Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Lời Nói Dối

Họ tiến lại gần căn nhà cho đến khi đến đường giao giữa rừng cây và bãi cỏ. Âm thanh ban đêm bao bọc lấy họ: tiếng ếch ộp oạp, tiếng cá quẫy mình trong nước, tiếng muỗi vo ve bên tai và tiếng diều hâu từ xa kèm theo tiếng rít sợ hãi của một chú chuột. Kẻ đi săn hay kẻ bị săn. Đêm nay, họ là ai? Một loạt vụ án mạng, bắt cóc liên tiếp xảy ra ở thị trấn sau khi Jane Hardy được kế nhiệm vị trí cảnh sát trưởng của cha mình ở Cảng Pelican, Alabama. Sau khi cha bị buộc tội trộm cắp và có dính líu đến một vụ án mạng, Jane phải đối mặt với sự giám sát của công chúng trong khi cố gắng làm rõ sự trong sạch cho cha mình và chứng minh rằng phụ nữ có thể làm tốt trong những công việc thường mặc định dành cho nam giới". Liệu có phải kẻ đến từ quá khứ khủng khiếp đang cố gắng phá hủy gia đình duy nhất mà cô có - sau khi cha đưa cô trốn thoát khỏi hội cuồng giáo mười lăm năm trước? Dối trá, bí mật, giết người, cảnh giác, báo thù và xen lẫn lãng mạn, tất cả tạo nên tác phẩm MỘT LỜI NÓI DỐI hồi hộp nguyên bản và hấp dẫn. *Những đánh giá về truyện: _ “Colleen Coble lại một lần nữa khẳng định mình đang đạt đến phong độ đỉnh cao với dòng văn học kịch tính lãng mạn Ki-tô giáo. Tác phẩm gồm những nhân vật sẽ khiến bạn yêu thích, nghi ngờ rồi lại tin tưởng và những khung cảnh sẽ khiến bạn phải nín thở. Câu chuyện của Jane Hardy là hành trình khám phá mạng nhện phức tạp và rối rắm được dệt nên bằng một lời nói dối nhỏ bé.” Lisa Wingate, tác giả bán chạy nhất New Yorks Times với cuốn Before We Were Yours, nhận xét về Một lời nói dối _ “Colleen Coble luôn đưa dòng văn học hồi hộp lãng mạn lên một tầm cao mới. Tôi rất thích Một lời nói dối! Cuốn sách đã đưa tôi vào một chuyến hành trình hoang dại và tuyệt vời.”_ DiAnn Mills, tác giả bán chạy nhất _ “Một lời nói dối, cuốn sách mới nhất của Coble, là một tác phẩm giàu sức nặ Đây chắc chắn là một trong số những cuốn sách hay nhất của cô ấy. Tôi đã thức tới khuya để đọc xong cuốn sách này, vì không tài nào ngủ nổi nếu không được biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một cuốn sách mà bạn nhất định phải đọc! Rất đáng khen!”_ Robin Caroll, tác giả bán chạy nhất với tiểu thuyết Xaga Darkwater Inn _ “Tôi đã luôn mong ngóng tác phẩm mới của Colleen Coble. Một lời nói dối là một hiện tượng mới. Tôi không biết cô ấy đã làm thế nào nhưng tài năng của cô ấy đang tỏa sáng. Chắc chắn bạn sẽ dành nhiều thời gian để đọc vì bạn sẽ không nỡ đặt sách xuống. Tôi đã ngấu nghiến cuốn sách này! Cảm ơn Colleen vì những giờ giải trí đỉnh cao. Tôi sẽ đón đọc tác phẩm tiếp theo!”_ Lynette Eason, tác giả đạt giải thưởng và bán chạy nhất với bộ sách Blue Justice _ “Ngay từ khi Colleen nhắc đến ý tưởng về Một lời nói dối, tôi đã rất muốn đọc. Cô ấy là một tác giả tuyệt vời và rất giỏi chơi đùa với câu chuyện hồi hộp trên từng trang sách. Tôi cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của cô ấy, một lời khen rất đáng kể đấy!” _ Carrie Stuart Parks, tác giả Fragments of Fear _ “Trong Một lời nói dối, hậu quả của một lời nói dối len lỏi khắp thị trấn Cảng Pelican, tạo nên một mớ hỗn loạn và căng thẳng. Ai sẽ là người thoát ra được khỏi những nghi vấn? Một lời nói dối là tác phẩm mới nhất của Colleen Coble. Câu chuyện diễn ra ở vùng vịnh biển Alabama, với Jane Hardy là cảnh sát trưởng mới nhận chức, đang nỗ lực vì cha mình. Reid Dixon bám theo Jane để quay phim tài liệu, nhưng anh ta cũng có bí mật của riêng mình. Họ cùng nhau đối mặt với những bí mật của bản thân và liệu rằng bí mật có trở thành lời nói dối? Có lẽ nào đã quá muộn để được tha thứ?” _Cara Putman, tác giả bán chạy nhất và đạt giải thưởng *Về tác giả: Colleen Coble là tác giả bán chạy nhất USA TODAY và lọt vào vòng chung kết của RITA được biết đến nhiều nhất với các tiểu thuyết hồi hộp lãng mạn ven biển, bao gồm The Inn at Ocean’s Edge, Twilight at Blueberry Barrens, và loạt Lavender Tides, Sunset Cove, Hope Beach, và Rock Harbour.    *** Tác giả: Colleen Coble Dịch giả: Nguyễn Hải An Thể loại: Trinh thám, lãng mạn. Đánh giá cá nhân: 6.5/10 “Một nửa sự thật, không phải là sự thật” Một lời nói dối – Gánh nặng trên đôi vai của Jane – Nữ cảnh sát trưởng 30 tuổi, vừa mới nhận chức. Một gánh nặng được đặt lên cô dù cho cô gần chẳng có bất cứ một trách nhiệm gì, thậm chí là người “bị hại” – ngoài việc đón nhận những lời nói dối từ tất cả mọi người xung quanh – những người cô yêu quý hay quan trọng với cô trong cuộc đời. Lời nói dối, là then chốt, là móc xích, là toàn bộ những gì được diễn ra – dù theo hướng tích cực, hay tiêu cực đi chăng nữa. “Chúng ta nhận ra rằng. mình thường xuyên hay dối trá bằng một nửa sự thật. Vì ta không muốn làm tổn thương người khác, nhưng lại ghét sự dối trá”. Một lời nói dối – Là một tác phẩm có hơi hướng trinh thám lãng mạn. Tuy nhiên, mọi thứ không đủ sâu. Truyện có một phần dựng nên bối cảnh và nền truyện khá lâu để có thể đạt đến cao trào, cũng như nhiều chi tiết (gợi ý) được nêu ra một cách hơi phô trương, nhưng lại không có ấn tượng quá nhiều khi móc xích được gỡ bỏ. Một số nhân vật và bối cảnh, vẫn biết là đưa vào để đẩy cảm xúc của nhân vật lên, nhưng hình như chưa tới. Khi đọc tác phẩm, lúc mình cảm thấy hưng phấn và cuốn hút nhất, lại không nằm ở phút giây giải quyết mọi thứ (khi người tốt và người xấu đối mặt, giải quyết xung đột, hay cái kết cuối cùng sau khi mọi thứ kết thúc đều không mấy ấn tượng) mà là trước đó 1 đoạn. Cảm giác, mọi thứ chỉ hay khi ở 2/3 của con dốc, thì mọi thứ bị hụt hơi và không còn hay nữa. Cái kết cuối cùng, cũng không làm hài lòng, dù khi đó, sự thật được phơi bày, dù khi đó, ý nghĩa của những lời nói dối đã được gỡ bỏ. Hơi tiếc cho tác phẩm, hoặc là hơi tiếc cho cảm nhận của mình khi đọc hết tác phẩm. Nhưng, nếu 2 tập tiếp theo của Seri được xuất bản, có lẽ vẫn sẽ mua, vì văn phong của tác giả, mình khá thích. Sách được mua Online thông qua Tiki. Review ngày: 02/03/2021 Nguyễn Huy Hoàng *** Ôi trời chắc đây là lần đầu đọc sách trinh thám mà mình đoán đúng hết vụ án luôn. Vừa shock vừa ngạc nhiên vừa buồn cười vì tác giả thật sự không nỗ lực một chút nào trong việc che giấu hung thủ hết, bà ấy chỉ nỗ lực để che giấu cuộc sống riêng tư của nữ chính thôi. Thật sự cuốn sách này nếu xếp vào trinh thám thì 2 sao, vì quá dễ đoán, không có bug gì, mấy đoạn suy luận và hành động cũng bình thường lắm, nên đọc thấy chán. Nhưng xét về phương diện kiểu tôn giáo và lãng mạn thì cuốn này làm rất ổn đó chứ. Mình thích cả 3 nhân vật Jane, Reid, và Will, quá dễ thương và lành mạnh đi. Hứa hẹn phần sau của series này sẽ rất push and pull trong truyện tình yêu tình báo đây. Mình sẽ đọc tiếp cuốn 2 của series, mình thích cô Jane này. *** Tháng Năm... Nút Áo quan sát lối ra của trại và buộc mình lê bước theo sau cha mẹ, mặc cho cơn đau đang ngày càng nhói lên trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và nối gót vào hội trường của hội thánh Núi Sinai*. Khu đất của hội nằm lọt giữa những cánh rừng bang, gió thổi qua cánh cửa mang theo hương thơm của gỗ thông. Khối kiến trúc bằng gỗ trắng này từng là một nhà thờ của giáo hội Giám Lý và giờ vẫn che khuất những ô cửa kính màu ghép hướng về phía đường. Bên trong nhà thờ có khoảng bốn mươi người. Nút Áo lỉnh đến một băng ghế gần cửa sổ, còn cha mẹ cô thì tiến đến vị trí của họ ở hàng phía trên. Từ bé đến giờ cô chỉ biết đến cộng đồng nhỏ này, nhưng khi cơn đau ở lưng lớn dần và quấn quanh cái bụng khổng lồ, tất cả những gì cô mong ước bây giờ là có thể thuyết phục cha cho mình đến bệnh viện. Đôi mắt cha cô lộ rõ vẻ do dự, nhưng sau khi thấy mẹ cô lập tức từ chối lời van xin thì ánh mắt ông đanh lại và ông lắc đầu. Trưởng nhóm chưa bao giờ cho phép bất cứ ai rời đi, ít nhất không phải vì một việc tầm thường như sinh đẻ. Nhưng cô sợ. Cơn đau khiến cô run rẩy với những bất trắc mà mình có lẽ sẽ phải đối mặt. Người bạn thân nhất của cô đã qua đời trong khi sinh nở vào cuối mùa thu năm ngoái. Điều gì sẽ xảy ra nếu Nút Áo cũng qua đời và ai sẽ là người nuôi con thay cô đây? Cô muốn tự mình ôm lấy con. Cô đã dành vô số đêm băn khoăn về những gì có thể làm để trốn thoát cùng với đứa con của mình. Nhưng kể cả khi tìm được cách trốn ra khỏi cánh cổng trại, cô sẽ đi đâu đây? Làm thế nào cô có thể tự chăm sóc cho bản thân và đứa bé? Đó dường như là điều không thể. Moses* Bechtol xoa hai tay vào nhau khi đến gần bục giảng. Mọi người im lặng khi trưởng nhóm bắt đầu bài giảng của mình, một cơn sấm chớp rền vang rung chuyển những ô cửa sổ. Nút Áo co rúm người lại và nhắm mắt. Người đàn ông đó không có dáng vẻ thần thánh như anh ta nghĩ, còn Nút Áo thì ngày càng chán nghe những gì anh ta nói. Chẳng lẽ cô là người duy nhất nhìn thấu vẻ ngoài giả dối của anh ta? Đã đôi lần cô cố nói chuyện với mẹ. Nhưng bà yêu quý gã đàn ông đó. Có lẽ còn hơn cả tình cảm mà bà dành cho người chồng của mình. Nút Áo tỉnh ra từ sáu tháng trước, sau khi chiêu mộ được hai cô gái ở thị trấn gần đó. Hai người này đã mang theo vài cuốn sách, và cô đã hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cuốn Nhật Ký Công Chúa. Cuốn sách mở ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cô đang sống. Sự lơ đãng của Nút Áo bị cắt ngang bởi cơn đau đang lớn dần trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và lau mồ hôi túa ra trên trán. Những bức tường dường như đang đổ sụp về phía cô, bụng cô sôi réo. Cô phải ra khỏi đây. Cô muốn mẹ ở bên, nhưng lại không dám thu hút sự chú ý của mẹ. Cô lẻn ra cánh cửa sau cũ kỹ và hòa mình vào bầu không khí mát lạnh của Michigan. Những chiếc lá khô còn sót lại của mùa thu năm ngoái lướt nhanh qua tàn tích của trận bão tuyết mùa xuân. Hơi lạnh trên gò má giải thoát cô khỏi sức nóng đang sôi sục trên da thịt. Nút Áo cúi mình xuống, lảo đảo đi về phía căn nhà gỗ được chỉ định. Có khoảng hai mươi căn nhà gỗ và lều nằm lộn xộn xung quanh nhà thờ, căn của cô nằm ở phía tây. Cơn đau bóp nghẹt lưng cô giảm đi đôi chút, Nút Áo càng trở nên vội vã hơn. Cô dò dẫm tìm tay nắm cửa, và gần như ngã vào trong khi một cơn đau khác ập đến. Chất lỏng đọng lại dưới chân cô. Cô đang chết ư? Cô thở hổn hển khi cơn đau lan dần từ lưng xuống bụng. Hôm nay đứa bé sẽ chào đời. Cô mò đường đến chiếc cũi cứng trong phòng ngủ và ngã vào đó. Cô mất nhận thức về thời gian khi đau đớn dồn từng cơn. Có lẽ là hàng tiếng sau đó, cô mới cảm nhận được một bàn tay rắn chắc đặt lên trán và nhìn thấy gương mặt của mẹ mình. “Đứa bé,” Nút Áo thì thào qua đôi môi khô khốc. “Đúng thế, gần chào đời rồi.” Mẹ cô nhúng khăn vào thau nước và lau trán cho cô. “Con đang làm tốt lắm, con yêu. Mẹ đã báo cho Moses rồi.” Cô không muốn cha đứa trẻ đến đây chút nào. Cô thậm chí còn chưa từng nhìn rõ mặt anh ta. Cha mẹ đã hứa hôn cô cho người đó khi cô mới mười hai tuổi. Một năm trước, khi cô mười bốn, Moses đã buộc tay họ vào nhau. Anh ta đến với cô hai lần trước khi cô cảm thấy bản thân mình ngày càng nặng nề, và thời điểm này anh ta sẽ không còn cảm thấy thoải mái chút nào. Cô bám lấy tay mẹ. “Mẹ ơi, con đau quá! Con sợ. Con muốn đến bệnh viện.” “Mẹ biết là đau, con yêu.” Mẹ dỗ dành cô bằng bàn tay điềm tĩnh đặt lên trán. “Hít thở đều là cơn đau sẽ qua. Mẹ sẽ đỡ đẻ ngay cho con.” Thế giới xung quanh cô thu hẹp lại chỉ còn gian phòng nhỏ này, còn cơn đau thì xóa nhòa mọi thứ. Sau khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tiếng khóc mỏng manh báo hiệu sự ra đời của một sinh linh cất lên. Nút Áo chẳng còn đủ sức để hỏi giới tính của đứa bé được nữa. “Một bé trai!” Mẹ Nút Áo đặt đứa bé lên ngực cô. “Khá bụ bẫm. Nghe tiếng khóc mà xem. Thằng bé đòi ăn đấy.” Nút Áo đã chứng kiến thủ tục này rất nhiều lần trong suốt những năm ở cùng cộng đồng, nhưng mẹ phải giúp thì cô mới giữ chắc con được. Cô đưa tay vuốt mái tóc đen của con. “Thằng bé kháu khỉnh quá!” Đứa trẻ có nước da đỏ hồng. Cô đưa tay lướt dọc theo cánh tay thằng bé. Mềm mại quá! Tình yêu ngập tràn và mãnh liệt dành cho con trai khiến chính cô cũng phải kinh ngạc. Cô nhắm mắt lại, hít vào mùi hương của con trong khi mẹ cô chụp vài tấm bằng máy ảnh lấy ngay. Sẽ phải có cách nào đó để thằng bé được hưởng nhiều hơn những gì cô có trong cộng đồng này. Nút Áo không để ý rằng mẹ mình đã để đứa bé vào một chiếc hộp nhỏ được chuẩn bị sẵn và cô cứ thế chìm vào giấc ngủ. Bị tiếng ồn bên ngoài đánh thức, cô bật dậy. “Mẹ ơi?” Không ai trả lời. Cô ngửi thấy mùi khói và nghe thấy những tiếng hét bên ngoài căn nhà gỗ. Có nhiều tiếng ồn hơn trước. Tiếng súng ư? Chẳng lẽ họ bị tấn công? Moses từng cảnh báo chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cô lăn khỏi giường và lao tới để bế đứa bé ra khỏi hộp, nhưng thằng bé không có ở đó. Có lẽ mẹ đã đưa con cô đi tắm, hoặc tới chỗ cha và Moses. Cô mệt lả vì thử thách ban nãy, giờ lảo đảo bước ra khỏi phòng ngủ để đi đến phòng khách. Làn khói len lỏi qua khe gỗ và ngọn lửa liếm lấy khung cửa. “Mẹ ơi?” Con của cô đâu rồi? Cô điên cuồng nhìn khắp căn nhà nhỏ, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng con trai hay mẹ mình. Khói đã đốt cháy cổ họng và đang len dần xuống phổi. Cô ho sù sụ, tránh xa khỏi ngọn lửa bùng lên nơi vách tưởng trước của căn nhà và lê bước ra cửa sổ. Cô phải ra khỏi đây. Tấm kính cửa sổ vỡ tan sau lưng cô, ngọn lửa bùng lên nhờ luồng không khí mát lành tràn đến. “Nút Áo!” Cô quay về hướng phát ra giọng nói của cha. Ông đã đập vỡ cửa sổ và đang đưa tay ra. “Nhanh lên, không có nhiều thời gian đâu.” Cô lao đến, cha đỡ cô trèo ra ngoài hít thở không khí trong lành. “Con của con. Mẹ và con của con đâu?” “Đi theo cha.” Cha dùng tay nhấc cô lên và bế cô đi qua làn khói dày. Lửa bùng lên từ những căn nhà xung quanh, mùi khói cay sè khiến cô bật ho. Những tiếng la hét và tiếng súng vang lên khắp nơi. Một viên đạn rít qua đầu cô, khiến cô sợ hãi vùi mặt vào ngực cha. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cha cô đi tới bên chiếc xe Jeep cũ màu xanh lá đã móp méo với gần ba mươi năm tuổi đời. Ông đặt cô xuống cạnh cửa bên và mở nó ra. “Vào trong đi.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Không! Con phải tìm con con. Và cả mẹ nữa!” “Mẹ con không chịu đi. Bà ấy ở lại với Moses.” Đôi mắt của Nút Áo mở to đây kinh hoàng. “Mẹ đưa con của con đi ư? Mẹ không thể giữ nó ở đây được. Nó là con của con!” Cha nhìn xuống đất. “Con yêu, đứa bé chết rồi. Chúng ta phải rời khỏi đây, nếu không tất cả sẽ phải ngồi tù. Con phải vào xe ngay.” Giọng cha mềm mỏng. Chết? Đứa con nhỏ bé hoàn hảo của cô đã chết rồi ư? “Con không tin,” cô thì thào. Cha nhìn thẳng vào mắt cô. “Chính mắt cha đã thấy đứa bé. Thằng bé tím tái và lạnh ngắt. Mẹ con đưa cha bức ảnh này để con có thể nhớ về thằng bé.” Cha dúi một tấm ảnh chụp lấy ngay vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe. Cô gần như bất tỉnh khi ngã vào trong chiếc Jeep, được cha mình lái xe đưa qua hỏa ngục để tìm về chốn an toàn. Mời các bạn mượn đọc sách Một Lời Nói Dối của tác giả Colleen Coble & Nguyễn Hải An (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.
Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.
Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Chiếc Khuy Đồng - Lev Ovalov
Cuốn tiểu thuyết tình báo "Chiếc khuy đồng" của Ô-va-lốp viết dựa trên một câu chuyện có thật, xảy ra tại thành phố Ri-ga, nước Cộng hòa Lét-tô-ni (Liên-xô) tạm thời bị quân phát xít Đức chiếm đóng vào những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Câu chuyện lý thú phản ánh cuộc đấu tranh gay go, mạo hiểm, quyết liệt giữa cơ quan tình báo Liên xô và bọn gián điệp của các nước đế quốc; nêu lên những mâu thuẫn, xung đột tất yếu không thể tránh khỏi trong nội bộ bọn gián điệp đế quốc, phản ánh sự cấu xé vì quyền lợi và tham vọng giữa các nước đế quốc, dù lúc bấy giờ với danh nghĩa là đồng minh của Liên xô chống phát xít Hít-le. Hiện nay, bọn phản động bành trướng bá quyền Bắc Kinh đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ, tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. "Chiếc khuy đồng" ra mắt lần này chắc chắn sẽ góp phần giúp bạn đọc nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, bồi dưỡng và củng cố thêm ý chí bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. *** Lời Tác giả: Tính đến nay đã gần tròn 20 năm, tôi có viết về Prô-nin, một cán bộ của Cục An ninh Quốc gia, và là người bạn của tôi, một tập truyện nhan đề là NHỮNG VIỆC MẠO HIỂM CỦA THIẾU TÁ PRÔ-NIN. Xuất bản tập truyện ấy chẳng được bao lâu thì cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bùng nổ. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không liên lạc và cũng không hề gặp nhau. Trong quãng thời gian ấy, những sự kiện lớn lao đã bắt buộc một số người phải rút vào hoạt động bí mật.. . Rồi chiến tranh lại tan đi, công cuộc kiến thiết hòa bình trở lại trên khắp đất nước, người người lại sum họp và sau đó một thời gian mà tôi cho là dài lắm, cuộc sống lại trả hai chúng tôi về cảnh cũ. Đương nhiên tôi có hỏi về cái quá khứ của Prô-nin, tuy rằng anh không bao giờ thích để ai ca tụng mình. Anh đáp: "Tôi đã làm những gì thì chưa đến lúc phải kể lại, mà tôi cũng không có quyền nói hết những việc mình làm. Nhưng tôi có quyển nhật ký nhỏ của một đồng chí sỹ quan mà tôi có nhiệm vụ phải gặp gỡ trong những ngày đầu chiến tranh. Xin biếu anh đây. Đọc trong ấy tất anh sẽ biết được ít nhiều về tôi. Anh ta ghi quyển nhật ký này không phải để cho mọi người xem, nhưng nếu thấy thích, anh có thể phổ biến. Tất nhiên, những tên thật nên thay đổi đi ". Tôi đọc hết những dòng nhật ký đó và quyết định viết thành tiểu thuyết này. Lời lẽ quyển tiểu thuyết gần giống y như bản thảo nhật ký, tôi chỉ chữa lại một vài tình tiết ở đôi chỗ và thay đổi vài ba tên thật mà thôi. Tôi mở ngăn kéo bàn giấy lấy chiếc khuy đồng ra. Chiếc khuy đồng giản dị này là vật kỷ niệm duy nhất của tôi để ghi nhớ lại những sự việc lạ lùng nửa hư nửa thực mà tôi đã bị bắt buộc phải chứng kiến và tham dự vào... Cái vật bằng đồng nhỏ bé đó nằm gọn lỏn trên lòng bàn tay, gợi lại trong tâm trí tôi hình bóng ả đàn bà ấy, một hạng đàn bà kỳ dị hiếm có ở trên đời mà tôi đã quen biết trong những cảnh ngộ thật là éo le, khó hiểu. Đó là Xô-phi-a An-cốp-xcai-a. Nếu nói theo quan niệm thông thường của ta thì ả không phải là một trang tuyệt thế giai nhân: nét mặt không cân đối, thân hình chả lấy gì làm hoàn mỹ. Thế mà ả đã khiến cho nhiều kẻ mày râu phải "đổ quán xiêu đình" trước cái sóng khuynh thành của mình... Bạn thử hình dung ra một người đàn bà khá cao, tóc nâu sẫm, mặt hơi dài, trán dô gần như trán đàn ông với đôi mắt một mí màu gio mà trong cơn giận dữ thường biến sang màu xanh như mắt mèo và sắc như lưỡi dao cạo. Mũi hếch, cằm thon. Khác thường nhất là đôi môi đỏ chót, trề ra y hệt như môi trẻ con và có thể đột ngột mím chặt lại một cách dữ tợn, tái dần đến nỗi trắng nhợt ra. Hai vành tai quá rộng nói lên đặc khiếu thẩm âm của ả. Đôi má thỉnh thoảng mới ửng hồng, mái tóc mềm hơi uốn cong bên thái dương, hai cánh tay có vẻ quá mảnh khảnh nếu đem so với bộ đùi nở nang như đùi nhà thể thao chuyên nghiệp. Trong khi trò chuyện với ai ả chỉ nghe một bên tai, còn tai kia hình như đang mải lắng nghe một khúc nhạc hiu hắt từ cõi xa xăm nào vọng tới; nếu một mắt nhìn chòng chọc vào mặt người đối diện thì mắt kia hình như đang đăm chiêu soi vào khoảng không gian thăm thẳm. Và nếu tay phải ả dịu dàng vuốt ve anh thì tay trái có thể thình lình móc khẩu súng lục xinh xắn tối tân ở trong xắc ra để bắn chết anh trong nháy mắt. Phải chăng trong câu chuyện oái oăm này cũng phải có một nhân vật lạ đời như thế? Tôi là thiếu tá Ma-ca-rốp, sĩ quan tham mưu Liên Xô. Mấy tháng trước khi xảy ra chiến tranh, tôi được phái đến Ri-ga, một thành phố lớn và cổ kính nằm giữa hai miền Đông và Tây Âu... Nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch bố trí quân lực ở miền Tây Bắc để ngăn chặn một cuộc tiến công bất ngờ của quân địch khi chiến tranh bùng nổ. Công tác đó có tính chất hết sức bí mật. Lúc bấy giờ Ri-ga là một thành phố đông đúc và phức tạp. Những dãy nhà nguy nga tráng lệ ngất nghểu bên những phố xá tồi tàn đổ nát. Trước mắt chúng tôi đầy rẫy những nghịch cảnh giàu nghèo, sang hèn, vừa khêu gợi trí tò mò mà lại vừa kỳ lạ. Ri-ga là thủ đô của nước Cộng hòa xô-viết Lét-tô-ni vừa thành lập được ít lâu. Tôi sống khá kín đáo trong căn buồng riêng tại nhà đồng chí công nhân xưởng cơ khí tên là Xe-plít. Đồng chí là một đảng viên cộng sản lâu năm đã được tôi luyện trong thời kỳ hoạt động bí mật. Nhờ có chìa khóa riêng để ra vào cửa lớn nên tôi ít làm phiền đến chủ nhà. Tôi còn nhớ rõ đêm ấy vào khoảng cuối tháng sáu, sau khi báo cáo tình hình công việc hàng ngày với thủ trưởng, tôi bước ra khỏi tòa nhà đồ sộ sáng trưng ánh điện, đi qua một phố nhỏ rồi rẽ xuống đường bờ sông Đô-gáp xây bằng đá, rộng thênh thang. Mùa hè ở biển Ban-tích thật là êm dịu. Khí trời khô ráo nhẹ nhõm. Lòng tôi lâng lâng giữa biển hương thơm ngào ngạt dâng lên từ dòng sông và từ hoa cỏ dại đẫm sương... Đêm đã khuya. Bốn bề vắng ngắt. Tôi đội mũ dạ, mặc áo choàng màu sẫm, trong bóng tối khó mà nhận thấy. Một làn gió lạnh thoảng qua. Tôi rùng mình định kéo cổ áo lên chợt nghe tiếng gọi khẽ sau lưng. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Khuy Đồng của tác giả Lev Ovalov.