Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mộ Đom Đóm

Mộ đom đóm là một câu chuyện về chiến tranh. Một chiến tranh mà khói xám và lửa hồng chỉ điểm xuyết. Một chiến tranh mà trạng thái chết chỉ phảng phất, còn “đang chết” mới là trạng thái thường trực, là lực lượng án ngữ, chiếm ngự từ thể xác đến tâm hồn con người, cuối cùng thẳng tay nhấn chìm tất thảy. Một chiến tranh được tiếp cận ở bình diện thô ráp và nguyên thủy nhất từng thấy: cái đói. Vì đói mà kiết lị, vì đói mà lở loét, vì đói mà chấy rận, vì đói mà hao mòn. Không chỉ đói ăn, còn đói nhân cách. Mộ đom đóm kéo giật tới trước mắt người đọc những chân dung thoái hóa phái sinh từ cái đói thời loạn, như khả năng ợ lên nhai lại như bò, như suy nghĩ dị dạng trong ứng xử, trong tiêu khiển bình thường. Không chỉ người đói mà thú vật cũng đói, thậm chí chuột cũng đói, và quay ra gặm nhấm tất thảy những gì có thể, kể cả con người. Bỏ qua những màn bom rải thảm, những trận nổ rung trời, chiến tranh trong Mộ đom đóm tự lột trần mình bằng tội ác lớn nhất của nó: không chỉ cướp đi nhân mạng, mà còn tiêu diệt nhân tính. *** Ngày 21 tháng Chín năm 1945, một đứa trẻ lang thang chết trong ga Sannomiya. Ở đai cuốn bụng đầy rận của cậu, người ta tìm thấy một hộp đựng kẹo. Khi nhân viên nhà ga ném chiếc hộp vào bóng tối, những con đom đóm bay lên tán loạn, và những mẩu xương trắng lăn ra. Đó là xương đứa em gái bốn tuổi của cậu, đã chết do suy dinh dưỡng... Tập truyện Mộ đom đóm bao gồm sáu tác phẩm khởi đầu sự nghiệp văn học của Nosaka Akiyuki, trong đó có hai tác phẩm giành Giải thưởng Naoki. Một là truyện “Mộ đom đóm” với lối viết độc đáo, khắc họa đầy ấn tượng cuộc sống trước khi chết đói của hai anh em lang thang. Hai là “Tảo nâu của Mỹ”. *** NOSAKA AKIYUKI Sinh năm 1930 ở Kamakura, tỉnh Kanagawa. Đang học Đại học Waseda thì bỏ dở con đường bằng cấp. Sau khi trải qua nhiều nghề khác nhau, ông trở thành phóng viên. Năm 1963 ông cho ra đời tác phẩm đầu tay nhan đề Người viết truyện khiêu dâm. Tác phẩm tiếp cận đề tài tình dục bằng giọng văn gay gắt mà hài hước, đã bất ngờ thu hút sự chú ý của dư luận. Năm 1967, Nosaka trình làng hai tác phẩm. Tảo nâu của Mỹ lấy tư liệu từ thực trạng xã hội thời kì bị chiếm đóng, và Mộ đom đóm khắc họa những trải nghiệm chiến tranh, bom đạn và đổ nát. Một năm sau, hai tác phẩm này được trao giải Naoki. Ngoài ra, Nosaka còn một số tác phẩm đáng chú ý như Hoa tử nhân cát nơi vách núi Honegami, 1945 - Mùa hạ - Kobe... *** Cổng Nam ga Sannomiya, thuộc tuyến đường sắt của Bộ Vận tải. Seita ngồi bệt dưới sàn, hai chân duỗi thẳng, rệu rã tựa lưng vào cây cột trơ cả bê tông do tróc lớp gạch ốp. Dưới cái nắng cháy da, đã gần một tháng không tắm mà đôi má hốc hác của cậu vẫn trắng nhợt, hõm xuống. Tối đến, cậu nhìn theo bóng gã đàn ông nghênh ngang đốt đuốc, oang oang mắng chửi như phường trộm cướp. Sáng ngày, cậu ngồi phân biệt đám học sinh vẫn tới trường như chưa có chuyện gì xảy ra. Áo màu kaki nhưng mang bọc vải trắng là trường Cấp hai Kobe 1, đeo cặp là trường cấp hai công lập cấp thành phố. Học sinh các trường cao đẳng nữ* như trường công lập cấp tỉnh 1, trường dân lập Shinwa, Shoin và Yamate đều mặc quần thụng, chỉ khác nhau ở cổ áo thủy thủ. Tương đương với cấp 2, thuộc hệ thống giáo dục quốc dân áp dụng từ năm 1941, thay thế toàn bộ các hệ thống trước đó. (Các chú thích trong sách là của người dịch hoặc ban biên tập tiếng Việt.) Trong đám đông ùn ùn đi ngang qua, có người ngửi thấy thứ mùi khó chịu nên nhìn xuống, rồi vội vã nhảy ra như tránh tà. Seita đã không còn cả sức để lết đến khu vệ sinh ngay trước mặt nữa. Ở chân mỗi cây cột vuông rộng tầm 90 phân này đều có những đứa trẻ tương tự, cứ ngồi ì như đang tìm kiếm sự chở che của mẹ. Chúng đổ về nhà ga có lẽ vì đây là nơi duy nhất chúng được vào, vì nhớ những nơi đông người qua lại, vì có nước uống, và vì may ra được ai đấy bố thí cho. Vừa vào tháng Chín, khu chợ trời dưới gầm đường sắt Sannomiya bắt đầu hoạt động, mở hàng là món nước đường cháy hòa tan đựng trong thùng sắt, một cốc múc đầy giá 50 sen. Chẳng mấy chốc mọc lên nào khoai hấp, bánh dango làm bằng bột khoai, cơm nắm, bánh giầy daifuku, cơm rang, chè zenzai, bánh manju, mì udon, cơm tempura, cơm cà ri... rồi thì bánh ngọt, gạo, lúa mì, đường, tempura, thịt bò, sữa, đồ hộp, cá, rượu shochu, whisky, lê, cam, ủng cao su, săm xe đạp, diêm, thuốc lá, bốt tẽ ngón, tã bỉm, chăn quân đội, giày quân đội, quân phục, bốt cổ lỡ... Mấy ông chồng rao bán cả hộp nhôm đựng cơm trộn lúa mạch buổi sáng vợ chuẩn bị cho, “10 yên đây, 10 yên đây,” tay kia ngoắc lủng lẳng đôi giày cổ ngắn đã sờn, “20 yên, 20 yên mua không?” Bị hấp dẫn bởi mùi thức ăn, Seita bất giác đưa chân vào chợ. Cậu bán lớp áo lót dài, đai obi, cổ áo rời, dây cột eo* của người mẹ quá cố cho sạp quần áo cũ bày hàng trên tấm chiếu bằng cỏ bấc đèn, nhờ đó mà xoay xở được khẩu phần nửa tháng. Các phụ kiện của một bộ kimono. Toàn bộ đồ đem bán đều ngấm nước trong hầm trú ẩn nên đã phai màu. Bộ đồng phục dệt bằng tơ nhân tạo, rồi giày ghệt của Seita cũng lần lượt tiếp bước, cậu chần chừ có nên bán cả quần không. Chẳng biết tự lúc nào Seita đã quen qua đêm ở nhà ga. Một thiếu niên ăn mặc chỉn chu đi cùng gia đình có vẻ vừa trở về từ nơi sơ tán, khăn trùm đầu được gấp gọn gàng vắt trên túi vải, ba lô đeo lưng lủng lẳng cặp lồng, ấm đun nước, mũ sắt. Xem chừng họ đã chuẩn bị lương thực khẩn cấp để ăn trên tàu, nhưng giờ đến nơi rồi nên yên tâm quẳng cho Seita chiếc bánh dango làm bằng cám gạo đã nhão nhoét, như thể vứt bớt hành lý đi. Seita còn nhận được mẩu bánh mì ăn dở, rồi bọc đậu tương rang của một anh lính phục viên thương người, hoặc của bà lão động lòng trắc ẩn vì có đứa cháu trạc tuổi. Họ rón rén đặt xuống ở đằng xa như đem đồ dâng Phật, dù gì cậu cũng rất biết ơn. Thỉnh thoảng, Seita bị nhân viên nhà ga đuổi đi, nhưng hiến binh canh gác ở cửa soát vé lại đánh họ để bảo vệ cậu. Ít nhất trong ga muốn bao nhiêu nước có bấy nhiêu, nên cậu cứ mọc rễ ở đây. Nửa tháng sau thì không đứng lên được nữa. Seita bị tiêu chảy, liên tục ra ra vào vào khu vệ sinh của nhà ga. Mỗi lần đứng dậy lại loạng choạng, tì cả người vào cánh cửa đã long mất tay cầm để gắng gượng đu mình lên, khi đi thì một tay phải bám vào tường. Cứ thế, cậu như quả bóng xì hơi, cuối cùng chỉ đành ngồi dựa vào cột, không nhấc nổi người lên nữa. Nhưng cơn tiêu chảy vẫn dồn dập tấn công, chẳng mấy chốc quanh mông đã vàng khè. Seita cuống quýt, xấu hổ muốn độn thổ mà không sao động đậy được, đành gắng lấy tay vun chút cát bụi trên sàn phủ lên, hòng giấu đi thứ màu đó. Nhưng tay cậu không với được xa, người ta nhìn có khi lại tưởng đứa trẻ lang thang đói đến mất trí nghịch cả nước phân mình thải ra. Không còn thấy đói hay khát, Seita nặng nề gục đầu xuống ngực. “Ôi bẩn quá!” “Chết rồi à?” “Quân Mỹ sắp đến mà nhà ga lại có cái của này, xấu hổ quá!” Chỉ đôi tai cậu là còn hoạt động và nghe được vô vàn thanh âm. Đến tối, bỗng nhiên lặng ngắt như tờ. Không còn tiếng guốc vang vọng trong nhà ga, tiếng tàu chạy lanh canh trên đầu, không còn tiếng giày đột nhiên biến thành bước chạy, tiếng trẻ gọi mẹ, tiếng đàn ông nói chuyện lào khào gần đó, hay tiếng nhân viên nhà ga ném thùng một cách thô bạo. Hôm nay là ngày bao nhiêu rồi? Ngày bao nhiêu nhỉ, mình ở đây bao lâu rồi? Khi tỉnh lại, Seita thấy sàn bê tông ở ngay trước mắt, nhưng không nhận ra mình đã đổ nằm xuống mà vẫn giữ nguyên tư thế co ro lúc ngồi. Cậu đăm đăm nhìn lớp bụi mờ cuốn lên khỏi sàn theo hơi thở yếu ớt của mình. Không biết là ngày bao nhiêu rồi nhỉ? Seita bám dính lấy băn khoăn ấy mãi, rồi ra đi. Đó là ngày 21 tháng Chín năm 1945, sau hôm chính phủ thông qua “Đại cương Chính sách bảo vệ trẻ mồ côi do chiến tranh”. Đến đêm nhân viên nhà ga dè dặt lục soát quần áo đầy chấy rận của Seita và tìm thấy một hộp kẹo giắt trong đai quấn bụng. Anh ta cố mở nắp, nhưng có lẽ hộp bị gỉ nên không mở được. “Cái gì đây?” “Kệ nó, kệ nó, vứt đi cho xong. Thằng này nữa, đến lúc rồi, mắt mở trừng trừng thế là sắp đi tong.” Một người khác lên tiếng. Người đó đang nhòm khuôn mặt rũ xuống của một đứa trẻ lang thang nhỏ tuổi hơn ở ngay cạnh xác Seita. Seita vẫn nằm nguyên tại chỗ, chờ người của ủy ban Hành chính Quận đến dọn, chẳng được ai đắp cho dù chỉ một tấm chiếu manh. Dường như không biết làm sao, tay nhân viên lắc hộp kẹo khiến nó kêu lọc xọc. Trước nhà ga có chỗ bị thiêu rụi, anh ta lấy đà liệng hộp ra khoảng tối cỏ mọc um tùm chỉ sau một mùa hè ấy. Hộp kẹo rơi xuống, bật nắp, chất bột màu trắng đổ ra, ba mẩu xương nhỏ lăn lóc, khuấy động những con đom đóm đang trú ngụ trong cỏ. Hai ba chục con đom đóm lập lòe tán loạn bay lên, một lát sau lại trở về yên tĩnh. Những mẩu xương trắng nọ là của Setsuko em gái Seita, mất ngày 22 tháng Tám dưới hầm trú ẩn ở Manchitani thành phố Nishinomiya. Người ta bảo là tại viêm ruột cấp tính, nhưng thật ra cô bé bốn tuổi đã bất động từ lâu và ra đi trong trạng thái li bì. Cô chết vì kiệt sức do suy dinh dưỡng, giống anh mình. Mùng 5 tháng Sáu, 350 chiếc máy bay B29 ném bom xuống Kobe, khiến năm thị trấn Fukiai, Ikuta, Nada, Suma và Đông Kobe bị thiêu rụi hoàn toàn. Seita mới học lớp Chín đã bị tổng động viên đi lao động ở nhà máy thép Kobe. Hôm đó là ngày tiết kiệm điện. Cậu đang ngồi chờ trong nhà ở thị trấn Mikage gần bờ biển thì nghe báo động, liền hấp tấp vùi lò than Seto* xuống cái hố đã đào sẵn ngoài vườn, giữa những luống cà chua, cà tím, dưa chuột, rau mầm. Lại gom toàn bộ gạo, trứng, đậu tương, cá ngừ bào khô, bơ, cá trích khô, mơ muối, đường saccharin, trứng muối vào đấy rồi phủ đất lên trên. Lò gốm cổ lâu đời ở Nhật Bản, đã có hơn một nghìn năm lịch sử. Mẹ đang ốm, Seita phải thay mẹ cõng em. Bố là đại úy hải quân, nhưng đã bặt tin từ ngày theo tàu tuần dương ra trận. Cậu tháo ảnh chụp bố mặc quân phục mùa đông ra khỏi khung, nhét vào ngực áo. Sau hai trận không kích ngày 17 tháng Ba và 11 tháng Năm, Seita hiểu ra, đèo bòng phụ nữ trẻ con không thể dập tắt bom cháy*, mà căn hầm đào dưới sàn nhà cũng không an toàn nữa, cậu đành đưa mẹ đến trú trước ở hầm bê tông do ủy ban xã bố trí đằng sau trạm cứu hỏa. Còn gọi là bom Napan hoặc lựu đạn lửa. Đang mở tủ vơ vội quần áo ngày thường của bố vào ba lô, Seita nghe thấy tiếng kẻng leng keng ở vọng gác máy bay, bèn chạy ào ra cửa, và lập tức chìm trong tiếng bom rơi vang trời. Sau đợt đánh bom kinh hoàng đầu tiên, cậu có ảo giác là mọi thứ bất chợt tĩnh lặng, nhưng rồi tiếng gầm gào nặng nề của những chiếc B29 lại ầm ĩ không thôi. Seita ngước mắt nhìn lên. Trước giờ cậu mới chỉ thấy vệt mây mập mờ phết ra từ mấy cái chấm nhỏ xíu bay về hướng Đông*. Hay như năm ngày trước trong trận ném bom ở Osaka, từ hầm trú ẩn của nhà máy, cậu nhìn đội máy bay mà tưởng đâu đàn cá đang luồn lách giữa những đám mây trên bầu trời vịnh Osaka. Vệt mây trắng sau đuôi máy bay. Khí thải từ máy bay rất nóng, khi gặp không khí lạnh và ẩm trên cao, hơi nước từ khí thải sẽ ngưng tụ lại thành từng vệt mây trên bầu trời. Có thể gọi là mây nhân tạo. Còn hôm nay, cậu thậm chí nhìn rõ đường kẻ đậm vẽ ra từ thân dưới máy bay. Nó đang bay từ biển về núi ở độ cao chỉ hơn tầm với, rồi đột nhiên chao cánh biến mất ở phía Tây. Lại một tiếng bom rơi. Bầu không khí trở nên ngột ngạt, Seita đứng chôn chân tại chỗ, người như bị ai trói chặt. Bỗng cậu nghe tiếng lạch cạch. Một quả bom cháy màu xanh đường kính 5 phân, dài 60 phân từ mái nhà lăn xuống, nảy đom đom như một con sâu đo, phun đầy dầu ra đất. Seita vội chạy vào nhà, nhưng từ trong nhà, một luồng khói đen cũng đang chầm chậm lan rộng, cậu lại lao ra cửa. Cả dãy nhà vắng tanh, yên ắng như chẳng có chuyện gì. Căn nhà đối diện đã dựng sẵn chổi dập lửa và thang cạnh tường. Dù thế nào cũng phải đến hầm tránh bom của mẹ đã, Seita tự nhủ. Trên lưng cậu, em gái bật khóc nức nở. Cậu vừa dợm bước thì một cột khói đen phun lên từ cửa sổ tầng hai căn nhà trong góc đường. Cứ như được sắp đặt sẵn, bom cháy âm ỉ ở gác xép trước đó cũng đồng loạt bùng lên thành lửa, đốt cây cối trong vườn nổ lép bép. Lửa chạy dọc mái hiên, thiêu cửa chớp đến long ra, rơi đánh thình. Seita thấy trước mắt tối sầm. Không khí lập tức nóng rực. Cậu bật chạy như bị ai xô mạnh. Kế hoạch ban đầu là sơ tán ở bờ đê sông Ishiya nên cậu chạy dọc theo đường tàu Hanshin trên cao về phía Đông, nhưng nơi này sớm đã nhung nhúc dân đi lánh nạn. Kẻ kéo xe bò. Ông nọ cõng bọc chăn đệm, bà kia the thé gọi người. Sốt ruột, cậu chạy ra biển, lúc này tàn lửa vẫn bay tán loạn, bom rơi ầm ầm xung quanh. Thùng rượu cỡ 5400 lít được tận dụng làm bể chữa cháy bị vỡ, nước tràn ra lênh láng. Có người đang loay hoay chuyển bệnh nhân bằng cáng. Vừa qua một khoảnh đất hầu như không có ai, thì lại đến một quãng ồn ào bát nháo như tổng vệ sinh nhà cửa (kiểu kĩ càng tới mức lật tung cả chiếu trải sàn lên ấy). Seita rời khỏi đường quốc lộ cũ, chạy mải miết trên con ngõ hẹp, đi qua khu phố vắng hoe, có lẽ dân chúng đã sơ tán cả rồi. Cậu trông thấy hầm rượu Nadagogo đen thui quen thuộc. Mùa hè mà ra đây sẽ ngửi thấy mùi biển phảng phất. Mỗi bể chứa rượu cách nhau tầm mét rưỡi, qua đó người ta có thể thấy bờ cát lấp lánh dưới nắng hè, mặt biển xanh ngắt trải rộng đến tận chân trời. Bây giờ không phải lúc nghĩ ngợi vẩn vơ. Bờ biển chẳng có hầm, nhưng mọi người đều nghĩ muốn tránh lửa thì cần nước, cho nên trên bờ cát chỉ rộng 50 mét mà tập trung bao nhiêu người, chẳng ai bảo ai cùng nép mình trong thuyền đánh cá hay dưới bóng tời kéo lưới. Mời các bạn đón đọc Mộ Đom Đóm của tác giả Nosaka Akiyuki.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lưỡi - Jo Kyung-ran
 Jo Kyung Ran đã viết nên một tác phẩm mang nhiều sắc thái của tình yêu có lúc yên bình khi lại vô cùng dữ dội, thông qua "lưỡi" - một hình ảnh trần trụi khiến người ta phải tò mò. Jo Kyung Ran viết Lưỡi xoay quanh một đầu bếp người Hàn chuyên ẩm thực Ý. Mối tình 7 năm của cô vừa kết thúc, cô dần mất niềm đam mê cho nấu ăn và mất cả vị giác. Tác phẩm như một làn gió mới trong nền văn học Hàn hiện đại khi nó không đặt nặng yếu tố văn hóa quốc gia như thường thấy. Sách viết theo ngôi thứ nhất, với nhân vật chính kể về nỗ lực cô tiếp tục sống sau tan vỡ tình cảm, niềm đam mê ẩm thực, ký ức tuổi thơ và về cuộc sống đời thường của cô đầu bếp trẻ. Dù không yêu thích nấu ăn nhưng có lẽ bạn vẫn sẽ bị  Lưỡi cuốn hút bởi những khía canh khác tình cảm, gia đình, xã hội… được Jo Kyung Ran thể hiện nhiều trong cuốn sách. Tiểu thuyết Lưỡi vượt ra khỏi ranh giới Hàn Quốc, được cộng đồng độc giả Anh ngữ đánh giá cao. Những câu văn Jo Kyung Ran miêu tả thực phẩm, quá trình chế biến, phục vụ và thưởng thức đồ ăn thật sự độc đáo, chúng được tác giả sử dụng như ẩn dụ cho tình yêu và đôi lúc là cả tình dục. Nét miêu tả của tác giả biến hóa vô cùng đa dạng từ gợi hình gợi cảm của một trái táo tầm thường: "Táo có hương vị của tự nhiên , của huyền bí, của hình dáng những đám mây và tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào". Nhưng ngay lập tức lại khiến người đọc cảm thấy rợn người với cách người ta làm ra một món ăn xa xỉ như gan ngỗng: "Để có gan ngỗng béo, người ta gây sốc điện trên não bộ con ngỗng, thậm chí khoét mắt nó, vậy là con vật chẳng bận tâm điều gì khác ngoài thao tác ăn cặm cụi như máy bất chấp đói no cho đến khi béo xù đủ đem mổ thịt". Nữ nhà văn cũng nhiều lần đưa đầu mối về nội dung đoạn kết xuyên suốt tập truyện để người đọc giải mã nhưng cho đến chương cuối vẫn là một kết cục bất ngờ. Jo giữ vững văn phong giàu tính biểu tượng của mình như một tuyên ngôn bất hủ về tình yêu: “Đem lòng yêu cũng giống như xăm chữ lên mu bàn tay. Dù cố sức tẩy xóa thì về sau vẫn còn dấu tích mờ. Bởi vậy cậu phải chắc chắn rằng cậu thực sự muốn thế. Phải chắc chắn rằng cậu đã suy nghĩ kỹ càng”. Tình yêu còn được Jo lồng ghép vào những món ăn qua cách miêu tả gia vị cũng giàu hình tượng càm cảm xúc. Với cô, lá húng quế là biểu tượng của nỗi buồn, dù điều này có thể khiến các ẩm thực gia phản đối.  Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn 45 tuổi đổi giọng văn liên tục để tách biệt suy nghĩ của cô về tình yêu và cuộc sống. Tác giả đưa vào truyện một vụ tự tử - một cái chết buồn – chi tiết hay được Jo đưa vào truyện của mình. Cô xuất sắc lựa chọn câu chữ thể hiện rõ nét buồn và bất ổn trong tính cách nhân vật chính, qua việc cô đầu bếp xui xẻo thay đổi tâm trạng và nơi ở liên tục. Câu chuyện nhiều tình tiết kết nối, nút thắt, là kiệt tác viết về một tâm hồn trẻ tan vỡ, mất định hướng trước cuộc sống. Nhưng đôi khi người đọc lại cảm thấy không hài lòng về lối viết văn tự sự chắp nối nhiều câu chuyện của tác giả. Dù cho những ai yêu thích văn chương Hàn đều nhận ra đó là phong cách viết rất được ưa chuộng nhất trong thể loại văn viễn tưởng tại quốc gia này. Và còn một điều lạ lùng nhất khiến nhiều người đọc thắc mắc sau khi khép cuốn sách lại đó chính là các nhân vật trong Lưỡi ăn uống với tốc độ tia chớp – điều được Jo đưa vào tác phẩm để nhấn mạnh tới chủ đề nỗi ám ảnh. *** Jo Kyung Ran sinh năm 1969 tại Hàn Quốc, tốt nghiệp khoa Sáng tác Học viện Nghệ thuật Seoul, từng tham gia Chương trình Viết văn Quốc tế của Đại học Iowa. Từ khi ra mắt tác phẩm đầu tay vào năm 28 tuổi đến nay, cô đã giành được nhiều giải thưởng văn học, đáng kể nhất là Giải Văn học Dong-in, Giải Nghệ sĩ Trẻ Ngày nay của Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc… *** Đồng tử to, ánh đen và nâu nhạt. Đôi mắt này từng lấp lánh vì ý chí mạnh mẽ, từng lung linh vì khoái cảm mãnh liệt. Tôi không thể chịu đựng được chúng – đôi mắt đẫm lệ đang phản chiếu dưới đáy nồi đồng, đôi mắt mong chờ một điểu gì từ ai đó mặc dù biết rõ kết quả chỉ là thất vọng mà thôi. Đừng khóc nào, mình không thể khóc được. Tôi nhắm mắt, rồi lại mở ra. Giờ thì ổn rồi. Tôi lật nghiêng cái nồi và treo nó lên móc. Thật may, nước mắt không ứa ra. Tôi chuyển hướng đến cái giá xoay chất đầy dầu mỡ, chọn lấy một chai dầu ô liu nguyên chất và quay lại với chín học viên đã tụ tập ở đây từ bảy giờ tối, trong những trang phục nhăn nhúm lúc cuối ngày. Chúng tôi đang tập trung ở đây – Bếp Won – giữa lò nướng pizza bằng đá sứ, tủ lạnh, máy rửa bát đĩa, máy pha cà phê, máy xay, máy trộn, máy nghiền thực phẩm, nồi cơm điện, bếp ga. Trên tường, từ cao xuống thấp là nồi đồng và chảo thép không gỉ treo lẩn lượt theo cỡ: to-vừa-nhỏ. Ngoài ra còn ly cốc tách, quạt thông gió, máy nghiền-nén thức ăn thừa, vỉ điện, chạn, chụp hút khói, lò hâm nóng, bàn bếp, ghế đẩu, và một nồi nước sôi sùng sục. Bà tôi luôn kê một chiếc bàn lớn trong bếp. Cả nhà hay quây quần quanh chiếc bàn gỗ hình chữ nhật đơn giản và mộc mạc như bàn làm việc ấy đến tận khuya mới giải tán. Sau này chuyển lên thành phố ở, Bà vẫn giữ cái bàn, giữa bàn thường đặt giỏ tre đựng hoa quả hoặc rau. Cứ bày nguyên liệu nấu ăn trong tầm mắt như thế, Bà sẽ có hứng chế biến món mới mỗi lần đi ngang qua bàn. Thi thoảng trong giỏ lại xuất hiện khoai lang hoặc khoai tây luộc còn nóng, bốc hơi nghi ngút. Bà là đẩu bếp cừ nhất mà tôi từng biết, nhưng với những nguyên liệu như khoai lang, khoai tây hay bí ngô, Bà lại không làm gì cầu kỳ hơn là luộc hoặc nướng. Chỉ cần rải phô mai lên khi còn nóng hoặc thả vào nước xuýt là có ngay món xúp hay cháo đặc, nhưng Bà không làm thế. Bà nói những món này nên ăn theo cách chân chất, vì mình đang ăn tinh hoa của đất đai. Khi tôi nhận ra câu nói ấy tượng trưng cho đời Bà, cho cuộc sống giản dị và đẹp đẽ của Bà, thì Bà không còn ở bên chúng tôi nữa. Nắng sớm lăn tăn trên những bông hoa lê và hoa táo bên ngoài, chảy vào bếp qua ô cửa trổ hướng Đông, Bà che mắt cho khỏi chói và xì xụp món xúp cải dại. Bíp. Âm báo hẹn giờ lò nướng. Tôi rải khoai tây phơi khô, nấm xắt lát dày, lá húng quế và phô mai mozzarella lên khay bột nhào, xong rưới hai thìa dầu ô liu và đút cả vào lò đã bật nóng. Nướng mười lăm phút để phô mai chảy ra và vỏ bột sém màu bắt mắt, thế là có món chính cho buổi hôm nay, pizza-khoai-tây-khô-và-nấm. Hôm nay tôi không nghĩ mình có thể làm mấy món ân vặt để chia cho các học viên hoặc chuyện phiếm về thời tiết trong lúc đợi bánh chín như mọi ngày. Thay vào đó, tôi hướng dẫn họ cách làm khoai tây khô bằng lò sấy ở nhà. Khoai tây phơi khô tự nhiên có hương vị đậm đà hơn khoai tây tươi, nhưng lại là nguyên liệu chuyên dụng đắt đỏ. Vẫn còn mười phút. Tôi thò tay vào cái giỏ trước mặt và nhặt lấy thứ chạm đến đầu tiên. Một quả táo. – Đa dạng và ngẫu hứng, là hai điều tối quan trọng cẩn ghi nhớ trong khi nấu nướng. Mọi người đổ dồn mắt vào quả táo tôi đang giơ ngang tầm mắt. Theo giới tăng lữ thời Trung cổ, loại quả này chứa đựng tâm ý của đấng Sáng tạo. Táo có hương vị của tự nhiên, của huyền bí, của hình dáng những đám mây và của tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào. Họ tin rằng vị ngọt đó là một sự cám dỗ, khiến con người chểnh mảng với lời răn dạy của Thượng đế. Rồi khi vị ngọt qua đi, thì nơi đầu lưỡi còn lại toàn chua với gắt. Các tăng lữ cho rằng đó là hương vị của độc dược, của quỷ dữ. Vị ngọt, giôn giốt, chua gắt của táo chính là hương vị làm Eva lạc lối. – Nếu khống thích nấm, các bạn có thể thay bằng táo. Xắt nó thành những lát mỏng cỡ năm mi-li-mét và nếm trải một sự khác biệt. Khác hắn với vị dìu dịu của nấm, táo hơi ngọt, nhưng độ giòn của nó sẽ khiến bạn thấy mới mẻ. Giá tôi đang cẩm cà tím chứ không phải táo. Tôi chưa bao giờ làm pizza mà lại dùng táo thay cho nấm. Dối trá! Điều tôi trông chờ ở anh hóa ra lại là sự dối trá ư? Vị thứ nhất của táo, lời dụ dỗ của con rắn, ngọt ngào như mật. Vị thứ hai, tư vị khi bị trục xuất khỏi vườn Địa đàng, thì chua. Khác với trái cây thông thường, táo chín sẽ giòn lên chứ không mềm đi. Tôi rút con dao nhỏ gọt hoa quả từ giá dao mười hai chiếc. Thay vì bổ quả táo làm đôi, tôi bập chéo dao theo hình chữ V, khoét một miếng và thảy nó vào miệng.  Ngày trước, trong căn bếp đầu tiên của mình, tôi đã có đủ mọi thứ, giống như Bà. Nắng, chậu cây, đồng hồ, báo, thư, hoa quả, rau, sữa, phô mai, bánh mì, bơ, các hũ thủy tinh lớn đựng rượu trái cây, các hũ nhỏ hơn đựng gia vị, mùi cơm đẩm ấm và hương thảo ngan ngát. Có cả anh bên tôi. Để mở trường nấu ăn, chúng tôi bắt đầu tìm một nơi khác có chỗ cho căn bếp rộng hơn. Với các cửa sổ lớn, như yêu cầu của tôi. Tôi không ngó ngàng tới dạng tầng hầm dù chúng thường rộng rãi và giá thuê rẻ như cho. Ý thích về cửa sổ có lẽ bắt nguồn từ những ký ức vể căn bếp của Bà. Tôi cho rẳng mọi thứ vào nhà qua đường bếp, vì thế chúng tôi cần những khung cửa cao đảm bảo được nguồn sáng tốt. Đi du lịch tôi cũng chỉ đến những quán hàng quay mặt ra phố. Chính anh đã tìm được ngôi nhà hai tầng nhiều cửa sổ này. Tôi vô cùng phấn khích, trước cả khi cải tạo xong căn bếp để làm cho nó rộng hơn. ... Mời các bạn đón đọc Lưỡi của tác giả Jo Kyung-ran.
Lâu Đài
Frank Kafka (3/7/1883 – 3/6/1924), sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu ở Prague, Bohemia (nay thuộc cộng hòa Czech), viết bằng tiếng Đức. Tác phẩm của ông, nhiều tác phẩm chưa hoàn thành và phần lớn xuất bản sau khi ông mất – đã trở thành những thành tựu lớn, có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây. Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927) và nhiều truyện ngắn. *** Tiểu thuyết kể về một người làm đạc điền đến lâu đài của bá tước West West để tìm việc là K., anh được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như Barnabás , Olga, Frida, nhưng K. cũng không sao gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. * K. đành phải chờ và sống mòn mỏi , kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo, anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao trực tiếp gặp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Tiểu thuyết "Lâu đài" là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người. Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường. Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, "Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại". Tiếng chuông nghe ma quái "Đổ từng hồi trầm ấm vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn". Sau đó là những tiếng chuông yếu ớt vang lên "lay lắt". Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng thôn đã nói trắng ra: "Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng thật". K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận, không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó. *** Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ đường quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không. Sau đó chàng đi tìm nơi nghỉ. Trong quán trọ người ta vẫn còn thức. Không có phòng cho thuê, nhưng ông khách đến muộn này đã làm cho người chủ quán bị bất ngờ và bối rối, anh ta đề nghị K. ngủ trên đệm rơm trong quầy uống. K. đã đồng ý. Một vài người nông dân vẫn còn ngồi lom khom bên cốc bia, nhưng chàng không muốn bắt chuyện với ai cả. Chàng mang đệm rơm xuống nằm cạnh lò sưởi. Quán trọ ấm áp, những người nông dân ngồi im lặng. K. quan sát họ một lúc bằng đôi mắt mệt mỏi rồi chàng ngủ thiếp đi. Nhưng chẳng mấy chốc người ta đã đánh thức chàng dậy. Một gã trẻ tuổi mặc quần áo như người thành phố, có khuôn mặt nghệ sĩ, - mắt ti hí, lông mày rậm, - đang đứng bên chàng cùng với chủ quán. Những người nông dân vẫn chưa về, một số quay ghế lại để nhìn và nghe cho rõ hơn. Gã trẻ tuổi xin lỗi K. một cách lịch sự vì đã đánh thức chàng dậy rồi tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành. Gã nói: - Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sông hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài. phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem. K. chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi: - Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à? - Có chớ! - gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. - Lâu đài của bá tước West West. - Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? - K. hỏi như thể muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ. - Phải có giấy phép. - có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: - Hay là không cần giấy phép nhỉ? - Vậy thì tôi đi xin phép. - K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy. ... Mời các bạn đón đọc Lâu Đài của tác giả Franz Kafka & Trương Đăng Dung (dịch).
Hiệu Hạnh Phúc Các Bà - Emile Zola
Tác giả được xem như sáng lập và nhà lý luận của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Pháp, nhưng ông đã trờ thành nhà văn lớn chính lại nhờ ông đã vượt lên trên những nguyên lý của chủ nghĩa tự nhiên để tiến gần đến chủ nghĩa hiện thực. Với một số điểm cách tân so với chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển của Banzắc và Xtăngđan và mở ra thời kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Thường được biết đến với tên Émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp trong thế kỉ 19, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism). Bên cạnh những tiểu thuyết nổi tiếng, Zola còn được biết tới như là một trong những nhân vật quan trọng dẫn tới việc xét xử lại Vụ Dreyfus. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. “Hiệu Hạnh phúc các bà" không trở thành cái gì nặng nề quá quắt như ở một số tác phẩm khác của Émile Zola, nó là nền tảng cho hai cuộc đấu tranh gay gắt và căng thẳng - Cuộc đấu tranh giữa buôn bán nhỏ và buôn bán lớn; cuộc đấu tranh nội bộ giữa các nhân viên bán hàng thể hiện cái học thuyết đấu tranh sinh tồn của của Charles Darwin. *** Denise cùng hai em trai xuống tàu Cherbourg ở ga Saint Lazare, đi bộ sau một đêm ngồi ghế cứng trên một toa xe hạng ba. Nàng dắt tay Pépé, Jean đi theo sau, cả ba mỏi nhừ vì chuyến đi, kinh hoàng và lạc lõng giữa Paris mênh mông, hếch mũi lên như các nhà, ở mỗi ngã tư lại hỏi thăm về phố La Michodière, nơi có nhà ông chú Baudu. Nhưng cuối cùng, khi tới quảng trường Gaillon, cô gái đột ngột dừng lại ngỡ ngàng. - Ôi! - Cô nói - Jean ơi, trông kìa! Và họ đứng sững, siết chặt lấy nhau cả ba đều mặc đồ đen đã cũ vì sắp mãn tang bố. Cô gái, mảnh khảnh với tuổi hai mươi, vẻ con nhà nghèo, tay xách một gói nhẹ; còn phía bên kia thì đứa em nhỏ lên năm, níu lấy tay, sau lưng là thằng anh lớn, mười sáu tuổi, vênh vênh, phơi phới, đứng thõng hai tay. - Chà, tuyệt, - Sau một phút im lặng cô nói - một cửa hàng như thế chứ! Đó là, ở góc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, một cửa hiệu tân phẩm, hàng bày nổi bật lên những màu rực rỡ trong ánh ngày tháng mười dịu nhạt. Chuông nhà thờ Saint Roch điểm tám giờ, trên bờ hè chỉ có dân Paris dậy sớm, những nhân viên tới sở và những bà nội trợ chạy các cửa hàng. Trước cửa hiệu, hai viên thư ký bán hàng len trên một chiếc thang đôi, sắp treo xong những hàng len, còn trong một tủ kính phố Neuve Saint Augustin thì một viên thư ký khác, ngồi xổm và quay lưng đang thận trọng xếp nếp một tấm lụa xanh da trời. Trong cửa hiệu còn vắng khách mà nhân viên, thì mới đến lác đác, râm ran như một tổ ong thức dậy. - Ui chao! - Jean nói - Nó đánh bạt Valognes... Hiệu của chị chẳng đẹp đến thế. Denise lắc đầu. Cô đã hai năm làm việc ở đó, nhà Comai, tay bán tân phẩm số một thành phố; thế mà cửa hiệu này, cô bắt gặp đột ngột, nó thật là đổ sộ đối với cô, khiến cô hào hứng, xúc động, chăm chú, quên hết mọi sự. Trên vạt tường cách ngang nhìn ra quảng trường Gaillon, chiếc cửa ra vào, toàn bằng gương, cao tới tầng một, giữa những trang trí phức tạp, mạ vàng khắp lượt. Hai nhân vật biểu tượng, hai người đàn bà tươi cười, hở vú và ưỡn ra, trương lên tấm biển: Hiệu hạnh phúc các bà. Rồi những tủ kính chạy dài, suốt dọc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, ngoài ngôi nhà ở góc, chúng choán bốn ngôi nhà khác, hai bên phải, hai bên trái, gần đây mới mua và được tu sửa. Cả một cuộc triển khai dường như vô tận, mất hút theo đường viễn thị, với những hàng bầy ở tầng dưới và những tấm gương không tráng ở tầng trên, qua đó người ta nhìn thấy cả cuộc sống bên trong của các quầy hàng. Ở phía trên, một cô gái, mặc đồ lụa, gọt một chiếc bút chì trong khi hai cô khác, gần đấy, mở ra những chiếc măng-tô nhung. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Hạnh Phúc Các Bà của tác giả Emile Zola.
Đợi Chờ Ký Ức... - Born
Born –tác giả của "Sẽ để em yêu anh lần nữa" đã trở lại cùng cuốn tiểu thuyết mới nhất mang tên "Đợi chờ ký ức". Là tác giả từng gây nên cơn sốt trong văn học mạng, Born tiếp tục tung ra cuốn tiểu thuyết tiếp theo cũng gây nên làn sóng chấn động không kém với độc giả trẻ Việt Nam. Tiểu thuyết Đợi chờ ký ức lần này tiếp tục khai thác đề tài tình yêu, tuy nhiên là một câu chuyện éo le, đẹp nhưng cũng mang một nỗi buồn phảng phất. "Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó quên lãng nhất chính là ký ức. Dù là ký ức hạnh phúc hay đau thương, nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa, rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt, rơi vào miệng, anh mới hay, thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau…" Với mạch cảm xúc ấy, câu chuyện là một nỗi đau rất thật, nỗi đau khi tình yêu bị lãng quên, và người còn lại trở thành những ký ức mơ hồ. Viết bằng con mắt thấu hiểu tâm lý người trẻ, Born đã thổi vào cả câu chuyện một nỗi buồn kỳ dị. Tình yêu giữa hai con người vốn lung linh đầy màu sắc, bỗng chốc trở thành những cơn gió mong manh chỉ vụt mất tan. Nhưng cũng vì thế, người đọc mới có thể thấy được sự kỳ diệu của tình yêu, sự mạnh mẽ của trái tim khi yêu và những điều không ai có thể ngờ tới mà nó mang lại. *** Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó bị quên lãng nhất chính là ký ức. Dù ký ức hạnh phúc hay là những ký ức đau thương nhất. Nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa. Rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt rơi vào miệng, anh mới hay thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau. ------------------------------------------------------ Nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời Anh bỗng thấy tim mình đau nhói Bởi vì anh nhớ em Nhớ người đã làm lòng anh tan nát Nhưng sao anh vẫn yêu em Người con gái đã từng làm anh hạnh phúc Đã tạo cho anh sự ấm áp. Nhưng rồi em lại nhẫn tâm đem nó đi. Yêu em, nhớ em, muốn gặp em Nhưng anh lại sợ mình không chịu nổi đau đớn này. Đành chôn chặt em vào trong trái tim Anh chưa từng quên phút giây bên em Giọng nói, ánh mắt, nụ cười của em Anh chưa bao giờ quên Bây giờ em đã lựa chọn bên người khác Anh chỉ có thể một mình gặm nhắm nỗi đau này. Chỉ muốn hét lên với em rằng. Anh yêu em, mãi mãi yêu em. Anh sẽ chờ em Chờ em quay về bên anh. Trong quán bar, nữ ca sĩ có chất giọng trầm buồn, cất lên những điệu nhạc sâu lắng khiến cho tất cả mọi người trong quán bar đều im lặng thưởng thức. Một vài cô gái mẫn cảm đã bật khóc sau khi nghe bài hát. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ Ký Ức... của tác giả Born.