hà: 19 tháng Bẩy 1883.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Vua Hàm Nghi PDF của tác giả Phan Trần Chúc nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đại Nam Liệt Truyện - Tập 2 (Đỗ Mộng Khương)
Đại Nam liệt truyện là một bộ sách có quy mô khá đồ sộ trong kho tàng thư tịch cổ viết bằng chữ Hán của Việt Nam, do cơ quan làm sử chính thức của nhà Nguyễn là Quốc sử quán biên soạn vào giữa thế kỷ XIX. Đại Nam liệt truyện gồm 87 cuốn, 2000 trang bản thảo, chia làm hai phần chính: Tiền biên và Chính biên, ghi chép tương đối đầy đủ về sự tích, công trạng các công thần, liệt nữ, danh tăng … và gia phả nhà Nguyễn trước và sau khi "Gia Long lập quốc". Bộ sách đã được các nhà dịch thuật nghiên cứu sắp xếp tại làm 4 tập:Tập 1: Tiền biên: Từ cuốn đầu tiên cuốn 6. Tập 2: Chính biên (Sơ tập): Từ cuốn đầu đến cuốn 33. Tìm mua: Đại Nam Liệt Truyện - Tập 2 TiKi Lazada Shopee Tập 3: Chính biên (Nhị tập): Từ cuốn đầu đến cuốn 25. Tập 4: Chính biên (Nhị tập): Từ cuốn 26 đến cuốn 46.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đỗ Mộng Khương":Đại Nam Liệt Truyện - Tập 1Đại Nam Liệt Truyện - Tập 2Đại Nam Liệt Truyện - Tập 3Dainamliettruyen-Tap2Dainamliettruyen-Tap3Thập Nhị Binh ThưĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đại Nam Liệt Truyện - Tập 2 PDF của tác giả Đỗ Mộng Khương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đại Nam Liệt Truyện - Tập 1 (Đỗ Mộng Khương)
Đại Nam liệt truyện là một bộ sách có quy mô khá đồ sộ trong kho tàng thư tịch cổ viết bằng chữ Hán của Việt Nam, do cơ quan làm sử chính thức của nhà Nguyễn là Quốc sử quán biên soạn vào giữa thế kỷ XIX. Đại Nam liệt truyện gồm 87 cuốn, 2000 trang bản thảo, chia làm hai phần chính: Tiền biên và Chính biên, ghi chép tương đối đầy đủ về sự tích, công trạng các công thần, liệt nữ, danh tăng … và gia phả nhà Nguyễn trước và sau khi "Gia Long lập quốc". Bộ sách đã được các nhà dịch thuật nghiên cứu sắp xếp tại làm 4 tập: Tập 1: Tiền biên: Từ cuốn đầu tiên cuốn 6. Tập 2: Chính biên (Sơ tập): Từ cuốn đầu đến cuốn 33. Tìm mua: Đại Nam Liệt Truyện - Tập 1 TiKi Lazada Shopee Tập 3: Chính biên (Nhị tập): Từ cuốn đầu đến cuốn 25. Tập 4: Chính biên (Nhị tập): Từ cuốn 26 đến cuốn 46.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đỗ Mộng Khương":Đại Nam Liệt Truyện - Tập 1Đại Nam Liệt Truyện - Tập 2Đại Nam Liệt Truyện - Tập 3Dainamliettruyen-Tap2Dainamliettruyen-Tap3Thập Nhị Binh ThưĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đại Nam Liệt Truyện - Tập 1 PDF của tác giả Đỗ Mộng Khương nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đại Kim Tự Tháp Ở Đâu- (Dorothy Hoobler)
“Tất cả đều sợ thời gian nhưng thời gian sợ Kim tự tháp.” - Ngạn ngữ Ả Rập Cùng khám phá bộ sách Tri thức phổ thông - Những địa danh làm nên lịch sử để hiểu hơn về những công trình, kiến trúc trường tồn theo thời gian. Đằng sau những biểu tượng của thế giới là cả một lịch sử huy hoàng, hãy cùng quay trở lại 2500 trước công nguyên để làm sáng tỏ sự ra đời của Đại Kim Tự Tháp hay bôn ba đến đất nước Ấn Độ để cùng chiêm ngưỡng sự lung linh và tráng lệ của ngôi đền TAJ MAHAL. Đặc biệt mỗi cuốn sách sẽ đi kèm bản đồ được in màu vô cùng đặc biệt dẫn lối bạn tới các di tích lịch sử. *** Đại Kim tự tháp Ai Cập là công trình kiến trúc nổi tiếng bậc nhất thế giới. Chúng sừng sững bên ngoài Cairo, thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất Ai Cập. Gần như ai cũng từng xem qua tranh ảnh về chúng. Kim tự tháp nằm trong số những công trình kỳ vĩ, cổ xưa nhất còn trường tồn đến ngày nay và là đối tượng được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Vào thời cổ đại, chúng là một trong bảy kỳ quan thế giới. Bảy kỳ quan thế giới cổ đại Tìm mua: Đại Kim Tự Tháp Ở Đâu- TiKi Lazada Shopee Vào thế kỷ 1 và 2 trước Công nguyên, lữ khách Hy Lạp có thể tìm mua cẩm nang hướng dẫn du lịch liệt kê những điểm tham quan ấn tượng. Bảy địa danh trong số này trở nên nổi tiếng với tên gọi bảy kỳ quan thế giới. Ngoài Đại Kim tự tháp còn có: 1) Vườn treo Babylon. Quốc vương Babylon kết hôn với một người con gái đến từ xứ sở trồng nhiều cây cối. Nàng thương nhớ quê nhà da diết. Để làm vui lòng nàng, nhà vua cho xây dựng một vườn treo vĩ đại tại đây. 2) Đền thờ Artemis ở Ephesus. Đức vua Lydia nổi tiếng giàu có đã cho xây dựng đền thờ Artemis nguy nga ở Ephesus, thành phố nằm ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. 3) Tượng thần Zeus ở Olympia. Bức tượng khổng lồ này được khảm ngà voi, vàng và đá quý. 4) Lăng mộ Mausoleum ở Halicarnassus. Mausolus, người cai trị giàu có của đế quốc Ba Tư ra lệnh xây dựng lăng mộ khổng lồ cho mình và hoàng hậu. Ngày nay, từ mausoleum được dùng để chỉ những ngôi mộ lớn. 5) Tượng thần Mặt trời trên đảo Rhodes. Để ăn mừng chiến thắng, người dân Rhodes đã xây dựng bức tượng thần Mặt trời Helios khổng lồ tại bến cảng. 6) Ngọn hải đăng Alexandria. Người kế vị Alexander Đại đế cho xây dựng ngọn hải đăng khổng lồ ở bến cảng thành phố Alexandria, Ai Cập để dẫn đường cho những con tàu trên Địa Trung Hải. Ngày nay, tất cả những kỳ quan này đều đã biến mất, ngoại trừ kim tự tháp. Kim tự tháp không dành cho người sống. Đó là ngôi mộ của pharaoh, người cai trị Ai Cập. Pharaoh là người kết nối giữa nhân dân Ai Cập và các vị thần. Chính các pharaoh cũng tự xem mình là thần linh. Bất kỳ việc gì pharaoh muốn thì thần dân đều phải hoàn thành. Vì vậy, khi pharaoh lệnh cho hàng nghìn người làm việc cực nhọc suốt nhiều năm ròng để xây dựng mộ thất, họ đều vâng lệnh. Hơn một trăm kim tự tháp hiện vẫn tồn tại ở Ai Cập nhưng nhiều nơi chỉ còn là phế tích đổ nát, hoang tàn. Ba kim tự tháp lớn nhất được biết đến với tên gọi Đại Kim tự tháp. Kim tự tháp cổ nhất trong số đó được xây dựng cách đây khoảng 4.500 năm. Người Ai Cập cổ đại tin rằng sau khi băng hà, pharaoh sẽ tái sinh trong một thế giới khác. Đó là lý do vì sao việc gìn giữ thi thể ngài và đặt nó ở những nơi an toàn như bên trong kim tự tháp lại quan trọng đến vậy. Trải qua quá trình ướp xác, thi thể biến thành xác ướp. Nó khô lại, được bảo quản và bọc trong các dải vải lanh trước khi đặt vào quách. Người hầu của pharaoh đặt thức ăn, đồ trang sức, đồ dùng và cơ man của báu vào kim tự tháp. Pharaoh muốn đảm bảo ngôi mộ của họ không bị quấy rầy. Vì vậy, những người xây dựng kim tự tháp cẩn thận che giấu đoạn đường dẫn đến căn phòng chôn cất. Họ giăng bẫy bất kỳ ai cố gắng đột nhập. Dẫu vậy, kẻ trộm mộ vẫn tìm được cách lẻn vào bên trong và đánh cắp kho báu. Trải bao thế kỷ, Ai Cập dần suy tàn nhưng Đại Kim tự tháp vẫn tồn tại. Khi tới đây, du khách sửng sốt trước những điều trông thấy. Chưa ai từng thấy điều gì như vậy. Herodotus là sử gia người Hy Lạp từng đến Ai Cập vào thế kỷ 5 trước Công nguyên. Khi ấy, kim tự tháp đã hàng ngàn năm tuổi. Như bao người khác, ông tự hỏi: “Ai có thể xây nên những kim tự tháp này? Họ đã làm cách nào?” Ngày nay, giới khoa học vẫn mải miết đi tìm lời giải đáp. Chúng ta biết nhiều điều về Ai Cập hơn Herodotus nhưng bức màn bí ẩn vẫn chưa được vén lên. Các nhà khoa học ngày càng có thêm nhiều khám phá mới nhưng kim tự tháp vẫn ẩn chứa vô vàn bí mật. Herodotus Sử gia người Hy Lạp Herodotus sinh ra vào khoảng năm 480 trước Công nguyên. Ông là người châu Âu đầu tiên tới thăm và ghi chép lại về Ai Cập. Ông đánh giá kỳ quan của Ai Cập “nhiều hơn bất kể xứ nào”. Ông miêu tả lại quá trình ướp xác vẫn đang tồn tại khi ghé thăm nơi này. Ông cũng thuật lại cách xây dựng kim tự tháp nhưng các nhà khoa học hiện đại cho rằng một số phần chưa chính xác. Bởi thời điểm xây dựng kim tự tháp đã quá lâu. Ông ghi chép lại chân thực về cuộc sống của người Ai Cập. Ông sửng sốt khi lối sống đó khác biệt với người Hy Lạp. “Người Ai Cập dường như đảo ngược lại hoàn toàn nguyên tắc thông thường của nhân loại.” Ông viết: “Phụ nữ chợ búa và buôn bán còn đàn ông ở nhà và dệt vải! Đàn ông Ai Cập vác hàng hóa bằng đầu còn phụ nữ đặt trên vai. Phụ nữ đứng khi tiểu tiện còn đàn ông lại ngồi thụp.” Herodotus ghi chép lại toàn bộ những điều ông có thể tìm thấy về lịch sử các đất nước ông ghé qua. Ngày nay, ông được biết đến với biệt danh là “Cha đẻ của sử học”.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đại Kim Tự Tháp Ở Đâu- PDF của tác giả Dorothy Hoobler nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đại Đường Tửu Đồ (Cách Ngư)
Uống rượu vốn là một môn học vấn. Nói thích uống rượu thì ai cũng nói được, nhưng có thể uống rượu và hiểu biết uống rượu là hoàn toàn khác nhau. Biết uống rượu chỉ là uống rượu, nhưng hiểu cách uống rượu lại có thể biến rượu thành một loại nghệ thuật văn hóa, thậm chí chính là một phạm trù triết học trong cuộc sống. Rượu không chỉ là để uống, nó còn có thể là một loại tâm tình của con người, một cách thức để yêu, một đoạn hồi ức như sương như khói, một bạn tốt tri tâm, một thứ có thể kết nối tận ngóc ngách tâm linh con người ta.“Người thường vốn nghĩ rằng, rượu chỉ có ba tác dụng: rượu để thêm vui, rượu để quên buồn, rượu để thêm can đảm. Kỳ thật, công năng của rượu tuyệt không chỉ có vậy. Theo Tiêu Duệ thấy, vẫn còn ba tác dụng nữa: rượu để trị bệnh, rượu để thành lễ, rượu để dưỡng tiết.” Những đại thi nhân Lý Bạch, Đỗ Phủ, một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa cổ đại là Dương Quý Phi và vô số những danh nhân khác xin được chào mừng bạn đến với thế giới của Đại Đường Tửu ĐồĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đại Đường Tửu Đồ PDF của tác giả Cách Ngư nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.