Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Ẩn Vụ Song Sinh - Erle Stanley Gardner

Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Muriell từ phòng ăn nhẹ nhàng bước qua nhà bếp, đưa tay giữ lại cánh cửa lửng chắn ngang giữa hai phòng, để tránh gây tiếng động vì sợ làm thức giấc bà mẹ kế là Nancy Gilman và cô em gái Glamis, con riêng của bà, họ thường ngủ trễ đến tận trưa mới dậy. Sáng nay, bố của Muriell cảm thấy đói hơn mọi khi nên muốn cô làm thêm một đĩa trứng và một miếng xúc xích nữa. Đây là một điều bất thường và Muriell nghĩ rằng thể nào bố cô cũng bảo thôi nếu cô tạo điều kiện để ông nghĩ lại, thành thử cô hơi chần chừ. Nhưng rồi thấy nét mặt quả quyết của bố và ông lại có vẻ hơi nôn nóng vì chờ đợi, cô bèn bước sang nhà bếp trong khi bố cô chăm chú đọc tờ báo buổi sáng, Muriell hiểu rất rõ bố mình, cô mỉm cười nhớ đến sự cố gắng ăn uống kiêng khem của ông vì sợ lên cân, nhưng có lẽ bữa ăn sáng nay là để bù lại bữa tối qua quá sơ sài? Cả hai bố con sống trong một căn biệt thự ba tầng to lớn kiểu cổ và đã được trang hoàng theo kiểu mới kể từ sau khi mẹ Muriell chết. Muriell sinh ra tại đây, cô biết tất cả mọi ngóc ngách và rất quyến luyến với nó. Đã có những lần Muriell cảm thấy ít nhiều xót xa khi căn phòng cũ của mẹ mình đã bị Nancy chiếm chỗ, nhưng những ý nghĩ ấy thường chỉ xẩy ra khi không có mặt Nancy ở nhà mà thôi. Nancy là một người đàn bà rất có tâm hồn và nhiều sáng kiến cũng như có những nét đặc thù trong cung cách nhìn đời và sự vật. Điều đó làm cho bà ta trở thành một con người đặc biệt và dễ mến. Không một ai có thể bực mình khi đối diện với bà ấy. Muriell đã cố tình chần chừ cho đến khi thấy bố có vẻ nôn nóng, cô mới vội vào bếp làm tiếp. Miếng xúc xích lấy trong tủ lạnh ra còn đóng băng nên phải chờ lâu thêm một chút. Sau đó cô đập trứng vào chảo và bớt lửa vì cô biết ông không thích ăn trứng chín quá. Bỏ trứng và xúc xích vào đĩa xong, cô bưng sang phòng ăn, lấy khuỷu tay đẩy nhẹ cánh cửa phòng để tránh tiếng kêu lớn rồi lách nhẹ người đi vào. — Xong rồi bố ơi! - Cô gọi - Bố... Cô chợt ngừng lại không nói tiếp khi thấy chiếc ghế trống trơn, tờ báo đang nằm trên sàn nhà, ly cà phê vẫn còn đầy và điếu thuốc đang hút dở đặt trên đĩa gạt tàn, khói thuốc vẫn tiếp tục bay lên cao. Muriell thay đĩa thức ăn mới cho bố, rồi bỏ một lát bánh mì vào hộp nướng bánh và nhấn nút. Cô đứng chờ bố trở lại bàn ăn, cặp mắt bất chợt để ý đến mục quảng cáo trên tờ báo. Cô cúi xuống nhặt tờ báo. Đó chỉ là mục quảng cáo về các loại quần áo may sẵn. Khi công tắc của bếp nướng bánh ngắt điện và lò xo đẩy miếng bánh lên trên nắp hộp, Muriell nhíu mày thắc mắc không hiểu sao bố cô chưa trở lại bàn ăn. Cô rón rén bước xuống phòng tắm dưới nhà, cửa mở nhưng bên trong không có ai. Cô đi vòng sang các phòng khác và gọi khẽ — Bố, thức ăn nguội rồi! Cô trở lại phòng ăn, vẫn không thấy ai và chợt cảm thấy có sự bất ổn. Cô xem xét kỹ dưới nhà một lần nữa. Liệu bố cô đã đi làm rồi mà không nói cho có biết chăng...? Ông biết rõ là Muriell đang làm trứng cho ông mà? Chính ông đã bảo cô làm thêm mà? Chắc chắn không thể nào ông rời khỏi nhà mà lại không nói cho cô hay. Kể cả trường hợp nếu có điều gì thật khẩn cấp ở văn phòng thì ông cũng phải cho cô biết chứ. Nhưng hẳn là không có gì khẩn cấp vì đâu có nghe thấy chuông điện thoại reo. Trong bếp luôn có đường dây điện thoại song song, có gì thì chuông đã kêu. Như vậy hẳn có chuyện gì ở trên lầu. Có thể Nancy bị ốm chăng? Muriell bước vội lên lầu nhưng vẫn cố giữ im lặng. Cô nhẹ nhàng vặn nắm cửa phòng ngủ và đẩy nhẹ. Nancy Gilman đã thức, nhìn thấy Muriell đứng ngơ ngác nép bên cánh cửa bèn hỏi: — Có gì vậy, Muriell? — Con tìm bố - Muriell đáp. Nancy quay đầu lại nhìn bên giường trống. — Bố đã rời khỏi buồng cả tiếng đồng hồ rồi - Bà nói với giọng hơi lộ vẻ khó chịu, nhưng rồi chợt ý thức liền mỉm cười và tiếp - Có chuyện gì vậy con? Bố lại trễ ăn sáng à? — Dạ không - Muriell nói - Bố muốn ăn thêm và con đã làm xong nhưng ... con sợ nguội. Nét mặt Nancy Gilman thoáng lộ nét lo âu nhưng rồi bà kéo gối tựa sau lưng, mỉm cười, nói: — Ồ, con quá quan tâm đến bố đấy! Bà cười với nụ cười kín đáo và quay sang ngủ tiếp. Như vậy là bố Muriell không có mặt ở tất cả mọi nơi trong nhà, ngoại trừ căn phòng để đồ trên gác. Bất chợt một ý tưởng bỗng khuấy động trong đầu óc Muriell. Gần đây bố cô thường tỏ vẻ khó chịu. Hai hôm trước ông có nói với cô: “Bố dặn con một điều là nếu có bất kỳ chuyện gấp gáp nào liên quan đến công việc làm ăn của bố, thì hãy nhớ rằng bố không muốn dính dáng đến cảnh sát. Con nhớ không? Bố không muốn dính dáng đến cảnh sát.” Muriell đã nhìn bố với cặp mắt ngạc nhiên, muốn ông giải thích rõ hơn, nhưng ông chỉ trả lời một cách đại khái và cố nhấn mạnh cái ý chính của mình là không muốn dính dáng đến cảnh sát. Cô chợt lo lắng nghĩ đến những vụ tự tử, những xác chết treo cổ trên trần nhà. Cô liền chạy như bay lên thang gác. Phòng chứa đồ với những rương thùng quần áo cũ, các bàn ghế cổ. Gian phòng vẫn còn ăm ắp cái hơi hướng của một thời quá vãng. Những căn phòng dưới nhà đang hòa nhập với nhịp độ đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, nhưng tại đây, trong căn phòng này hầu như đón nhận toàn bộ những đồ vật dư thừa, lỗi thời của những ngày đã qua. Nó mang một không khí trầm buồn và cách biệt. Nhìn bao quát xung quanh căn phòng, Muriell cảm thấy hơi yên tâm, nhưng dù sao cô cũng đi vòng khắp hết một lượt, để ý cả đến ngoài hàng hiên sát mái. Không có một ai. Cô thấy vững dạ hơn và bước xuống cầu thang. Vừa tới chân cầu thang, Muriell gặp ngay Glamis, con riêng của mẹ kế. Glamis mặc bộ đồ ngủ mỏng dính. Mái tóc vàng xõa trên khuôn mặt với đôi mắt xanh tỏ vẻ bất bình. — Chị làm gì ầm ĩ ở trên gác vào cái giờ còn sớm như thế này? — Ồ, xin lỗi Glamis - Muriell nói - Chị... chị đang tìm kiếm... — Chị kiếm cái gì vậy? - Glamis hỏi khi thấy Muriell tỏ ra ngần ngừ. — Ồ, chị có chút việc trên ấy - Muriell nói - Chị đã cố nhẹ nhàng. — Em tưởng như có một đàn ngựa chạy trên ấy! Đúng, chạy ngay trên phòng ngủ của em. — Ồ, chị xin lỗi. Glamis bỗng nhiên cười và nói: — Chị tha lỗi cho em. Bị thức giấc nên em cáu giận vô lý. Dưới nhà có cà phê không chị? Muriell gật đầu. — Em cảm thấy khó chịu khi chưa được uống ly cà phê vào buổi sáng - cô em nói - Em sẽ xuống dưới nhà uống một ly rồi trở lên ngủ tiếp. Chị đã xong việc trên phòng để đồ chưa? — Rồi - Muriell đáp - Thôi đừng quan tâm nữa, Glamis. Chị sẽ đem cà phê lên phòng cho em. Không có đường chứ? Glamis gật đầu. — Chị xin lỗi vì đã làm em thức. Chị đang lo ăn sáng cho bố - Muriell nói. — Ở trên phòng để đồ à? - Glamis vừa hỏi vừa cười. Muriell vỗ nhẹ lên vai cô em. —Thôi về phòng đi cưng. Chị sẽ mang cà phê lên cho. — Vâng, cảm ơn chị - Glamis nói - Bạn em là Hartley Elliott đã ở lại nhà mình hồi đêm, anh ta cũng cần được ngủ. — Bạn trai em à? - Muriell hỏi. — Vâng. Anh ta ngủ ở trên phòng Hoa Hồng. Chúng em về nhà đã hơn nửa đêm, rồi ngồi nói chuyện với nhau ngoài hàng hiên. Khi anh ấy mở máy xe tính đi về thì mới biết là quên rút chìa khóa xe trong ổ nên bình điện yếu không đề máy được. Vì vậy em đã bảo anh ấy ngủ lại. — Mẹ biết không? - Muriell hỏi. — Dĩ nhiên là không. Mẹ đang ngủ ngon mà. Chị nghĩ rằng em phải đánh thức mẹ dậy để báo với mẹ là em mời khách ngủ lại nhà mình sao? Em cũng đã lớn, hai mươi tuổi rồi. Và chị nghĩ... Glamis bỗng dưng ngừng lại rồi mỉm cười nói tiếp: — Chị thấy em giống như con ma dại vào buổi sáng như thế này phải không? Muriell vỗ vai cô em. — Thôi cưng, chị sẽ mang cà phê lên. Chui vô giường đi. Trông em trần như nhộng. — Em ấy à? - Glamis hỏi lại và đưa tay vuốt bộ áo ngủ mỏng dính rồi cười và nhẹ nhàng bước về phòng trên hành lang trải thảm. Muriell xuống dưới nhà, tự trấn an rằng có lẽ vì một lý do đặc biệt nào đấy, bố cô đã phải đi ngay đến văn phòng làm việc mà không kịp cho cô biết. Chắc đó là công việc hết sức quan trọng, có thể là một cuộc hẹn mà ông đã quên. Muriell lấy lại sự vui vẻ khi cô rót cà phê vào chiếc tách lớn, bỏ vài miếng bánh mì nướng vào trà, đặt tất cả lên khay và bưng lên phòng cho Glamis. — Ồ, cảm ơn chị - Glamis nói - Chị mang cả bánh mì nướng lớn cho em nữa hà? — Đói không? — Đói muốn chết! - Glamis nói - Em cứ thức dậy là thèm ăn ngay. Nếu không kiêng khem sợ mập, có lẽ em phải xuống nhà hàng dưới phố để ăn sáng. Glamis ngồi nhỏm dậy, dụi tắt điếu thuốc trên đĩa gạt tàn, với tay lấy tách cà phê, nhìn Muriell và nói: — Chị thực là tài, chị Muriell. — Tài gì? — Chị luôn luôn giữ được điều độ. Em thấy chị lúc nào cũng trầm tĩnh và đầy nghị lực. Còn em thì như con ngố nếu sáng dậy mà không được uống cà phê. Glamis nhai mẩu bánh và uống vài ngụm cà phê. Sau đó cô vội đẩy đĩa bánh và tách cà phê sang một bên, mỉm cười vừa nói với Muriell vừa ngả đầu nằm lại trên giường. — Cảm ơn chị. Em ngủ đây. Muriell bước ra khỏi phòng, đóng nhẹ cửa và trở lại phòng ăn. Hôm nay là ngày nghỉ của người nấu bếp, còn người giúp việc dọn dẹp và rửa chén đĩa sẽ đến vào giờ muộn hơn. Một lần nữa tư tưởng bất ổn lại xuất hiện trong đầu óc Muriell khi cô nhìn thấy đĩa trứng trên bàn ăn đã nguội lạnh, tờ báo vẫn nằm bên chiếc ghế trống trơn. Thật là bất thường, bố cô đi mà không nói lấy một lời, sao bố lại có thể vô tâm như thế được. Bố biết là Muriell đang ở trong bếp mà... Bỗng cô nhìn thấy chiếc cặp táp của ông. Không bao giờ bố cô đi làm mà quên đem theo chiếc cặp táp này. Muriell biết rằng bố cô có một số giấy tờ quan trọng để trong cặp. Ông đã phải làm gấp vào đêm qua để kịp sáng nay đưa đến văn phòng. Ngay cả lúc sáng khi đang ngồi trước bàn ăn, ông cũng đã lấy tập giấy tờ ấy ra để xem xét lại và ghi chú thêm. Muriell bước tới cầm lấy chiếc cặp và mở ra. Tập giấy tờ tài liệu vẫn còn nguyên trong ấy. Muriell cầm lên rút các giấy tờ bên trong ra xem rồi bỏ trở lại trong tấm bìa cứng bọc ngoài. Bất chợt cô để ý đến hàng chữ viết tay của bố cô ghi trên đầu tấm bìa: Trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào, hãy liên lạc với luật sư Perry Mason ngay lập tức. Tuyệt đối không được liên lạc với bất cứ nơi nào khác.' Dòng chữ ghi có cả chữ kí của bố cô và được viết bằng bút mực. Chỗ chữ kí hơi bị nhòe một chút có lẽ vì ông đã vội cất tập giấy vào trong cặp trước khi chờ đủ thời gian cho mực khô. Ngoài ra bên cạnh chỗ chữ viết, có ghi một số điện thoại, chắc là số điện thoại của văn phòng luật sư Perry Mason. Liệu có phải bố cô đã viết những hàng chữ này lúc ngồi trên bàn ăn sáng không? Muriell nhìn đồng hồ. Đã chín giờ kém mười. Cô đóng cặp táp lại và bước đến bên ghế bố cô đã ngồi. Cô không thấy chiếc khăn ăn của ông. Như vậy là khi bố cô đi, ông đã cầm theo chiếc khăn ăn. Bỗng dưng ý nghĩ của sự mất chiếc khăn ăn khiến cho Muriell cảm thấy sợ hãi. Cô lật tờ báo lên, xem dưới gầm bàn, tìm khắp phòng, sau đó cô bước qua phòng khách rồi trở ra cầu thang định lên lầu và lúc này cô chợt nhớ đến xưởng làm việc. Đúng rồi! Phía sau biệt thự là một dãy nhà khá lớn, đầu dãy phía bắc là gara xe chia làm ba ngăn. Kế tiếp là một phòng dùng làm phòng tối dành cho bà Nancy rửa phim ảnh và phía cuối của dãy nhà là một xưởng riêng của ông Carter Gilman, chia làm hai phần, một làm đồ gốm và một làm đồ mộc như các hộp bằng gỗ quý để đựng đồ nữ trang, các hộp đựng đồ khâu vá và các khung ảnh trang hoàng. Muriell đẩy mạnh cửa bước ra ngoài hành lang, cô rảo chân qua sân cỏ phía sau nhà, tiến đến trước cánh cửa xưởng mộc. Cô mở mạnh cửa gọi lớn: — Bố! Cô bước vào trong và bất chợt khựng lại. Một chiếc ghế gãy nằm trên sàn, bên cạnh là một vũng màu đỏ thẫm. Mạt cưa văng tung tóe trên nền ximăng và những tờ giấy bạc rải rác khắp nơi. Các tờ giấy bạc đều là loại một trăm đôla và Muriell nhìn thấy có đến khoảng trăm tờ như vậy khắp phòng. Muriell nhìn qua bên phải chỗ cánh cửa dẫn sang phòng rửa ảnh của bà Nancy, ngay trước cánh cửa, trên sàn ximăng là chiếc khăn ăn của bố cô. Muriell bước tới mở cánh cửa phòng rửa ảnh. Mùi chua của thuốc rửa ảnh xông lên mũi. Ánh sáng từ ngoài cánh cửa rọi vào nhưng vẫn không đủ sáng. — Bố ơi! - Muriell gọi. Im lặng vẫn bao trùm căn phòng. Muriell bước qua hết phòng rửa ảnh, mở và đẩy mạnh cánh của thông sang gara. Chiếc xe thể thao và chiếc xe nhỏ vẫn nằm đúng vị trí nhưng chiếc xe lớn thì không còn ở đấy nữa. Muriell ý thức được sự kiện vắng mặt chiếc xe của bố, tim cô bỗng đánh thình thịch. Bố cô đã rời phòng ăn đi xuống gara, trong tay vẫn còn cầm nguyên chiếc khăn ăn. Phải có một biến cố nào đấy khiến ông phải đi xuống dưới nhà mà không ý thức được là trong tay mình đang cầm chiếc khăn ăn. Chắc ông đã xuống gara trước, rồi đi qua phòng rửa ảnh và mở cửa bước sang xưởng mộc. Những gì ông nhìn thấy trong xưởng hẳn đã làm ông đánh rơi chiếc khăn ăn. Như vậy chuyện gì đã xảy ra? Chiếc ghế gãy nằm trên sàn mang ý nghĩa gì? Tại sao các giấy bạc lại tung tóe trên sàn và nhất là cái vũng màu đỏ thẫm kia? Muriell liền đi đến quyết định, cô bước vội lại bàn điện thoại trong xưởng, nhấn nút liên lạc với văn phòng làm việc của Carter Gilman. Khi được văn phòng báo cho biết là ông không có ở đấy, cô bèn lật gấp các trang sách cuốn điện thoại niên giám tìm số văn phòng luật sư Perry Mason. Tiếng trả lời trên điện thoại cho biết luật sư Perry Mason chưa tới, nhưng thư ký riêng của ông ta đang có mặt. — Vâng, tôi nói chuyện với cô thư ký cũng được, - Muriell nói. Vài giây sau tiếng nói trên đầu máy vang lên. — Tôi là Della Street, thư ký riêng của luật sư Perry Mason nghe đây. Muriell nói thật nhanh: — Vâng, hiện giờ tôi thấy lo lắng quá. Bố tôi tự dưng biến mất. Tôi tìm thấy tờ giấy ghi trong cặp táp của bố tôi bảo rằng hãy gọi cho luật sư Perry Mason trong trường hợp có biến cố xảy ra và... và hẳn có điều gì rất bí mật trong vụ này. Tôi... — Xin lỗi, cô có thể cho biết tên bố cô? — Carter Gilman. Mẹ tôi đã mất. Tôi ở đây với bố tôi cùng mẹ kế và con riêng của bà ta. Chúng tôi ... — Xin vui lòng cho biết tên cô. — Muriell Gilman. — Cô có thể cho tôi số điện thoại của nhà cô không? Muriell cho biết số điện thoại. — Và địa chỉ nữa? — 6231 Đại lộ Vauxman. — À, luật sư Perry Mason vừa mới tới - Della Street nói. - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong vòng năm phút. — Cảm ơn cô - Muriell đáp và cúp máy. ... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Vụ Song Sinh của tác giả Erle Stanley Gardner.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lời Thì Thầm Trong Đêm
Sau ba mươi năm lớn lên trong tình thương của người mẹ, nữ cảnh sát Sloan Reynolds nhận được một cuộc gọi yêu cầu cô đến gia nhập với cha và chị cô ở biệt thự riêng của gia đình Reynolds trên bãi biển Palm Beach. Cùng lúc đặc vụ FBI, Paul Richardson (trong Perfect – Định Mệnh) tìm đến cô và muốn cô giúp họ đến gần để theo dõi những hoạt động trái phép của ông. Sloan đồng ý chấp nhận lời mời của gia đình, giả làm nhà thiết kế nội thất để che giấu nghề nghiệp thực sự, và đưa theo đặc vụ FBI như là bạn trai của cô. Nhưng Sloan không hề biết rằng người mà FBI thật sự muốn đóng đinh lại là một người khác. Khi đến đó, cô thấy mình bị Noah Mailand (người anh trai giàu có và nổi tiếng của Courtney Maitland trong SOTWOM) thu hút một cách mạnh mẽ, trái ngược với những bản năng của cô. Nhưng anh lại là người mà cha cô đã nhắm cho chị cô kết hôn. Cô cũng không hề biết rằng những cung cấp mà cô đưa cho Cục điều tra liên bang là những bằng chứng buộc tội chống lại anh. Khi một vụ mưu sát bất ngờ xảy ra bẻ gãy bề ngoài quyến rũ của tiền bạc và sức hấp dẫn xung quanh cô, Sloan phải đưa mình qua mê cung của những sự lừa dối và đam mê, để tìm người mà mình tin tưởng - và giải mã sự thật đằng sau những lời thì thầm khủng khiếp trong bóng đêm. *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường Whiney Yêu Dấu Lời Thì Thầm Trong Đêm ... *** Hắn đã theo cô ba ngày, theo dõi. Chờ đợi. Bây giờ, hắn biết thói quen và giờ giấc của cô. Hắn biết cô thức dậy lúc mấy giờ vào buổi sáng, gặp ai vào ban ngày, và đi ngủ lúc mấy giờ. Hắn biết cô đọc sách trên giường vào ban đêm, nằm kê đầu trên gối. Hắn biết tên cuốn sách cô đang đọc, và cô đặt nó úp xuống trên bàn đầu giường trước khi cuối cùng cô tắt đèn. Hắn biết mái tóc vàng dày của cô là tự nhiên và màu mắt xanh-tím của cô không phải là kết quả của kính áp tròng. Hắn biết cô mua đồ trang điểm ở hiệu thuốc và cô sử dụng chính xác hai mươi lăm phút để chuẩn bị đi làm vào buổi sáng. Rõ ràng là cô quan tâm trong việc giữ sạch sẽ và gọn gàng hơn là cải thiện bề ngoài của mình. Hắn, tuy nhiên, quan tâm rất nhiều đến bề ngoài của cô. Nhưng không phải là vì sự đòi hỏi và cho những lý do "thông thường". Lúc đầ u, hắn đã chú ý giữ cô trong tầm mắt trong khi vẫn đảm bảo là cô không nhận thấy hắn, nhưng sự đề phòng của hắn là do thói quen hơn là do cần thiết. Với dân số 150,000 người, 15,000 người trong số đó là sinh viên đại học, thành phố nhỏ của Bell Harbor ở bờ biển phía đông Florida đủ lớn cho một người lạ có thể đi lại mà không bị phát hiện trong số dân địa phương, nhưng không lớn đến nỗi hắn sẽ mất con mồi của hắn trên những xa lộ và giao lộ rối rắm. Hôm nay h ắn đã theo dấu cô đến công viên thành phố, nơi hắn đã sử dụng một buổi chiều tháng Hai êm dịu, nhưng tẻ nhạt, bị vây quanh bởi những người lớn uống bia vui vẻ và những đứa trẻ ồn ào điếc tai đến đó để tận hưởng buổi dã ngoại và lễ hội nhân ngày Lễ Tổng Thống. Hắn không thích đám con nít xung quanh hắn, đặc biệt là những đứa con nít với đôi tay dơ bẩn và khuôn mặt nhem nhuốc chạy vấp qua chân hắn khi chúng rượt đuổi nhau. Chúng gọi hắn, "Này, chú ơi!" và yêu cầu hắn ném lại trái banh bóng chày bị đánh văng ra ngoài cho chúng. Những trò hề của chúng làm hắn chú ý thường xuyên đến nỗi hắn đã bỏ vài băng ghế thoải mái và bây giờ buộc phải tìm nơi trú ẩn giấu mình bên dưới một cái cây có thân cây gồ ghề không được thoải mái khi tựa vào và những rễ dày xù xì dày nổi lên mặt đất bên dưới nó là bất khả. Mọi thứ đang bắt đầu làm hắn bực bội, và hắn nhận ra rằng sự kiên nhẫn của hắn đã kết thúc. Cả chuyện theo dõi và chờ đợi cũng vậy. Để kiềm tánh nóng nảy của mình, hắn duyệt qua kế hoạch hắn dành cho cô trong khi xoay sự chú ý đầy đủ đến con mồi của hắn. Lúc này, Sloan đang leo xuống từ những nhánh cây của một thân cây to cao mà cô đang cố gắng thu hồi một con diều trông giống như một chim ưng đen với cặp cánh duỗi ra, trên đầu cánh có màu vàng tươi. Ở gốc cây, một nhóm trẻ con năm, sáu tuổi đang reo hò cổ vũ. Đằng sau họ là một nhóm thanh niên. Những đứa trẻ quan tâm đến chuyện lấy lại con diều của chúng ; các chàng thanh thiếu niên chú mục đến đôi chân rám nắng xinh đẹp của Sloan Reynolds ló ra một cách chậm chạp từ nhánh cây trên. Các chàng trai huých khuỷu tay nhau và nhìn chằm chằm vào cô, và hắn hiểu nguyên nhân gây ra chấn động nhỏ đối với các cậu thanh niên: nếu cô là nữ sinh viên hai mươi tuổi, đôi chân đó sẽ đáng được chú ý, nhưng trên thân thể của một cảnh sát ba mươi tuổi, chúng là một hiện tượng. Thông thườ ng, hắn bị thu hút đến những người phụ nữ cao, đầy khêu gợi, nhưng người phụ nữ này chỉ cao 1.63 mét với bộ ngực nhỏ gọn, thân hình mảnh khảnh, duyên dáng và gọn gàn mặc dù không khêu gợi. Cô không phải là ứng cử viên cho một tấm ảnh màu giữa cuốn tạp chí, nhưng trong cái quần soóc ka ki và áo sơ mi trắng tinh, với mái tóc vàng buộc kiểu tóc đuôi gà, cô có vẻ khỏe mạnh tươi tắn và ngăn nắp, cô đã hấp dẫn hắn trong thời gian hiện tại. Một tiếng thét từ sân bóng chày làm hai trong số các chàng trai xoay đầu và nhìn về phía hắn, hắn nâng cao ly xô đa cam lên miệng để che giấu khuôn mặt của mình, nhưng cử chỉ đó là tự động hơn là cần thiết. Cô đã không để ý đến hắn trong ba ngày qua khi hắn theo dõi cô từ các ngưỡng cửa và những con hẻm, vì thế cô sẽ không thấy bất cứ thứ gì tai hại về một người đàn ông cô độc trong công viên đang có nhiều công dân tôn trọng luật pháp tụ tập để hưởng thụ thức ăn miễn phí và triển lãm, dù là cô có để ý đến hắn đi nữa. Thực ra, hắn nghĩ với nụ cười tự mãn bên trong, cô lơ là một cách khó tin và ngốc nghếch bất cứ khi nào cô được nghỉ. Cô không nhìn qua vai khi nghe bước chân của hắn vào một đêm nọ; thậm chí cô cũng không khóa xe khi đậu nó. Giống như bất kỳ cảnh sát tỉnh lẻ nào, cô cảm thấy an toàn một cách sai lầm trong thành phố của cô, việc không thể bị tổn thương đi cùng với phù hiệu mà cô đang đeo và cây súng mà cô đang mang, và những bí mật nhớp nhúa của công dân mà cô biết. Cô không có bí mật với hắn, tuy nhiên. Chưa đầy 72 tiếng đồng hồ, hắn đã có tất cả tài liệu thống kê quan trọng về cô - tuổi tác, chiều cao, số giấy phép lái xe, tài khoản ngân hàng, thu nhập hàng năm, địa chỉ nhà – những loại thông tin đó rất dễ tìm được trên Internet đối với bất cứ ai biết chỗ tìm. Trong túi hắn là hình của cô, nhưng tất cả các thông tin kết hợp lại thì rất nhỏ so với những gì hắn bây giờ mới biết. H ắn uống một ngụm xô đa cam hơi ấm khác, đè nén sự sốt ruột khác đang dâng cao. Đôi khi, cô rất thẳng thắng, rất nghiêm túc và có thể tiên đoán được, điều đó làm hắn thích thú; những lúc khác, cô bốc đồng một cách bất ngờ, làm cô không thể dự đoán được, và những thứ không thể dự đoán được thì rất mạo hiểm, nguy hiểm, cho hắn. Rồi hắn tiếp tục chờ đợi và theo dõi. Trong ba ngày qua h ắn đã thu thập tất cả những thứ lặt vặt bí ẩn, bình thường sẽ làm thành một người phụ nữ, nhưng trong trường hợp của Sloan Reynolds, bức tranh vẫn còn mờ nhạt, phức tạp, khó hiểu. N ắm chặt con diều trong tay trái, Sloan cẩn thận leo xuống nhánh cây thấp nhất ; sau đó nhảy xuống đất và đưa con diều cho chủ nhân của nó giữa tiếng thét gào của những tiếng "Yea!" và tiếng những bàn tay nhỏ vỗ tay một cách phấn khởi. "Trời ơi, cám ơn, Sloan !" Kenny Landry nói, ửng hồng mặt với sự thích thú và ngưỡng mộ khi nó lấy con diều của nó. Hai cái răng cửa của Kenny bị trống, làm cho nó nói ngọng, cả hai có vẻ làm cho nó rất dễ mến đối với Sloan, người đã cùng đến trường trung học với mẹ nó. "Mẹ cháu sợ cô sẽ bị thương, nhưng cháu dám cá là cô không bao giờ cảm thấy sợ hãi." Th ực ra thì, Sloan đã vô cùng sợ hãi trong hành trình leo xuống qua các nhánh cây, sợ rằng cái quần soóc của cô sẽ mắc vào một nhánh cây, kéo nó lên, và để lộ quá nhiều chân của cô.  "Ai cũng sợ cái gì đó," Sloan nói với nó, cố nén thôi thúc ôm nó và làm nó xấu hổ bởi sự âu yếm nơi công cộng. Thay vào đó cô vò rối mái tóc nâu của nó. "Cháu bị rơi từ trên cây xuống một lần !" cô bé mặc cái quần soóc màu hồng và áo thun ngắn tay màu hồng và trắng thú nhận, quan sát Sloan với vẻ kính phục. "Cháu bị đau nữa, trên khuỷu tay của cháu," Emma rụt rè nói thêm. Cô bé có mái tóc ngắn, đỏ quăn, nhiều tàn nhang trên cái mũi nhỏ của nó, và một con búp bê trong vòng tay.  Butch Ingersoll là đứa trẻ duy nhất không muốn gây ấn tượng. "Con gái lẽ ra phải chơi búp bê," cậu nhỏ thông báo với Emma. "Con trai mới leo cây." "Cô giáo của tớ nói cô Sloan là một người hùng thực sự," cô bé tuyên bố, ôm con búp bê thậm chí càng chặt hơn, như thể nó mang lại cho cô bé lòng can đảm để lên tiếng. Cô bé nâng mắt đến Sloan và thốt ra, "cô giáo của cháu nói cô đã liều thân để có thể cứu đứa bé ngã xuống giếng." "Cô giáo của cháu rất tử tế," Sloan nói khi cô nhặt cọng dây thả diều nằm trên bãi cỏ và bắt đầu cuộn nó thành cuộn trên ngón tay của cô. Mẹ của Emma đã từng là một người bạn học khác của Sloan, và khi cô liếc nhìn từ Kenny đến Emma, Sloan không thể quyết định đứa trẻ nào đáng yêu hơn. Cô đã đến trường với hầu hết cha mẹ của những đứa trẻ này, và khi cô cười với những khuôn mặt nhỏ nhắn đó, những khuôn mặt thích thú đang nhìn cô gợi cho cô nhớ sâu sắc về những người bạn học cũ. B ị vây quanh bởi con cái của đám bạn học và bạn bè của mình, Sloan cảm thấy đau nhói một nỗi ước ao có một đứa con cho riêng mình. Vào năm ngoái, mong muốn có một thằng bé hay cô bé của riêng mình để ẵm bồng, yêu thương và đưa đến trường đã phát triển thành một nhu cầu, và nó đang càng lúc càng gia tăng với tốc độ và sức mạnh đáng sợ. Cô muốn cô bé Emma hoặc cu cậu Kenny của riêng cô để ôm chặt, thương yêu và dạy dỗ. Không may là sự mong muốn đầu hàng cuộc sống cho một người chồng đã không gia tăng chút nào. Thực ra là ngược lại. Nh ững đứa trẻ khác đang quan sát Sloan với vẻ tôn sùng, nhưng Butch Ingersoll kiên quyết không gây ấn tượng. Cha và ông nội của nó đã từng là ngôi sao bóng đá của trường trung học. Mới sáu tuổi, Butch không chỉ có thân hình to lớn của họ, mà còn thừa hưởng cả cái cằm vuông và vẻ bảnh bao nữa. Ông của nó là cảnh sát trưởng và là cấp trên của Sloan. Nó chìa cái cằm ra nhắc Sloan nhớ một cách mạnh mẽ về Cảnh sát trưởng Ingersoll. "Ông cháu đã nói bất cứ cảnh sát nào cũng có thể cứu nguy đứa bé đó, cũng giống như cô đã làm, nhưng mấy chú ở đài truyền hình làm mọi chuyện lớn lên vì cô là nữ cảnh sát." M ột tuần trước đây, Sloan đã ra ngoài khi có một cuộc điện thoại báo có một đứa bé mới chập chững biết đi bị mất tích và cuối cùng là leo xuống giếng để cứu nó. Đài truyền hình ở địa phương đã bắt được câu chuyện về đứa bé mất tích, rồi giới truyền thông Florida lại chộp được câu chuyện về sự giải cứu. Ba tiếng đồng hồ sau khi cô leo xuống giếng và trải qua thời gian kinh hoàng nhất trong đời mình, Sloan đã nổi lên như một "nữ anh hùng." Dơ dáy và kiệt sức, Sloan đã được chào đón bằng những tiếng reo hò điếc tai từ công dân ở Bell Harbor đã tụ tập lạ để cầu nguyện cho sự an toàn của đứa bé và tiếng hét từ các phóng viên đã tập hợp lại để cầu nguyện cho cái gì đó đủ lý thú để nâng cao tỷ suất người xem đài của họ. Sau m ột tuần, sự xôn xao và tiếng tăm cuối cùng bắt đầu lắng xuống, nhưng không đủ nhanh đối với Sloan. Cô thấy vai trò ngôi sao của giới truyền thông và nữ anh hùng ở địa phương không những không phù hợp một cách khôi hài mà còn làm cho cô rất bối rối. Ở một bên quang phổ, cô phải đối mặt với công dân của Bell Harbor bây giờ coi cô khi một nữ anh hùng, một biểu tượng, một tấm gương cho phụ nữ. Mặt khác, cô phải đối phó với cảnh sát trưởng Ingersoll, người ông năm mươi lăm tuổi theo chủ nghĩa sô vanh của Butch, người xem những lời ca ngợi không có chủ tâm về Sloan như là "cố tình dàn dựng" và sự hiện diện của cô trong lực lượng cảnh sát của ông là một sự sỉ nhục đến nhân phẩm của ông, một sự thách thức đến quyền lực của ông, và một gánh nặng mà ông buộc phải mang cho đến khi ông có thể tìm cách để dứt bỏ cô.  Bạn thân của Sloan, Sara Gibbon, đến hiện trường chỉ khi Sloan quấn xong đoạn dây diều cuối cùng vào một cái ống tạm, cái mà cô trao cho Kenny với nụ cười. "Mình nghe ti ếng reo hò và vỗ tay," Sara nói, nhìn Sloan rồi nhìn đám nhỏ rồi đến con diều hình chim ưng với cái cánh vàng bị gãy. "Chuyện gì xảy ra với con diều của cháu vậy, Kenny ?" Sara hỏi. Cô mỉm cười với cậu bé và mặt nó sáng bừng lên. Sara có sức ảnh hưởng đến phái nam ở mọi lứa tuổi. Với mái tóc nâu vàng bóng cắt ngắn của cô, đôi mắt xanh lấp lánh, và những đặc điểm xinh xắn, Sara có thể làm cho đàn ông khựng lại với chỉ một cái liếc nhìn.  "Nó bị kẹt trên cây." "Đúng, nhưng cô Sloan đã lấy nó xuống," Emma cắt ngang một cách phấn khởi, chỉ một ngón trỏ nhỏ mũm mĩm lên cây. "Cô ấy đã leo lên đến đỉnh," Kenny chêm vào, "và cô ấy đã không sợ, vì cô ấy rất dũng cảm." Sloan c ảm thấy – như một người mẹ tương lai một ngày nào đó - cô cần chỉnh sửa ấn tượng đó của những đứa trẻ. "Dũng cảm không có nghĩa là cháu không bao giờ sợ. Dũng cảm có nghĩa là, mặc dù cháu sợ, cháu vẫn làm chuyện nên làm. Chẳng hạn như," cô nói, chuyển nụ cười đến đám nhỏ, "các cháu dũng cảm khi các cháu nói sự thật mặc dù các cháu sợ là mình có thể gặp rắc rối. Điều đó là thật sự, thật sự dũng cảm đấy." S ự xuất hiện của chú hề Clarence với một nắm bong bóng khổng lồ làm cho bọn trẻ cùng nhau quay đầu lại, và vài người trong số chúng ngay lập tức bỏ chạy láo nháo, chỉ còn lại Kenny, Emma, và Butch ở lại. "Cám ơn cô đã lấy con diều của cháu xuống," Kenny nói với một nụ cười không răng, dễ mến khác của nó. "Không có chi," Sloan nói, đè nén thôi thúc kéo nó vào cánh tay củ a cô và ôm chặt nó – dù là với cái áo dơ bẩn, khuôn mặt lắm lem, và tất cả. Ba đứa trẻ quay lưng và rồi bỏ đi, tranh cãi ồn ào về mức độ can đảm của Sloan.  "Cô McMullin nói đúng. Cô Sloan thực sự, thực sự là một anh hùng," Emma tuyên bố. "Cô ấy thật sự, thực sự dũng cảm," Kenny công bố. Butch Ingersoll c ảm thấy buộc phải thẩm định và giới hạn lời khen "cô ấy dũng cảm so với một cô gái," cậu ta công bố một cách mạnh mẽ, gợi cho Sloan nhớ thậm chí càng mạnh mẽ hơn về Cảnh sát trưởng Ingersoll.  Một cách kỳ lạ, cô bé Emma nhút nhát cảm thấy đó là lời sỉ nhục. "Con gái cũng dũng cảm y như con trai vậy." "Họ không có! Cô ấy thậm chí không nên làm cảnh sát. Đó là công việc của đàn ông. Đó là lý do tại sao họ gọi là cảnh sát (policeman)." Emma phật ý dữ dội với lời sỉ nhục cuối cùng này đối với nữ anh hùng của cô bé. "Mẹ tớ," cô bé gào lên, "nói rằng cô Sloan Reynolds nên làm cảnh sát trưởng!" "Ồ, vậy sao ?" Butch Ingersoll phản kích. "Ừm, ông của tao là cảnh sát trưởng đấy, và ông tao nói cô ấy thật phiền toái (là cái mụt nhọt trên mông ! Ông tao nói cô ấy nên lấy chồng và sinh con. Đó là điều con gái sanh ra để làm!" Emma m ở miệng định phản đối nhưng không thể nghĩ được làm thế nào. "Tớ ghét cậu, Butch Ingersoll," thay vào đó cô bé kêu lên, và bỏ chạy, nắm chặt con búp bê – một người bênh vực nữ quyền với đôi mắt ngấn lệ.  "Mày không nên nói như vậy chứ," Kenny cảnh báo. "Mày đã làm cho nó khóc." "Ai thèm quan tâm chứ?" Butch nói – một kẻ cố chấp với thái độ y như ông của nó. "Nếu ngày mai mày thật dễ thương với nó, có lẽ nó sẽ quên những điều mày đã nói," Kenny quả quyết – một nhà chính trị, như cha nó. Mời các bạn đón đọc Lời Thì Thầm Trong Đêm của tác giả Judith McNaught.
Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã)
Tình Yêu Phù Thủy hay Biệt Thự Bạch Mã là tên bản dịch của cuốn tiểu thuyết The Pale Horse do nhà văn trinh thám nổi tiếng Agatha Christie sáng tác. Trong phầm này, chúng ta sẽ cùng thanh tra Lejeune đi tìm chân tướng sự việc. *** Agatha Christie Tình Yêu Phù Thủy Người dịch: TRẦN BÌNH Lời Mở Đầu Nguyên tác tiếng Anh :THE PALE HORSE Mark Easterbrook, người tường thuật các sự kiện chính trong truyện, chứng kiến một vụ đánh nhau  giữa hai cô gái trong một quán rượu ở Chelsea. Chẳng bao lâu sau đó, anh đọc được tin cáo phó trên báo về cái chết của cô Thomasina Tuckerton, một trong hai cô gái đã đánh nhau đó. Và trong một bữa ăn tối với bạn bè, anh lại nghe một cô gái, Poppy Stirling, nói bóng gió đến CON NGỰA NHỢT NHẠT, một nơi có thể sắp đặt trước cái chết cho người khác. Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước… *** Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm!  Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu. - Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào. Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi. Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn. Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng? Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú. Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi. Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King s và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ. Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả. Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể. Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả. Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ. Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác. - Lại đây! Cho nó một trận, Lou! Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp: - Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô! Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh. - Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người! - Con đĩ chính là mày đấy! Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất. Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa. - Ở đây xảy ra chuyện gì vậy? Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung: - Người ta vui đùa - Một trong những  trai trả lời. - Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau. Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát. Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi. Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền. - Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm. Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô. - Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi. Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền. - Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét. Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng. - Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói. - Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng. - Anh biết rõ cô ấy chứ? - Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy. Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau. - Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy! *** Gợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To ReadGợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To Read   Nguồn: FB/groups/acvnfan Nhóm đã tổng hợp lại theo bảng xếp hạng của các fan thế giới, xếp theo thứ tự truyện hay nhất đầu tiên. Có 2 cách đọc: Từ dễ đến khó, Đọc theo thể loại. (Hoặc đọc trộn lung tung cho đỡ nhanh chán, dở hay-dở hay-ngắn dài-... cứ thế =))) Ahiru, gõ lại từ ảnh hướng dẫn. CÁCH 1 - TỪ DỄ ĐẾN KHÓ   A. Basic - Truyện cơ bản Gồm các truyện ngắn nổi bật, 20-50 trang cho các bạn tập làm quen với văn phong tác giả. * Poirot Investigates: - Double Sin/ Thừa một chứng tích phạm tội - The Chocolate box/ Hộp Sô cô la - Case of missing will/ Bản di chúc độc đáo * Truyện ngắn Paker Pyne: - A Fairy in the Flat/ Tiên nữ trong căn hộ (trong tập Hãng thám tử tư) - Case of the Distressed Lady/ Người thiếu phụ tuyệt vọng - The Gate of Baghdad/ Cánh cổng thành Bagdad * Hãng thám tử tư/ Partners in Crime: - Finessing the King/ Đưa vua vào thế bí - A Pot of Tea/ Một tách trà - The Man in the Mist/ Người đàn ông trong sương mù * Gợi ý thêm: - Thirteen Problems/ 13 vụ án - Golden Ball/ Quả cầu vàng - The dream/ Giấc mơ khủng khiếp   B. Advance - Truyện nâng cao Là những tiểu thuyết nổi bật. 1. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 2. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 3. Death the Clouds/ Cái chết trên mây 4. Peril At End House 5. Crooked House/ Ngôi nhà cổ quái 6. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 7. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 8. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 9. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 10. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc *Gợi ý thêm: 11. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 12. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 13. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 14. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy 15. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel - Giáng sinh của Hercule Poirot   C. Masterpiece - Kiệt tác Những truyện kinh điển 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 6. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 7. Murder on the Links/ Vụ giết người trên sân golf 8. The Mysterious Affair At Styles/ Thảm kịch ở Styles 9. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ/ Bí mật trong chiếc vali 10. Toward zero/ Thời khắc định mệnh CÁCH 2 - XẾP HẠNG THEO THỂ LOẠI   A. Đánh lừa tâm lý người đọc - Readers totally blind 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 3.Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 6. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 7. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước   B. Yêu đương ướt át - Love injured/sloppy 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. Sad Cypress/ Cây bách buồn 3. Ordeal by Innocence/ Nhân chứng không ai ưa 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. Endless night/ Đêm dài vô tận 6. The Hollow/ Thung lũng   C. Xã hội đen - Underground 1. Big Four/ Bộ tứ 2. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 3. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 4. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 5. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 6. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh   D. Bị chỉ trích nhiều - Most commented 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 3. The Hollow/ Thung lũng 4. The Mysterious Mr. Quin/ Người đàn ông bí ẩn   E. Phiêu lưu - Adventure 1. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 2. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 3. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. They Came to Baghdad/ Điệp vụ thành Bagdad   F. Tâm linh - Spirituality 1. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 2. Dumb witness/ Nhân chứng câm 3. The Sittaford Mystery/ 5 giờ 25 phút 4. A Caribbean Mystery/ Điều bí ẩn của bà Marple   G. Bi kịch gia đình - Too much love 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Nemesis/ Nữ thần báo oán 4. Endless night/ Đêm dài vô tận 5. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 6. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 7. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy   H. Khởi đầu khó tin - Hard to believe at beginning 1. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 2. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 3. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 4. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 5. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 6. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu   I. Cái kết 'khó nuốt' - The end made me not satisfied 1. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 2. The Hollow/ Thung lũng 3. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 4. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 5. Why didn't they ask Evans? Người trong ảnh   J. Quá ích kỷ - So selfish 1. Mrs McGinty's Dead/ Cái chết của bà McGinty 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Endless night/ Đêm dài vô tận 4. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 5. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần   K. Vụ hay và dở nhất của bà Marple - Best& Worst MsMarple TUYỆT: 1. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 2. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc 3. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 4. Nemesis/ Nữ thần báo oán 5. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ DỞ: 1. A Pocket Full of Rye/ Một nắm lúa mạch 2. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 3. At Bertram's Hotel/ Bí ẩn khách sạn Bectram   L. Vụ hay và dở nhất của Poirot - Best& Worst H.Poirot TUYỆT: 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 4. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 5. Peril at the End House 6. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 7. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 8. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 9. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel DỞ: 1. Dead Man's Folly/ Ngôi đền của người chết 2. Big Four/ Bộ tứ 3. Murder in Mesopotamia/ Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie 4. The Hollow/ Thung lũng 5. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu 6. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 7. Dumb witness/ Nhân chứng câm 8. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 9. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh (Riêng tui hok thấy danh sách dở này đúng lắm...)   M. Hơi rối và nhàm - A bit complicated & tired 1. Nemesis/ Nữ thần báo oán 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile Bảng xếp hạng này mang tính tham khảo. Có vài truyện hơi dài dòng với con trai nhưng chị em đọc lại thích kiểu tình củm sướt mướt ^^" Truyện không đề tên tiếng Việt, là những truyện chưa có bản dịch. Truyện mà mình không có đăng lên, là những truyện chưa có bản số hóa. Hiuhiu (_ _______)~~   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã) của tác giả Agatha Christie.
Người Thay Thế H23
Câu chuyện miêu tả việc CIA muốn đầu độc ,sát hại ,ám sát Fidel Castro nhưng ko thành .Kèm theo đó là sự tài giỏi những điệp viên Cuba trong “Người Thay Thế H23                 Người dịch : Đức Thuần – Hoàng Lan                 dịch từ bản tiếng Nga, Nhà xuất bản Quân sự, Bộ Quốc  Phòng Liên Xô, M., 1982         - Tác giả : Đ.  L. I – BA – NHÉC         - Nhà xuất bản : Quân đội nhân dân         - Năm xuất bản : 1985 *** Người thay thế H.23 ca ngợi tinh thần quả cảm,tài lược mưu trí của lực lượng an ninh Cu-Ba,tinh thần cảnh giác cách mạng cao của nhân dân đập tan các âm mưu phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế,bảo vệ vững chắc Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên lục địa Châu Mỹ. ***   Chiếc đồng hồ treo tường trong phòng tác chiến Phân cục Tình báo trung ương Mỹ ở Mai-a-mi thong thả điểm sáu tiếng. Đã chạng vạng tối. Mai-cơ, người chỉ đạo trực tiếp chiến dịch sắp được mở màn sau mười lăm phút nữa, giơ tay ấn nút chuông điện và cất cao giọng Tây Ban Nha khá sõi:         - Mời vào!         Một gã đàn ông cao lớn, to khoẻ nước da màu đồng hun hiện ra trước ngưỡng cửa. Bộ âu phục ghi sẫm, lịch sự đã tôn thêm dáng vẻ gã lên. Giơ tay nhấc nhẹ chiếc mũ phớt mốt nhất trên đầu và thong thả gỡ cặp kính đen khỏi mắt, gã nói nhỏ nhẹ:         - Chào ngài.         - Ngồi xuống đây, Rô-béc-tô,- Mai-cơ nói với người vừa vào phòng.         - Cám ơn ngài.         - Anh đã hiểu rõ nhiệm vụ của anh có ý nghĩa lớn thế nào chứ?         - Vâng, tôi hiểu rõ cả.         - Thời gian gần đây công việc của chúng ta không được trôi chảy cho lắm. Phần lớn những người của ta tung sang Cuba, bằng cách này hay cách khác đều bị cơ quan an ninh Cuba lần lượt cho vào tròng hết. Hoặc người của ta vừa mới hành động đã bị chúng bắt ngay, hoặc cũng có kẻ tự ra đầu thú với bọn an ninh Cuba.         Vừa nghe Mai-cơ nói, Rô-béc-tô vừa thong thả hút xì gà và ngắm nhìn những vòng tròn khói thuốc đang loang toả lên cao.         - Anh cần hỏi thêm điều gì nữa không? – Mai-cơ hỏi.         - Có ạ, tôi chỉ muốn hỏi một câu nữa thôi. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tôi sẽ trở về bằng cách nào?         Thay vì câu trả lời, Mai-cơ nhếch mép.         - Chỉ có mình Đ-45 là biết rõ nhiệm vụ cụ thể của anh ở Cuba. Ngay khi đến nơi anh cần gọi ngay số điện thoại này báo cho Đ-45 hay tin. - Rô-béc-tô liếc nhìn mảnh giấy Mai-cơ vừa chìa ra trước mặt và dễ dàng nhớ ngay các con số, sau đấy Mai-cơ đốt luôn mảnh giấy nhỏ.         - Như vậy là rất tốt, - Rô-béc-tô nói – nhưng ngài vẫn chưa trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi.         Nheo đôi mắt vẻ không hài lòng, Mai-cơ đáp:         - Đ-45 sẽ chịu trách nhiệm đưa anh rời khỏi đất Cuba, nhưng anh cần phải nhớ một điều quan trọng: Sau khi gọi dây nói báo cáo cho ông ta biết anh đã đến Cuba an toàn thì phải quên ngay ông ta ta đi. Đó chính là sự đảm bảo cho anh hoàn thành nhiệm vụ thắng lợi và mặt khác, đấy cũng chính là đảm bảo cho việc anh trở về nữa.         Mai-cơ giơ tay xem đồng hồ.         - Anh còn ý kiến gì nữa không?         - Hết rồi ạ.         Mai-cơ bước lại gần bàn giấy và bắt chặt tay con người đang đứng trước mặt mình. Nhìn thẳng vào mắt Rô-béc-tô, ông ta nói khẽ:         - Từ giờ phút này trở đi, anh sẽ lấy bí số là Đ-54. Đêm nay anh sẽ trở về đất Cuba. Chúc anh hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao!         - Cám ơn ngài!         Rô-béc-tô cúi đầu và bước ra khỏi phòng.         Đến cổng, gã lặng lẽ ngồi vào chiếc xe đã chờ sẵn và đưa mắt nhìn bãi trống đằng trước, hút tiếp điếu xì gà, nghĩ thầm:         - Giờ định mệnh đã đến!         Trong lúc đó từ cửa sổ phòng mình, Mai-cơ quan sát từng cử chỉ của Rô-béc-tô. Khi chiếc xe vừa rú ga lao đi, ông ta liền ấn nút máy bộ đàm, hạ lệnh:         - Hãy theo dõi hắn.         Suốt nửa giờ liên, Mai-cơ chăm chú xem xét tập tài liệu đặt trên bàn. Ông ta đặc biệt chú ý đến tập hồ sơ riêng của con người vừa mới rời khỏi phòng. Một hồi chuông điện thoại bất ngờ đổ dồn.         - Tôi nghe đây. Vâng, chính Mai-cơ đây… Được. Hẹn gặp lại nhé.         Cuộc nói chuyện trong điện thoại chỉ diễn ra gần một phút nhưng cũng đủ làm cho Mai-cơ xúc động mạnh. Đặt ống nghe xuống, ông ta đứng dậy và im lặng hồi lâu nhìn vào khoảng không xa xăm, mờ ảo. Bên tai Mai-cơ hình như vẫn còn vẳng lại giọng báo cáo của điện báo viên: “”Những bông hoa Ngài đặt sẵn sẽ được gửi theo địa chỉ số 24””. Điều đo có nghĩa là đêm nay điệp viên F-1 sẽ đổ bộ lên Cuba.         Ngả lưng xuống chiếc ghế bành, Mai-cơ quay số điện thoại:         - Trực ban hả?         - Vâng.         - Cho tôi nói chuyện với tiến sĩ.         - Ngài là ai đấy ạ?         - Mai-cơ đây.         - Xin ngài vui lòng chờ một phút.         Mới vài giây trôi qua, Mai-cơ đã cảm thấy nóng ruột. Cuối cùng trong ống nghe vang lên:         - Mọi việc tốt đẹp cả chứ, ông Mai-cơ?         - Hoàn hảo cả, thưa sếp. Một ngày nữa tôi sẽ chuẩn bị bay đi…         - Còn một vấn đề này, ông Mai-cơ ạ. Không có gì khó khăn phiền nhiễu với mấy tấm hộ chiếu ấy chứ?         - Không đâu ạ, thưa sếp.         - Thôi được rồi, vậy hãy hành động đi.         - Tôi sẽ gửi về biếu ngài chai rượu rum “ca nhây”. Xin chào ngài.         Mai-cơ đặt ống nghe xuống.         Ông ta xếp cẩn thận các tập tài liệu vào tủ sắt, mà mỗi ngăn đều có khoá riêng và dấu niêm phong đặc biệt. Sau khi đã kiểm tra lần cuối và đánh dấu riêng cho từng loại, Mai-cơ tắt đèn, bước ra khỏi phòng.         Trên đường ra xe, Mai-cơ thầm nghĩ: “Mọi việc đều đúng với dự tính. Cứ thể xem vận may của chuyến du lịch đang đợi ta ở Cuba sẽ ra sao. Đây không phải là lần đầu và ta cảm thấy cũng chưa phải là lần cuối”.         Thấy Tiến sĩ để nhẹ máy điện thoại lên bàn, người hầu phòng bước lại bàn và hỏi:         - Ngài dùng rượu trước khi về?         - Đúng đấy, anh Ha-xin-tô. Rót ra ly đi!... Khoan đã, loại Rum “Ca-nhây” uống ngon lắm hả?         Ha-xin-tô chăm chú nhìn Tiến sĩ rồi chậm rãi đáp:         - Lúc tôi rời Cuba, thưa ngài, tôi thường uống “Bác-ca-di” nhưng tôi được biết bọn cộng sản dự định đổi tên rượu “Bác-ca-di”. Hiên nay “Ca-nhây” có hai loại nhãn – vàng và trắng. Người ta nói nó cũng khá lắm.         - Cám ơn Ha-xin-tô. Một người bạn định mang về cho tôi chai “ca-nhây”, bởi thế tôi mới phải anh thêm vấn đề này.         Cùng thời gian đó tại một điểm đối diện với cảng La Ha-ba-na cách bờ hai mươi hải lý trên một chiếc tàu thuỷ đã tắt động cơ, lần lượt có hai người nhảy sang chiếc xuồng máy có tốc độ nhanh mang ký hiệu “U-20” bên mạn thành.         Một thanh niên trạc ba nhăm tuổi, dáng cao, nhưng tóc đã điểm bạc ngồi ở đầu mũi. Gã mặc chiếc quần bò, áo sơ mi kẻ sọc, ngoài khoác thêm chiếc Blu-dông đen, đôi mắt nhíu lại chăm chú nhìn dải bờ xa xa đang tiến dần lại. Bóng tối và sự yên tĩnh bao phủ xung quanh. Chiếc xuồng máy tắt động cơ và giờ đây chỉ còn nghe tiếng sóng oàm oạp vỗ nhẹ vào hai bên mạn.         Người thanh niên nhìn đồng hồ. Mười hai giờ kém mười lăm. Máy nổ lại từ từ vang lên, chiếc xuồng máy lao lên và khoảng năm phút sau đã trườn đến phần bắc hòn đảo nhỏ.         Nhảy nhẹ lên bờ, tay lăm lăm khẩu súng ngắn nhỏ, gã ẩn mình sau những tảng đá lởn chởm, nhấp nhô bên bờ biển. Nghe ngóng động tĩnh vài phút, gã băng mình chạy đến gần con đường lớn cách đấy không xa. Đến đó, gã dừng lại, thõng chân xuống hố cát cố làm ra vẻ bình tĩnh ngồi hút thuốc. Đằng xa kia có ánh đèn pha ô tô buýt nhấp nháy, và khi chiếc xe vừa dừng lại, gã nhanh chóng nhảy phóc lên xe. Thế là điệp viên F-1 đã thực hiện được phần đầu kế hoạch xâm nhập vào Cuba của mình.         Cũng lúc ấy, phòng trực ban của cơ quan An ninh Cuba nhận được một bức điện báo: “Điệp viên “Thần thông” sẽ đến thăm các anh. H-23”.   Mời các bạn đón đọc Người Thay Thế H23 của tác giả D. L. I-ba-nhec.