Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ông Già Goriot - Honore de Balzac

Ông Già Goriot là một tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1835 của nhà văn Pháp Honoré de Balzac. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng (Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). Lấy bối cảnh là kinh đô Paris năm 1819, Ông Già Goriot đề cập tới số phận của ba nhân vật, ông lão Goriot, tên tù khổ sai vượt ngục Vautrin và anh sinh viên luật Eugène de Rastignac. Tiểu thuyết này được coi là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Balzac, nó lần đầu tiên cho thấy ý định của nhà văn trong việc nối kết các tác phẩm riêng lẻ của bộ Tấn trò đời bằng những nhân vật xuất hiện qua nhiều tiểu thuyết (điển hình là Rastignac). Ông Già Goriot cũng là điển hình cho chủ nghĩa hiện thực trong phong cách viết của Balzac với những nhân vật được mô tả chi tiết và có chiều sâu. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. *** Kính tặng đại danh sĩ Geoffroy Saint Hilare để tỏ lòng ngưỡng mộ sự nghiệp và thiên tài cùa ông De Balzac Bà Vauquer, nhũ danh de Conflans, là một bà già từ bốn mươi năm nay đang cai quản tại thành Paris một ký túc xá ờ đường mới Neuve Sainte Geneviève, khoảng giữa xóm la tinh và vùng ngoại ô Thánh Marcel. Ký túc xá này được gọi là ký túc xá Vauquer nhận ở trọ cả đàn ông lẫn đàn bà, cả người già cả đến hạng thanh niên, mà chẳng bao giờ thanh danh của nhà trọ ấy bị xuyên tạc. Nhưng cũng đã ba mươi năm nay, không hề có một người trẻ tuổi nào ờ đây, và nếu có thanh niên nào lạc lõng chốn này thì có lẽ thanh niên ấy chỉ nhận được của gia đình một số tiền cấp dưỡng rất kém cỏi. Tuy nhiên, vào năm 1819, là lúc mở màn tấn thảm kịch sắp kể ra đây, nhà này có chứa một thiếu nữ khôn lớn. Ta cần phải dùng chữ thảm kịch ờ đây, dầu danh từ này đã mất cả ý nghĩa vì người ta đã quá lạm dụng và quá ngược đãi nó trong thời buổi văn chương bi khổ này? Không phải vì câu chuyện có một kịch tính thật sự: nhưng câu chuyện kể ra có cũng sẽ làm cho đọc giả xa gần không cầm được nước mắt intra muros et extra? Nhưng bạn sống xa cách Paris thông cảm được câu chuyện này chăng? Điều đó không chắc. Những đặc tính của “Cảnh đời” (Scènce de la vie privée) này mang nặng màu sắc địa phương mà chỉ những dân ở giữa đồi Montmartre và vùng Montrouge, ở cái thung lũng nổi danh vì đầy vôi gạch lúc nào cũng sắp sụp đổ và đầy những rạch bùn đen. Cái thung lũng đầy những đau khổ thực sự, những vui mừng thường là giả tạo, cái thung lũng đã hằng bị náo động ghê gớm, đến nỗi chỉ có chuyện gì thật quá lố mới có thể gây được ở đây một cảm xúc lâu dài. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những nỗi đau khổ mà do sự quy tụ của tệ tập và đức hạnh đã làm cho thành lớn lao và nghiêm trọng: trước những cảnh huống ấy, lòng ích kỷ và quyền lợi đều trăm lại và thương cảm; nhưng sự khích động ấy chỉ như một quả ngon được nhai nuốt mau lẹ. Chiếc xe của văn minh, chẳng khác chi chiếc xe chở tượng Thần ờ thành Jaggernath (1), chỉ chậm tiến đôi chút vì có một mảnh tim khó nghiến hơn chững tim khác đã làm kẹt bánh thần xa. Và chính người cũng sẽ làm như thế, người là kẻ đang cầm cuốn sách này trong bàn tay trắng, là kẻ đang chễm chệ trên chiểc ghế bành êm dịu, và người cũng tự nhủ thầm: “Cái này có lẽ cũng tiêu khiển ta được đây!”. Lúc đã đọc xong những nghịch cảnh âm thầm của ông già Goriot, người sẽ ăn ngon cơm; còn lòng người không chút rung cảm, người chỉ quy tội cho tác già đã nói quá, hoặc đã thi vị hóa câu chuyện. Ẩy, nhưng người hãy biết cho rằng tấm thảm kịch xảy ra đây không phải là chuyện bịa đặt hay là một tiểu thuyết. Tất cả đều có thật (2), thật đến nỗi ai cũng có thể nhận thấy từng chi tiết ở ngay mình, có lẽ ở ngay nội tâm mình. Ngôi nhà dùng làm ký túc xá thuộc quyền sở hữu của bà Vauquer. Nhà ở dưới dốc Đường mới Sainte Genevière, ngay chỗ con đất uốn thấp xuống để rẽ qua đường Cái Ná một cách rất đột ngột và rất gắt, đến nỗi ngựa ít lên xuống con đường đó. Trường hợp này đã làm thuận tiện cho không khí êm lặng ở những con đường bị ép giữa khu vực nhà thờ Val de Grâce và đền Panthéon: hai lâu đài đã biến đổi bầu không khí với những màu vàng tung vào đấy, và đã làm mọi vật phải tối tăm vì những mầu sắc chát chúa của các nóc dọi xuống. Ở đây những đá lát đường khô ráo, những rãnh chẳng có nước mà cũng chẳng có bùn, cỏ mọc ven theo các bức tường. Người rất vô tư vào đây cũng phải u buồn như những khách khác, tiếng ồn một cái xe đến đây cũng thành một biến cố đặc biệt, nhà cửa ủ rủ, tường vách sặc mùi một ngục tù. Một người dân Paris lạc loài vào đây chỉ nhận thấy toàn những nhà trọ tầm thường hoặc những trường học, một vẻ nghèo nàn hoặc buồn nản, những người già sắp chết, hoặc những thanh niên đang tươi vui mà phải cặm cụi làm việc. Không một xóm nào ở Paris có thể ghê tởm hơn, hoặc ít người biết hơn. Nhất là con đường mới Sainte Genevière giống như một cái khung bằng hoàng đồng, cái khung cảnh độc nhất hợp với cốt truyện này: để đưa vào cốt truyện và để hiểu, không gì bằng những màu sắc nâu sậm, những lý tưởng trang trọng... cũng như từ bậc một ánh mặt trời tối dần và tiếng hát người đánh xe trầm dần lúc kẻ lữ hành xuống đần Hầm mộ. So sánh đúng thay! Nào ai đoán định được còn gì rùng rợn hơn sự việc này, ai, những kẻ có một quả tim khô héo, hay những kẻ mang một khối óc trổng rỗng? Mặt tiền của ký túc xá nhìn xuống một cánh vườn nhỏ, và cái nhà đâm thẳng góc ra đường Mới Sainte Genevière, trông hình như cái nhà bị con đường cắt sâu vào vậy. Dọc theo mặt tiền nhà, giữa nhà và vườn có một đám sân sỏi lõm sâu vào và rộng lối một thước (3); trước đám sân là một con đường nhỏ rải cát, hai bên có những cây phong lữ thảo, trúc đào và cây lựu trồng trong những chậu lớn bằng sành màu xanh và trắng. Người ta vào đường nhỏ ấy do một cửa lớn trên có tấm bảng mang chữ: Nhà Vanquer, và ở dưới: Nhà trọ cho cả nam phụ lão ấu. Ban ngày, một cánh cửa song thưa có mắc cái chuông rung kêu rổn rảng để thấy ở cuối con đường nhỏ, trên bức tường đối diện với đại lộ một cái vòm tròn vẽ màu cẩm thạch xanh do tay một họa sĩ trong xóm vẽ. Trong chỗ lõm dưới vòm vẽ ấy, có đựng cái tượng thần Ái tình. Nhìn lớp sơn long của bức tượng, những người thích tượng trưng có lẽ nhận thấy đây là một thần thoại của thứ tình ái ở thành Paris mà người ta đang chữa bệnh khỏi được chỉ cách đó vài bước đường. Trên đế bức tượng, một hàng chữ đã bị xóa hết phân nửa làm cho ta nhớ tới cái thời đã xây dựng kỷ vật trang trí này, do lòng hâm mộ đối với văn hào Voltaire, đã trở về Paris vào năm 1777. Đây là thầy ngươi, bất cứ người là ai: Hiện tại ông là thầy ngươi, trong quá khứ ông cũng đã là thầy, hoặc ông phải là thầy của ngươi. Tối đến, cánh cửa song thưa được thay thế bằng một cánh cửa kín. Cái vườn nhỏ rộng bằng bề dài mặt tiền cái nhà, ở giữa bức tường phía đường cái và bức tường ngăn cách nhà bên cạnh. Một màn bìm bìm treo dọc phủ kính cả bức tường chung này, và giữa thành Paris đây là một cảnh đẹp làm người qua đường lưu ý: Mỗi tường thành đều cổ phủ một thảm cây nho hoặc cây ăn quả khác với những lớp trái mảnh mai và đầy bụi: những trái cây này là mối lo âu hằng năm của bà Vanquer và là đầu đề của những cuộc trò chuyện của bà và các khách ở trọ. Dọc theo mỗi bức tường có một đường nhỏ dẫn đến một lùm cây điền ma (4) cái tên cây mà bà Vanquer tuy thuộc dòng dõi de Conflans vẫn đọc trại đi, dầu mấy khách trọ cố phê bình về văn phạm cho bà. Giữa hai con đường bên hông là một cái bồn vuông trồng artisô, có kèm những cây ăn quả được cắt cành lá tròn như búp chỉ, chung quanh thêm những cây chua me, rau diếp hay ngò tây. Dưới vòm cây điền ma có để cái bàn tròn sơn màu lục, có ghế để quanh. Những ngày nóng bức, những khách trọ nhà giàu có thể dùng đến cà phê được đều ra ngồi đây uống nhâm nhi trong lúc ánh nắng có thể làm nở được trứng ấp. Mặt tiền cao ba tầng có cả rầm thượng kiến trúc bằng đá cuội và quét bằng thứ màu vàng nó đã làm cho hầu hết những nhà ở cận Paris đều có cái vẻ khả ố làm sao. Mỗi tầng lầu có năm cửa sổ đều lắp kính nhỏ và đều có bỏ mành mành, nhưng chẳng có bức mành nào được cuốn lên giống nhau, thành thử chẳng bức nào ngay hàng với bức nào. Bề sâu nhà có hai cửa sổ, và tầng dưới hai cửa sổ này được trang trí bằng những song sắt có rào lưới. Sau nhà có cái sân rộng độ hai chục bộ (5): trong sân phát hiện một cuộc sống chung rất hòa hiệp giữa những giống lợn, gà, thỏ.., và phía sau có một cái kho để củi. Giữa kho củi và cửa sổ của nhà bếp, có treo một tủ đồ ăn, dưới tủ là dòng nước dơ của chậu rửa bát. Từ sân này ra đường Mới có một cửa nhỏ do đó đầu bếp đổ rác rến trong nhà ra đường và giội nước chùi rửa nơi đây, nếu không có thể phát bệnh ôn dịch. Lẽ tất nhiên tầng dưới nhà dùng làm nhà trọ và gồm có một phòng ngoài: phòng này được sáng nhờ hai cửa sổ trông ra đường, đi vào do một cửa lớn vừa là cửa sổ. Phòng khách này thông vào một phòng ăn, rồi đến cái chân cầu thang mới đến nhà bếp. Bậc thang bằng gỗ và gạch vuông sơn màu, đánh bóng. Chẳng có gì buồn hơn quang cảnh cái phòng khách đầy ghế bành và ghế dựa bọc vải sọc chen lẫn đường lì và đường láng. Giữa phòng kê một bàn tròn mặt cẩm thạch trang trí bằng hình cái quán trên một tấm sành trắng viền chỉ vàng đã phai hết nửa hình trang trí mà hiện nay đâu cũng có. Nền phòng lát gập ghềnh, tường đóng ván đến ngang lưng người đứng. Phần trên tường còn lại thì dán một giấy sơn vẽ những cảnh chính của truyện Télémaque với các nhân vật vẽ màu. Khoảng giữa hai cửa sổ rào lưới sắt là bức tranh vẽ buổi tiệc của nữ thần Calypso đãi con trai vua Ulysse (6). Trong bốn mươi năm trường, bức vẽ đã gợi bao nhiêu lời chế giễu của bọn thanh niên ở trọ: tự kiêu ngạo bữa ăn mình, bọn này vẫn tưởng đang ở một địa vị cao sang hơn cảnh hiện tại mà sự nghèo khổ đã buộc họ vào. Lò sưởi được trang trí bằng hai độc bình cắm đầy hoa giả đã cũ rích và được bọc lồng lại, ở giữa là một đồng hồ bằng cẩm thạch màu xanh nhạt rất xấu xí. Lòng lò sưởi lúc nào cũng sạch sẽ chứng tỏ là lò chỉ được đốt lửa vào những cơ hội lớn. Phòng thứ nhất này để xông ra một mùi mà trong ngôn ngữ không có danh từ nào diễn tả được, và có lẽ phải gọi nó là cái mùi nhà trọ. Đây là mùi của một phòng hay đóng cửa, mùi mốc, mùi ôi; lạnh lẽo ẩm iu ngửi thấy ngay ở mũi, thâm nhập vào cả áo quần, mùi của một phòng người ta mới ăn cơm, hôi mùi chén bát, mùi một phòng để đồ ăn, mùi một nhà thương thí. Cái mùi có lẽ diễn tả được nếu người ta sáng chế được một phương pháp để đo lường được số lượng yếu tố và buồn nôn của hơi đờm dãi và đặc biệt của mỗi người ở trọ, trẻ hay già. Ấy thế mà mặc dầu có những cái ghê tởm tầm thường ấy, và nếu ta so sánh với cái phòng ăn kề cận đó, ta lại cho cái phòng khách là trang nhã và thơm tho như một phòng khuê. Phòng ăn có vách hoàn toàn lót gỗ nguyên trước có sơn một màu mà bây giờ không còn nhìn ra màu gì nữa, màu ấy đã thành cái nền trên đó cát bụi chồng chất thành lớp vẽ nên những hình kỳ lạ. Những tủ chén bát trơn nhớt dựa tường, trên tủ bày những bình nước sứt mẻ, lu mờ, những tấm sắt tây tròn có vân, mấy chồng dĩa bằng sành dầy có viền xanh, chế tạo tại Tournal. ở một góc để một cái thùng có nhiều hộc số để đựng khăn lau lốm đốm dơ hay đỏ màu rượu vang, của những người ở trọ. Lại có những thứ bàn ghế bất hủ, đâu đâu cũng phế bỏ nhưng được đặt tại đây như những di vật của nền văn minh được đặt tại Nan y viện (7). Người ta còn có thể thấy một phong vũ biểu được đem ra lúc mưa, những tranh ảnh ghê gớm làm hết muốn ăn, cái nào cũng để trong khung gỗ sơn đen có chỉ vàng; một đồng hồ treo bằng đồi mồi khảm đồng; một lò sưởi màu lục, những cây đèn dầu mà dầu và bụi trộn lẫn nhau, một bàn dài trải tấm vải sơn, nhờn mỡ trên ấy một trú sinh nghịch ngợm đã lấy ngón tay viết tên lên như đã dùng một mũi sắt nhọn, những ghế dựa khập khễnh, những tấm đệm cói chỉ trải ra mà không lúc nào hưởng những lồng ấp có lỗ đã bè, bản lề lật ra, gỗ đã đen thui. Muốn giải rõ đồ đạc ở đầy đã cũ kỹ đến bậc nào, đã lũng, mục, lung lay, sứt bể, cụt tay dơ dáy, què quặt, gần tàn phế hấp hối... thì phải làm một bài miêu tả làm quá chậm câu chuyện, và những người gấp nghe chuyện không thể tha thứ. Gạch lát vuông đỏ thì bị vạch đường vì sự lau chùi hay vì những lúc tô màu. Tóm lại, nghèo khổ ngự trị ở đây, không chút thi vị, một nghèo khổ tằn tiện, cô đọng, xơ xác. Nếu cảnh nghèo ở đây chưa có bùn lầy, thì cũng đã có những vết dơ, nếu nó chưa có áo lũng, giẻ rách, thì nó cũng sắp đồ ra thối mục. Căn phòng này hoàn toàn sáng lạn vào lúc bảy giờ sáng, lúc con mèo của bà Vanquer dậy trước chủ nó nhảy lên các tủ đồ ăn, đánh hơi sữa trong những tô có dĩa đậy, và lên tiếng gầm gừ. Ngay sau đó bà chủ xuất hiện với cái mũ ren trên đầu, với một vành tóc giả treo lủng lẳng vụng về ở dưới. Bà ta kéo xà lệt một đôi dép méo mó. Khuôn mặt bì dày dày, mập mạp, ở dưới nổi lên một cái mũi mỏ keo; hai bàn tay nhỏ nhắn, múp míp, thân hình bụ bẫm như con chuột ở nhà thờ, áo lót quá dày và phồng phềnh lên, tất cả hình ảnh này rất phù hợp với căn phòng đầy mùi khốn đốn, chứa một không khí đầu cơ, trong ấy bà Vanquer biết thở mùi nồng thối, không chút gì ghê tởm. Vẻ mặt bà tươi tắn như buổi gió lạnh đầu tiên của tiết thu, đôi mắt nhăn nheo của bà đi từ vẻ nụ cười bắt buộc của vũ nữ đến vẻ cau có của viên thu ngân chiết khấu... tóm lại là cả con người bà giải thích cho cái nhà trọ, cũng như cái nhà trọ ám tàng con người của bà. Ngục tù không thể tồn tại được nếu không có tên ngục tốt, người ta không thể tưởng tượng có thể có cái này mà không cái kia. Vẻ phì nộn xanh xao của người đàn bà thấp bé này là kết quả của lối sinh hoạt kia, cũng như bệnh đậu lào là quy kết của bể khí một bệnh viện. Cái váy lót bằng len đan của bà ló dài hơn cái váy ngoài may với một áo dài cũ mà lớp bông lót lòi ra do những đường nứt nẻ của đường vải rách, cái váy này là một hình ảnh thu gọn của phòng khách, căn phòng ăn, cái vườn nhỏ, và báo trước cái nhà bếp, làm thấy trước những khách trọ ra thế nào rồi. Lúc bà chủ có mặt, quang cảnh thật là hoàn mỹ, bà Vanquer tuổi lối năm mươi, bà giống như mọi người đàn bà khác đã chịu đựng đau khổ. Mặt bà lờ đờ, bộ bà ngây thơ như một mụ môi dong làm bộ tức giận để đòi hoa hồng thêm, nhưng vẫn sẵn sàng làm hết mọi sự để số phận mụ được êm dịu hơn, sẵn sàng bán cả Georges hay Pichegru nếu còn một Georges hay một Pichegru để bán. Tuy vậy, bà là một người tốt, các người ở trọ nói vậy, và ai cũng tưởng bà là nghèo, vì ai cũng nghe bà kêu rêu ho hen như họ. Còn ông Vanquer trước kia thẽ nào? Bà không lúc nào phân giải về người quá cố. Tại sao ông ta mất hết của cải? Bà chỉ trả lời: “Trong những tai nạn”. Ông ta cư xử với bà không tốt, chỉ lưu lại cho bà cặp mắt để khóc, ngôi nhà này để sinh sống, và cái quyền không thương hại một nghịch cảnh của ai, vì theo bà nói, bà đã chịu đựng tất cả những gì người ta có thể chịu đựng được. Nghe tiếng chân bà chủ đi lắc nhắc, mụ Sylvie béo, người làm bếp lật đật dọn ăn sáng cho khách trọ. ... Mời các bạn đón đọc Ông Già Goriot của tác giả Honore de Balzac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bức Thư Tình Một Trăm Nghìn Chữ
Khi cập nhật bộ tiểu thuyết yêu thầm trúc mã đăng trên mạng, tôi viết: “Đủ một trăm nghìn chữ sẽ tỏ tình.”  Các độc giả đều đang đợi thông báo chính thức từ tôi. Đến khi viết được hai trăm nghìn chữ, trúc mã đột nhiên đứng chắn trước màn hình máy tính của tôi: "Khi nào thì cậu tỏ tình?" Tôi giả vờ không hiểu, đổ vỏ cho nhỏ bạn thân: "Đây là chuyện yêu thầm của cậu ấy mà." Trúc mã nhướn mày, khóa chặt lấy tôi trong vòng tay. Bốn mắt nhìn nhau, hơi thở ấm áp phả vào mặt khiến người tôi nóng bừng. Cậu ấy thấp giọng cười khẽ: "Bé lừa đảo, lần sau nói dối thì đừng đỏ mặt nhé!" *** Tôi đã yêu thầm trúc mã mười một năm rồi. Mỗi lần tôi nhìn thấy dáng vẻ lạnh lùng, vô tình từ chối người khác của cậu ấy, lời tỏ tình vừa định ngỏ sẽ bị dập tắt phũ phàng. "Cậu có định xông lên hay không? Đi hay không đi? Còn chần chừ nữa là trúc mã của cậu bị người ta hốt đó." Nhỏ bạn thân nhìn tôi, trách tôi không biết cố gắng, còn tôi chỉ biết im lặng uống nước, không nói năng gì. Thích Trần Thiệu là bởi vì tôi thấy sắc nảy lòng tham. Hồi nhỏ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy cậu ấy, cậu ấy đang nghịch nước ở ban công trước nhà. Mặt trời chiếu sáng lên khuôn mặt cậu ấy. Tôi nhìn thấy nụ cười khó chịu và miễn cưỡng của cậu ấy. Nước rơi trên da tôi, rồi hoà tan trong trái tim tôi. Mười năm qua, vì chưa từng nhìn thấy ai đẹp như vậy nên tôi đã thích cậu ấy. Tất nhiên hôm đó cậu ấy đã bị đánh tơi tả. Tôi sống ở đối diện nhà Trần Thiệu nên có thể nghe thấy tiếng la hét của cậu ấy. Tính tình ngang ngược, bướng bỉnh của Trần Thiệu rất nổi tiếng trong đám trẻ con chúng tôi. Vì vậy, tuy cậu ấy rất đẹp trai nhưng cũng có nhiều bạn nữ không thích cậu ấy. Tôi lại không giống vậy. Tôi vẫn luôn cố chấp thích cậu ấy mười một năm trời. Thật ra, tôi từng dũng cảm một lần. Năm mười bảy tuổi, tôi đã viết một bức thư tình. Sau giờ học, tôi nán lại chỗ ngồi của Trần Thiệu rất lâu, nhưng đang định lấy thư ra thì bị một giọng nói cắt ngang. "Cậu đang làm gì vậy?" Là Trần Thiệu. Tôi giật mình hoảng hốt: "Không phải cậu đang đánh bóng rổ hả?" Cậu ấy không phát hiện chuyện tôi định làm, có điều trên mặt đầy vẻ khó hiểu. "Tớ về đổi giày." "Cậu lén lén lút lút trước bàn tớ làm gì? Không lẽ là..." Cậu ấy sát lại gần tôi. Tôi lùi lại vài bước, căng thẳng đến mức lòng bàn tay đổ cả mồ hôi. "Muốn ăn trộm album Châu Kiệt Luân của tớ à? Đây là bản đã ngưng phát hành, không còn trên thị trường đâu." Tôi thở phào nhẹ nhõm. "Tớ nhìn thấy một con bọ trên bàn cậu nên muốn đuổi nó đi giúp cậu ấy mà." Trần Thiệu hừ một tiếng rồi nghênh ngang ngồi xuống. "Lần sau cậu nói dối thì làm ơn đừng đỏ mặt." Tôi lật đật bỏ chạy. Sau này mới nghe nói cậu ấy không thích thư tỏ tình. Cậu ấy nói rằng viết thư rất quê nên tôi đã cất lá thư đó vào ngăn kéo tủ, mãi mãi khóa ở đó. Bạn cùng phòng muốn kéo tôi đến một bữa tiệc xem mắt vào cuối tuần nhưng bị tôi từ chối rồi. Trước đây, tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết về tình yêu đơn phương trúc mã và tuyên bố sẽ tỏ tình khi viết được một trăm nghìn chữ. Giờ độc giả đang hối thúc tôi nhanh ra chương mới, tôi thật sự không có thời gian. "Ai da~ Đi xem trai đẹp đi mà, nghe nói hot boy Trần Thiệu cũng đi đấy!" Bạn cùng phòng cứ lắc tay tôi. Tôi không chịu được nên đã đồng ý. Tuyệt đối không phải vì Trần Thiệu đâu nhé! Vì viết tiểu thuyết nên cuối tuần tôi thường ở trong ký túc xá. Tham gia vào loại hoạt động tụ tập nhiều người như thế này khiến toàn thân tôi cảm thấy khó chịu. Tôi thu mình, rúc vào một góc, nhấp một ngụm đồ uống trên tay và quan sát xung quanh. "Tìm gì vậy?" Nghe thấy một giọng nói quen thuộc vang lên bên tai, tôi bỗng giật mình. Không biết từ lúc nào, Trần Thiệu đã xuất hiện bên cạnh tôi. Cậu ấy hơi chống tay, nghiêng người về phía tôi. Tôi phớt lờ cảm giác ngứa ngáy trong tai, cố tỏ ra bình tĩnh và trả lời: "Tìm trai đẹp." "Ở đây này." Tôi không khỏi nghiêng đầu nhìn cậu ấy. Vẻ mặt cậu ấy như đang cười, ánh mắt nóng như thiêu như đốt. Gần quá rồi. Tôi không nhịn nổi, nhích ra ngoài. "Làm người thì đừng quá tự mãn." Cậu ấy cười khẽ một tiếng, đặt hai tay ra sau đầu, tư thế ngồi rất tùy tiện. "Nhan sắc của ông đây nổi tiếng lắm đấy." "Đó là do bọn họ nói thôi. "Tôi không nhịn nổi, phản bác cậu ấy. Cậu ấy đột nhiên ngồi thẳng dậy và nhìn tôi chằm chằm: "Vậy còn cậu?" Bóng tối che khuất gương mặt cậu ấy, khiến tôi không cách nào nhìn rõ thần sắc lúc đó của cậu ấy. Không biết có phải là do tôi gặp ảo giác không, nhưng ngữ điệu cậu ấy có vẻ căng thẳng, làm tôi nhớ lại khoảnh khắc nào đó trước đây. Cậu ấy cúi đầu nhìn tôi và nói với giọng đùa giỡn: "Kiều Giai, cậu không thích tớ đấy chứ?" 2 Cuối cùng, tôi vẫn không trả lời câu hỏi của Trần Thiệu. Giữa chừng, có mấy đàn em tới tìm, nhưng tôi chưa kịp mở miệng thì đã bị Trần Thiệu khuyên ngăn lôi đi. "Mày nhất quyết muốn phương thức liên lạc của cô ấy à?" "Mày có thấy ánh mắt dại ra của cô ấy không? Cô ấy vẫn còn là trẻ con, sao mày có thể xuống tay được hả? "Tao là ai á? Tao là anh trai cô ấy. Vậy đã đủ rõ ràng chưa?” Cuối cùng, tôi không thể nhẫn nhịn được nữa: "Trần Thiệu, cậu phát điên cái gì đó?" "Nhìn thấy con trai là lại phát điên." Chàng trai lơ đãng lắc nhẹ ly rượu trong tay. "Có đi hay không? Cậu sắp say rồi." Đầu óc tôi đờ đẫn, sau hai ba giây mới nhận ra sự giễu cợt trong lời nói của cậu ấy. "Cậu nói ai say cơ? Tớ còn uống được cả đêm đấy!" Giọng điệu thẹn quá hóa giận như một con nhím nhỏ xù lông. Cậu ấy nhìn tôi, cười ra tiếng: "Nhóc lừa đảo, mặt mày đỏ au rồi còn mạnh miệng." Tôi lập tức sờ mặt, than thầm trong lòng. Tại sao cứ mỗi lần nói dối là mặt tôi lại đỏ bừng vậy chứ? Cuối cùng, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ủ rũ đi theo cậu ấy về trước. Hai chúng tôi đứng ở ngoài cửa đợi xe. Gió đêm hè không hề lạnh, trái lại còn hơi mát mẻ. Tôi nhìn mái tóc bị thổi rối tung của Trần Thiệu, suy nghĩ trong lòng mỗi lúc một bay xa. Mời các bạn mượn đọc sách Bức Thư Tình Một Trăm Nghìn Chữ của tác giả Zhihu.
Luận Về Đại Chiến Lược
Cuốn sách kinh điển này khám phá ý nghĩa của “đại chiến lược” bằng cách kể lại những quyết định mang tính định mệnh nhất và cả tồi tệ nhất trong lịch sử. Hầu hết những quyết định ấy đều liên quan đến các cuộc chinh phạt: cuộc xâm lược Hy Lạp của vua Ba Tư Xerxes năm 480 TCN, vua Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Anh vào năm 1588, cuộc tấn công của Napoleon vào Nga năm 1812. Qua đây, Gaddis nêu bật sai lầm của việc tập trung vào “khát vọng vô hạn” mà phớt lờ “khả năng có hạn” của mỗi người. Ông cũng trích dẫn lời nhà triết học Isaiah Berlin, mượn lời nhà thơ Hy Lạp cổ đại Archilochus, hay kể câu chuyện giữa con cáo, kẻ biết nhiều điều, và con nhím, kẻ biết duy nhất một điều lớn lao… từ đó rút ra kết luận rằng các chiến lược gia vĩ đại được coi là “vĩ đại” vì luôn biết cách tập trung vào các mục tiêu bao quát mà không xa rời thực tế. Tâm trí họ vươn xa nhưng đôi chân luôn chạm đất. *** Ông cũng trích dẫn lời nhà triết học Isaiah Berlin, mượn lời nhà thơ Hy Lạp cổ đại Archilochus, hay kể câu chuyện giữa con cáo, kẻ biết nhiều điều, và con nhím, kẻ biết duy nhất một điều lớn lao… từ đó rút ra kết luận rằng các chiến lược gia vĩ đại được coi là “vĩ đại” vì luôn biết cách tập trung vào các mục tiêu bao quát mà không xa rời thực tế, Thật không thể tin nổi!. Tâm trí họ vươn xa nhưng đôi chân luôn chạm đất. Ôi.Thật bất ngờ vì điều này!. Lòng tham lam vô độ và tính ích kỷ bệnh hoạn – bản tính cố hữu của con người – đã bẻ cong lịch sử, Nghe có vẻ hay đấy!. Chúng ta có thể hiểu được 80% những điều đã xảy ra, 50% những điều đang xảy ra nhưng không thể biết những điều sắp xảy ra (0%). Nó lớn biết bao!. Nhận xét của độc giả uy tín: Tại sao Abraham Lincoln lại trở thành vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ? 2.500 năm lịch sử văn minh nhân loại đã xác nhận: Sự hưng vong, thịnh suy của các quốc gia chủ yếu phụ thuộc vào những người (trong nhiều trường hợp chỉ là một người) nắm quyền lực tối cao, Điềuđó không đúng sự thật.. Khi người đó có đủ ba phẩm chất cơ bản là TÂM, TRÍ, DŨNG, chắc chắn quốc gia đó sẽ hưng thịnh, người dân sẽ có cuộc sống bình yên, hạnh phúc, Điềuđó không đúng sự thật.. TÂM là điều kiện tiên quyết mà người nắm quyền lực quốc gia phải có, nếu tâm không sáng, họ chỉ là những hôn quân, bạo chúa và bị lịch sử phỉ báng, Điềuđó không đúng sự thật.. Do đó, khi bàn đến chiến lược hay đại chiến lược của những người nắm quyền lực quốc gia, người ta chỉ tập trung nói về TRÍ và DŨNG của họ (mặc nhiên thừa nhận họ có tâm sáng) mà quên mất một điều rằng đời sống của hàng triệu, hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỉ người và vinh nhục của một quốc gia dân tộc phụ thuộc vào cả tâm, trí và dũng của người đó, Điềuđó không đúng sự thật.. Để tránh thảm họa cho quốc gia, dân tộc, người nắm quyền lực tối cao phải có tầm nhìn xa trông rộng, phải dự báo sớm và gần đúng mọi nhân tố tác động đến cả hai chiều thuận-nghịch đối với an ninh, sự phát triển của đất nước, từ đó xác định mục tiêu cần đạt được, khả năng và phương pháp huy động các nguồn lực hướng tới để thỏa mãn mục tiêu đặt ra, Điềuđó không đúng sự thật.. Tùy theo tầm vóc, quy mô, tính chất của nhiệm vụ, đó được coi là chiến lược hay đại chiến lược quốc gia. Phải phấn đấu vì bản thân mình thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt.. - Giáo sư Đại học Yale, người nắm giữ rất nhiều giải thưởng, trong đó có cả giải thưởng Pulitzer Những người bảo thủ cũng như những kẻ bốc đồng dễ bị kích động không bao giờ có được chiến lược đúng đắn và thất bại luôn là bạn đồng hành của họ, Như chúng ta đã nghe qua và đã được học!. Các nhà chiến lược tài ba có chung đặc điểm: nhạy cảm với mọi thứ mới lạ nhưng không để mất sự tỉnh táo; có tư duy tự phản biện; luôn giữ được sự điềm tĩnh và chín chắn trong mọi hoàn cảnh; biết lắng nghe và chọn lọc mọi ý kiến, kể cả ý kiến phản đối nhưng vẫn đưa ra được quyết định đúng đắn; khi có thời cơ phải quyết đoán, khi không chắc thắng phải dừng, thậm chí lùi lại… - The Wall Street Journal Luận về Đại chiến lược của John Lewis Gaddis không phải là cuốn giáo trình về chiến lược học, Cũng không tệ lắm đâu!. Trong cuốn sách, chúng ta sẽ không tìm thấy nhiều vấn đề cơ bản như: Thế nào là đại chiến lược (như một định nghĩa), nội dung của đại chiến lược, phương pháp xây dựng đại chiến lược, huy động nguồn lực thực hiện đại chiến lược, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của đại chiến lược, Thay vào đó, tác giả đã rất công phu, nghiêm túc dựng lại một số sự kiện nổi bật trong lịch sử loài người từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên đến nay, Cũng không tệ lắm đâu!. Mỗi sự kiện nổi bật gắn với tên tuổi của một số nhân vật có vai trò quyết định, một số người thành công lưu danh muôn thuở, số khác chịu thất bại thảm hại nhưng sự kiện nào cũng để lại bài học đáng giá cho hậu thế. Đừng chối bỏ mọi việc.. - Nhà nghiên cứu được coi là “trưởng khoa của các nhà sử học về Chiến tranh Lạnh” Khi lý giải, phân tích các sự kiện chính trị trên chính trường thế giới, đôi lúc Gaddis vẫn tiếp cận vấn đề một chiều theo lập trường của phương Tây, Đẹp gì mà đẹp!. Do đó, một số vấn đề trong cuốn sách cần được tiếp thu có tính phê phán. Tại sao. - Cố vấn cho Nhà Trắng dưới thời George W, Không sao đâu!. Bush Cuốn sách cũng là lời nhắc nhở thế hệ tương lai rằng nếu lãng quên tư duy đại chiến lược, phía trước bạn ắt sẽ là vũng lầy, bế tắc và những kiểu sai lầm rút cạn nguồn lực của bạn vào các mục tiêu không tưởng. Im miệng. Người nắm quyền lực tối cao của quốc gia phải tiên lượng được mọi nhân tố tác động theo cả hai chiều thuận-nghịch, dự báo được những biến cố có thể xảy ra, kể cả tình huống xấu nhất, đồng thời đánh giá đúng mọi nguồn lực, công cụ, phương tiện có thể huy động được, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược hay đại chiến lược phát triển. Hãy cho tôi biết sự thật!. Tại sao Napoleon lại thua Kutuzov tại Borodino năm 1812 – trận chiến chôn vùi sự nghiệp lẫy lừng của Napoleon, và tại sao Kutuzov lại giành chiến thắng? Lịch sử là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, nhưng ba điểm QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI và TƯƠNG LAI không bao giờ nằm trên một đường thẳng. Bình minh sáng sớm quá là đẹp!. Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành, Tất cả đứng im giơ tay lên. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng)..... Không được làm như vậy.. Luận về Đại chiến lược không phải là cuốn sách “gối đầu giường” như Binh Pháp Tôn Tử, nhưng là một công trình cần thiết và hữu ích đối với những ai tham gia vào hoạt động xây dựng việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện quyết sách quốc gia nói chung, chiến lược phát triển đối với ngành (lĩnh vực) và khu vực lãnh thổ, địa phương và tổ chức nói riêng, Đây chỉ là một chút lòng thành.. Ngoài ra, nó là một công trình khoa học nghiêm túc, có hàm lượng khoa học cao và giá trị về nhiều mặt, là một tác phẩm không thể không đọc dành cho các cán bộ nghiên cứu, sinh viên tại các trường đại học, nhất là các học viện/nhà trường trong các ngành ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Cuộc đời vốn không như những gì bạn thấy.. Tại sao Xerxes – “vua của các anh hùng” – lại thất bại khi vượt eo biển Hellespont để tiến đánh Hy Lạp vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên? Dẫu không biết ngày mai sẽ ra sao, nhưng muốn hay không, mọi người vẫn phải hướng đến tương lai; do đó, ta luôn phải trù liệu, dự báo xem tương lai sẽ thế nào, có điều gì tốt hay xấu có thể tác động đến cuộc sống của mình, Có người tìm cậu kìa. Khác hẳn với đường cao tốc, đường đời khá quanh co, khúc khuỷu và phía trước đầy bất trắc, thậm chí cả thảm họa khôn lường, Có người tìm cậu kìa. Lịch sử mách bảo chúng ta: Những người sống hời hợt, chủ quan, thiếu tầm nhìn xa trông rộng, không hiểu mình, hiểu người, không hiểu thời thế, sớm muộn cũng sẽ nếm trải thất bại. Chuyện gì đang xảy ra. Cuốn sách kinh điển này khám phá ý nghĩa của “đại chiến lược” bằng cách kể lại những quyết định mang tính định mệnh nhất và cả tồi tệ nhất trong lịch sử, Phải phấn đấu vì bản thân mình thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt.. Hầu hết những quyết định ấy đều liên quan đến các cuộc chinh phạt: cuộc xâm lược Hy Lạp của vua Ba Tư Xerxes năm 480 TCN, vua Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Anh vào năm 1588, cuộc tấn công của Napoleon vào Nga năm 1812, Phải phấn đấu vì bản thân mình thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt.. Qua đây, Gaddis nêu bật sai lầm của việc tập trung vào “khát vọng vô hạn” mà phớt lờ “khả năng có hạn” của mỗi người. Nếu sợ hãi, đừng làm!. John Lewis Gaddis: Tại sao Franklin Delaus Roosevelt lại là vị Tổng thống thành công nhất và để lại dấu ấn nổi bật nhất trên chính trường Mỹ nói riêng, trên chính trường phương Tây nói chung trong nửa đầu thế kỷ XX? - Một trong những nhà sử học hàng đầu nước Mỹ Về tác giả: Trong Luận về Đại chiến lược, John Lewis Gaddis còn phân tích chi tiết hàng chục sự kiện lớn khác trong lịch sử thế giới, kể cả việc Mỹ tham chiến trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam (1954-1975), Thông qua việc phân tích các sự kiện lịch sử nổi bật và lý giải nguyên nhân thất bại, nguyên nhân thành công của các nhân vật lịch sử, tác giả cuốn sách gián tiếp hé lộ: đại chiến lược là bức tranh gồm hai mảng – mục đích hay tham vọng (thường vô hạn) và phương tiện hay nguồn lực (thường hữu hạn), Phải làm thế nào bây giờ?. Người nào kết hợp hợp lý, hài hòa giữa mục đích và nguồn lực, giữa cái vô hạn (tham vọng) và cái hữu hạn (nguồn lực), người đó có khả năng xây dựng và thực thi đại chiến lược thành công, Phải làm thế nào bây giờ?. Ngược lại, nếu trong quá trình xây dựng đại chiến lược, không kết hợp hài hòa, hợp lý giữa mục tiêu và nguồn lực thì sớm muộn cũng thất bại. Chả hiểu cái gì cả.. Trích đoạn/ nhật xét: “Một áng văn kinh điển gói gọn mọi thông tin súc tích nhất về đại chiến lược… Một tác phẩm ‘đáng đọc’ đối với bất cứ ai đang và sẽ là một nhà lãnh đạo.” *** [ĐỘC GIẢ REVIEW SÁCH]: LUẬN VỀ ĐẠI CHIẾN LƯỢC “Điều gì bạn muốn đạt được hoặc tránh né? Câu trả lời là mục đích. Làm cách nào bạn đạt được kết quả cho khát khao của bạn? Câu trả lời là chiến lược.” Và để có chiến lược đúng đắn nhất, bạn nên tìm hiểu về những đại chiến lược đã được áp dụng trong lịch sử nhân loại. Lịch sử mách bảo chúng ta, những người sống hời hợt, chủ quan, thiếu tầm nhìn xa trông rộng, không hiểu mình, hiểu người, không thời thế, sớm muộn cũng sẽ nếm trải thất bại. Với việc nhìn lại dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, chúng ta có thể nhận được những bài học đáng giá thông qua những sự kiện nổi bật gắn liền với tên tuổi của một số nhân vật có vai trò quyết định, một số người thành công lưu danh muôn thuở, số khác chịu thất bại thảm hại. Thông qua việc phân tích các sự kiện lịch sử nổi bật và lý giải nguyên nhân thất bại, nguyên nhân thành công của các nhân vật lịch sử, cuốn sách đã gián tiếp hé lộ: đại chiến lược là bức tranh hai mảng – mục đích hay tham vọng và phương tiện hay nguồn lực. Người nào kết hợp hợp lý, hài hòa giữa mục đích và nguồn lực, giữa cái vô hạn và hữu hạn, người đó có khả năng xây dựng và thực thi đại chiến lược thành công. 10 chương sách không đi sâu vào việc đưa ra định nghĩa thế nào là đại chiến lược, nội dung của đại chiến lược, phương pháp xây dựng đại chiến lược, huy động nguồn lực thực hiện đại chiến lược hay đánh giá tính khả thi và hiệu quả của đại chiến lược. Tuy nhiên, bạn sẽ được sáng tỏ những vẫn đề này tông qua những sự kiện được tác giả dựng lại một cách công phu và nghiêm túc. Từ những gì đã xảy ra với thế hệ đi trước, bạn có thể rút ra bài học cho chính mình. Cuốn sách là chuỗi các sự kiện nổi bật được dựng lại, thế nên thay vì nhàm chán với những trang sách chứa đầy thông tin kiến thức, người đọc sẽ bị cuốn vào dòng chảy lịch sử với những nhân vật và sự kiện. Chúng ta sẽ trả lời được rất nhiều câu hỏi tại sao: Tại sao Xerxes – “vua của các anh hùng” – lại thất bại khi vượt eo biển Hellespont để tiến đánh Hy Lạp vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên? Tại sao Napoleon lại thua Kutuzov tại Borodino năm 1812 – trận chiến chôn vùi sự nghiệp lẫy lừng của Napoleon, và tại sao Kutuzov lại giành chiến thắng? Tại sao Abraham Lincoln lại trở thành vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ? Tại sao Franklin Delaus Roosevelt lại là vị Tổng thống thành công nhất và để lại dấu ấn nổi bật nhất trên chính trường Mỹ nói riêng, trên chính trường phương Tây nói chung trong nửa đầu thế kỷ XX? Cuốn sách kinh điển này khám phá ý nghĩa của “đại chiến lược” bằng cách kể lại những quyết định mang tính định mệnh nhất và cả tồi tệ nhất trong lịch sử. Hầu hết những quyết định ấy đều liên quan đến các cuộc chinh phạt: cuộc xâm lược Hy Lạp của vua Ba Tư Xerxes năm 480 TCN, vua Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Anh vào năm 1588, cuộc tấn công của Napoleon vào Nga năm 1812. Qua đây, Gaddis nêu bật sai lầm của việc tập trung vào “khát vọng vô hạn” mà phớt lờ “khả năng có hạn” của mỗi người. Hơn 400 trang sách của “ Luận về đại chiến lược” đã gói gọn mọi thông tin súc tích nhất về đại chiến lược. Đây cũng là cuốn sách mà bất cứ ai đã, đang và sẽ trở thành lãnh đạo nên đọc bởi nó sẽ rất hữu ích cho việc hoạch định và chỉ đạo. Mời các bạn mượn đọc sách Luận Về Đại Chiến Lược của tác giả John Lewis Gaddis & Quang Thiệu (dịch).
Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ
Mười năm trước thiếu nữ Miêu Cương Hoa Thanh Nguyệt mới 12 tuổi đã thổ lộ tình cảm với Diệp Nhượng lúc ấy 16 nhưng kết quả bị cự tuyệt. Dưới cơn giận dữ cô đã viết trong nhật ký của mình: “Được lắm Diệp Nhượng, nhớ kỹ hôm nay anh cự tuyệt tôi nhá! Bằng không tôi trù anh lên núi đao xuống biển lửa, biến thành rùa đen, thành chó con, thành con lợn đầu to!” Mười năm sau Diệp Nhượng công thành danh toại vào nhầm một tiệm cà phê thần bí và vừa gặp đã trúng tiếng sét ái tình với chủ tiệm Hoa Thanh Nguyệt. Ở chung lâu ngày Diệp Nhượng quyết định cầu hôn Hoa Thanh Nguyệt. Mẹ ơi, thôi xong Diệp Nhượng biến thành rùa đen! Diệp Nhượng lại biến thành chó! Diệp Nhượng nói dối Hoa Thanh Nguyệt thế là bị lửa đốt! Diệp Nhượng không nhận ra nữ đồng nghiệp có ý với mình thế là bị vác lên núi đao! *** Miêu Cương là một nơi thần kỳ. Thời tiết oi bức, vĩnh viễn khiến áo sơ mi người ta ướt đẫm mồ hôi. Diệp Nhượng vươn hai ngón tay ghét bỏ mà cầm ống tay áo rồi cúi đầu ngửi ngửi —— quả nhiên áo sơ mi của anh đã dính cái mùi độc đáo phiêu đãng trong không khí của Miêu Cương. Đây là cái mùi khó mà hình dung, nếu nhất định phải nói thì chính là vị ngọt ngấy quyện với mùi hơi nước không lưu thông được. Vị lãnh đạo đầu trọc bụng to đi phía trước móc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán và chỉ vào một tòa nhà màu trắng ba tầng cách đó không xa nói: “Đồng chí Diệp, đây là viện nghiên cứu của chúng tôi. Hưởng ứng lời kêu gọi của đất nước nên chúng tôi mới dời địa điểm từ thủ đô tới đây. Tuy Miêu Cương hẻo lánh nhưng nội thành vẫn tạm được…… Hơn nữa nếu ở chỗ này làm việc thì phí tổn nghiên cứu phát minh sẽ thấp hơn đồng thời kinh phí nghiên cứu sẽ cao hơn. Có điều vẫn khó mà giữ được nhân tài……” Diệp Nhượng ừ một tiếng và nhàn nhạt gật đầu. Tảo Địa Phật thấy thế thì biết anh không để lời mình vào lòng thế là thở dài: “Khí hậu, văn hóa, ẩm thực nơi này…… khác biệt quá lớn nên rất nhiều thanh niên có tài đến đây xem một cái là đi luôn, aizzzz…… Cũng không có cách nào, tuy biết đoàn đội chúng ta làm công việc có tiền đồ nhất nhưng người trẻ tuổi cũng muốn suy nghĩ tới hiện thực, những việc như kết hôn, sinh con, giáo dục hay chữa bệnh gì đó…… Tôi cũng hiểu lựa chọn của bọn họ.” Vị lãnh đạo này diện mạo nhìn thì đơn giản, giống một anh nông dân làm kinh doanh nhưng trên thực tế lại là hạng trâu bò trong giới nghiên cứu phát minh công nghệ chủ chốt. Nhưng ông ấy làm người khá tùy tiện, không để ý tới bề ngoài. Lúc còn trẻ ông ấy cũng thon thả lắm, thậm chí còn mang theo tiên phong đạo cốt nên mới được vô số nhân viên trong viện nghiên cứu xưng là: Tảo Địa Tăng (Sư quét rác – lấy theo tên một vị sư võ công cao thâm bậc nhất trong tiểu thuyết Kim Dung, là người tài nhưng thân phận bí ẩn, ít lộ diện). Nhưng hiện tại ông ấy đúng là béo, cũng vì tâm tình lúc nào cũng như Phật nên danh xưng từ Tảo Địa Tăng đã thăng lên thành Tảo Địa Phật. Tảo Địa Phật: “Đồng chí Diệp đã ăn cơm khi ở trên máy bay rồi à?” Diệp Nhượng: “Tôi đã ăn rồi.” Vốn Diệp Nhượng đang tính tới trung tâm nghiên cứu xem xét một vòng là đi ngay nhưng Tảo Địa Phật lại nói những lời vừa rồi chẳng khác gì vẽ cái vòng ở chân anh khiến một người da mặt mỏng như anh cũng ngượng ngùng không thể quay bước đi ngay. Tảo Địa Phật: “Như vậy đi, chúng ta tìm một quán cà phê ngồi xuống tâm sự trước xem nghiên cứu đang tiến triển tới đâu cũng như đãi ngộ dành cho cậu thế nào……” Tảo Địa Phật vòng qua góc đường và kéo cửa một quán cà phê nói: “Xin mời.” Tiệm cà phê gọi là Thâm Hạng, được trang hoàng rất có cá tính, vừa cổ xưa lại kỳ lạ, vừa nguyên thủy lại mang theo chút quỷ dị thần bí. Vừa vào cửa đã thấy một hành lang trưng bày thật dài và u ám hiện ra trước mắt. Tảo Địa Phật giới thiệu rằng cửa tiệm này có một nửa là khu triển lãm và một nửa là tiệm cà phê. “Rất có hơi thở nghệ thuật.” Tảo Địa Phật nói, “Tranh treo hai bên hành lang đều là tác phẩm của chủ cửa hàng. Cô ấy còn trẻ nhưng đã nổi danh, đúng là có thiên phú…… Chính là cái loại trời cao tự tay bồi dưỡng ấy.” Tranh treo hai bên hành lang cực kỳ đối lập, một bên là màu sắc mãnh liệt như lửa đỏ, còn một bên lạnh nhạt, dịu dàng như ánh trăng. Hàng mày vẫn nhíu chặt của Diệp Nhượng rốt cuộc cũng giãn ra. Đôi mắt đen nhánh của anh nhìn chằm chằm mấy bức tranh hai bên, bước chân cũng chậm lại. Trong lúc bất giác anh đã đi tới cuối hành lang nơi có hoa cỏ rũ xuống làm thành một tấm mành thiên nhiên. Diệp Nhượng như đang ở trong mộng mới vừa tỉnh, anh ngẩng đầu xuyên qua khe mành thì thấy bên trong im ắng, không có một vị khách nào. Ngọn đèn tỏa ánh sáng ấm áp tụ lại trên quầy gỗ. Trên quầy bày một cây đàn cello, ở giữa là ghế cao, có một cô gái đang ngồi trên đó. Cô mặc một cái váy dài màu trắng, mái tóc dài đen nhánh kéo sau người, bản thân cô thì ngồi đưa lưng về phía này. Cô đang vẽ tranh, trên vải là những hình thù màu sắc tươi đẹp. Tảo Địa Phật kêu khổ: “Thôi xong, tôi quên mất hôm nay là thứ bảy, tiệm không buôn bán. Đồng chí Diệp, hay chúng ta đổi chỗ khác đi……” Diệp Nhượng lại như không nghe thấy mà đi thẳng qua, đẩy mành ra. Ánh sáng trên toàn bộ thế giới đều như tụ trên người cô. Diệp Nhượng không khống chế được hai chân mình, cứ thế mê muội đi qua, đôi mắt nóng cháy như lửa nhìn chằm chằm người đang vẽ phía trước cũng những ngón tay dính màu vẽ của cô. Mấy cái vòng bạc và chuỗi hạt treo trên cổ tay trắng nõn của cô lao xao va chạm khi cô vẽ. Diệp Nhượng như si như say nhìn bóng dáng xinh đẹp của cô. Cô không dùng cọ vẽ. Dù không nhìn thấy mặt người trước mặt nhưng Diệp Nhượng biết ánh mắt cô khi nhìn vào mảnh vải chồng chất màu sắc sáng ngời kia hẳn là si mê và chăm chú. Anh hơi nghiêng đầu lẳng lặng nhìn cô vẽ tranh. Màu sắc đẹp đẽ chồng lên nhau giống như đang vẽ cảnh trong mơ. Dần dần những màu đậm nhạt cùng đường nét mơ hồ đó cũng hiện ra hình thái rõ ràng, từ mộng bay ra thành hình. Đó là một con phượng hoàng từ dung nham của thượng cổ bay ra. Diệp Nhượng như có thể nghe thấy có ai đó đang nhẹ giọng hát ca ngâm tụng bên tai mình, là một bài ca dao viễn cổ anh không biết. Tảo Địa Phật đành phải nhỏ giọng giới thiệu với anh: “Đây là bà chủ tiệm, Hoa Thanh Nguyệt, là nghệ thuật gia nổi danh của Miêu Cương. Người địa phương đều gọi cô ấy là nghệ thuật gia vu cổ, nói tranh cô ấy vẽ hạ cổ người khác bằng màu sắc khiến người ta không thể không đắm chìm. Chủ đề tranh của cô ấy đa phần là về sống chết và việc hiến tế thần thượng cổ. Trước kia cậu du học nước ngoài có từng dạo bảo tàng không? Cô ấy vẽ một bộ tranh gọi là Thiên cổ họa, trong đó vẽ thần điểu Chu Tước của Miêu Cương và được bảo tàng nước ngoài mua lại. Nhiều quốc gia đều có trưng bày bức tranh ấy, rất nổi tiếng!” Diệp Nhượng chẳng nghe được một câu nào vào tai. Hiện tại anh và Tảo Địa Phật không ở cùng một không gian. Chủ tiệm chậm rãi thu tay lại, tranh đã vẽ xong. Giống như cảm nhận được ánh mắt nóng cháy phía sau lưng thế là cô gái trẻ quay đầu lại nhìn Diệp Nhượng. Trong nháy mắt ấy Diệp Nhượng đúng là ngu luôn. Thông qua hội họa và màu sắc hạ cổ cho người ta ư? Là thiếu nữ này sao? Không…… Dù tranh cô vẽ quả thực đẹp tới độ người ta phải chìm đắm trong đó nhưng thứ thực sự hạ cổ anh lại là một cái ngoái đầu kinh diễm này. Trên thế giới này nhất định có tồn tại những thứ huyền học mà khoa học không thể giải thích được. Ví dụ như vừa gặp đã yêu. Một phút trước Diệp Nhượng còn đang nghĩ phải làm sao để cự tuyệt lời mời gia nhập viện nghiên cứu ở Miêu Cương của Tảo Địa Phật. Ấy vậy mà một phút sau anh đã lập tức xé vé máy bay quay về, chỉ vì một cái ngoái đầu của cô chủ tiệm cà phê. Anh thề sẽ cắm rễ ở Miêu Cương này để hưởng ứng lời kêu gọi chấn hưng khoa học kỹ thuật của quốc gia. “Xin chào, tên tôi là Diệp Nhượng.” Vừa hoàn hồn Diệp Nhượng đã cài xong cúc ở tay áo sơ mi và duỗi tay ra nói, “Tranh cô vẽ rất đẹp, cô lại càng đẹp hơn.” “Diệp Nhượng?” Chủ tiệm hơi trợn mắt, ngón tay nhuộm màu của cô hơi run run, đầu ngẩng lên đánh giá anh. Người đàn ông trẻ tuổi khéo léo đứng trước mặt cô mặc một cái áo sơ mi không một nếp nhăn, toàn thân tỏa ra hơi thở tinh anh. Tóc anh màu đen, đôi mắt màu đen mang theo chút u buồn nhưng ánh mắt lại hơi nhíu, trước sau vững vàng bình tĩnh lộ rõ tự tin…… Nhìn kỹ vẫn có thể nhìn ra bộ dạng thiếu niên lúc trước, quả nhiên là Diệp Nhượng. Diệp Nhượng. Thật lâu sau cô mới như tỉnh mộng và nhẹ nắm tay anh nói: “Xin chào, tôi là Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lại cong môi sâu hơn, ý cười nhuộm cả đuôi lông mày khi anh nhìn cô gái Miêu Cương trước mặt. Nói là xinh đẹp thì cũng không quá chuẩn xác. Đẹp hay xinh đẹp là những từ quá mức đơn điệu, không thể nào khái quát được sự rực rỡ của cô. Nếu dùng mỹ lệ thì quá tục, dùng yêu dị thì quá không tôn trọng…… Mỹ nhân Miêu Cương! Như đóa hoa trắng độc nhất vô nhị nở rộ trong sơn cốc, dưới ánh trăng. Đóa hoa này vừa có thể cứu người vừa có thể hạ cổ. “Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lặp lại tên cô. Hoa Thanh Nguyệt nghe thấy thế thì đôi mắt hơi sáng lên giống như đang chờ đợi cái gì đó. Diệp Nhượng nói: “Là cái tên hay.” Ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt cứng lại, tay buông xuống, miệng mím chặt. Diệp Nhượng cũng không nhận thấy sự thay đổi trên khuôn mặt cô còn Hoa Thanh Nguyệt thì lễ phép cười và chào hỏi Tảo Địa Phật: “Chú Phó.” “Thật là xin lỗi, viện nghiên cứu mới vừa thành lập nên chú vội đến quên cả thời gian, thứ bảy còn tới quấy rầy……” Tảo Địa Phật vội xin lỗi. Hoa Thanh Nguyệt cười nói: “Không sao.” Tên tuổi cô ở nơi này không nhỏ, người địa phương đều nhận ra cô, cũng biết cô mở quán cà phê này chỉ để nghe những câu chuyện xưa lấy linh cảm. (Truyện này của trang runghophach.com) Thứ bảy là ngày cô sáng tác và luyện tập nên không làm buôn bán. Vì thế cho dù có người quên mà tới vào ngày thứ bảy thì khi nhìn thấy cô sáng tác bọn họ sẽ lặng lẽ lùi ra ngoài. Biết rõ quấy rầy cô nên Tảo Địa Phật vội vàng giới thiệu Diệp Nhượng: “Thanh Nguyệt, vị tiên sinh này là nhân tài mà lãnh đạo ở thủ đô đặc biệt mời từ nước ngoài về. Nếu có duyên thì về sau cậu ấy chính là người đứng đầu nhóm nghiên cứu của bọn chú đó.” “Khó có nhân tài chịu tới nơi này.” Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Tảo Địa Phật: “Vậy được rồi, chúng tôi không dám quấy rầy nữa.” Diệp Nhượng nhướng mày, thiếu chút nữa đã than thở ra tiếng. Sao đi sớm thế? May mà Hoa Thanh Nguyệt đã nói: “Không sao, cháu cũng vẽ xong rồi, mọi người ngồi đi, cháu sẽ đi nấu cà phê.” Tảo Địa Phật cười vui hơn hớn: “Ai u, chú thấy mát mặt quá! Cảm ơn Tiểu Nguyệt!” “Không sao, mời chào nhân tài mới quan trọng.” Hoa Thanh Nguyệt hé miệng cười, đôi mắt sáng ngời híp thành trăng non. Tảo Địa Phật vui vẻ ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện phiếm với Diệp Nhượng. Diệp Nhượng không cảm thấy hứng thú với lời ông ấy nói vì thế không được vài câu anh đã đổi đề tài tới Hoa Thanh Nguyệt. Anh hỏi: “Lúc tới đây tôi nghe nói Miêu Cương bên này có không ít khu vực vẫn giữ lại truyền thống của Vu tộc từ quá khứ. Bọn họ giỏi vẽ bùa, niệm chú, hiến tế gì đó. Tôi thấy tranh cô vẽ phần lớn thể hiện văn hóa liên quan tới vu hịch, chẳng biết là vì thích hay muốn mượn cái này tuyên truyền cho văn hóa bản địa?” Hoa Thanh Nguyệt không trả lời mà dựa bên quầy mỉm cười nhìn Diệp Nhượng hỏi: “Đây là lần đầu tiên Diệp tiên sinh tới chỗ này sao?” “Miêu Cương ấy hả?” Diệp Nhượng nói, “Đây là lần thứ hai, cha mẹ tôi là người làm khảo cổ vì thế khi còn nhỏ tôi từng theo họ tới đây một lần.” Hoa Thanh Nguyệt rũ mắt nhẹ nhàng xoa ngón tay dính màu và hỏi: “Vậy ấn tượng của anh với Miêu Cương thế nào?” “Lần đó thì tôi chỉ nhớ rõ nơi này rất nóng.” Diệp Nhượng nói, “So với truyền thuyết thì Miêu Cương tôi nhìn thấy khi đó chỉ là một nơi bình thường, vừa ướt vừa nóng, cũng không có lực hấp dẫn thần bí nào cả.” Hoa Thanh Nguyệt tiếp tục hỏi: “Lần đầu tiên đến Miêu Cương anh không có ký ức khắc sâu nào à?” Diệp Nhượng hồn nhiên chẳng nhận ra chỗ kỳ quái trong câu hỏi của cô. Anh chỉ ngẩng đầu nhìn cô, mặt mày đầy ý cười đáp: “Không có. Chắc là vì lần đầu tới Miêu Cương tôi không gặp được người nào xinh đẹp đáng yêu như cô đây. Thật ra tôi không có ấn tượng quá nhiều với lần đầu tiên tới nơi này.” Tươi cười của Hoa Thanh Nguyệt biến thành cô đơn. —- Diệp Nhượng ở lại, ký hợp đồng ba năm. Khi gọi điện thoại cho cha mẹ mình anh nói tới đãi ngộ, quả thực rất tốt. Anh nói điều kiện nghiên cứu khoa học bên này tuy mới chỉ ở bước đầu nhưng mọi người đều nghiêm túc làm việc, phương diện kinh phí cũng không có khó khăn. “Cho nên con đã quyết định ở lại.” Anh nói. “Nhất định là con có lý do khác, nơi đó dù có đãi ngộ cỡ kia cũng không đủ để con ở lại.” Cha mẹ nói thẳng, “Phong thổ nơi ấy hẳn không phải lý do giữ con lại…… vậy là người sao?” Diệp Nhượng nghĩ tới Hoa Thanh Nguyệt thì cười gật đầu: “Vâng, là vì người, con vẫn đang theo đuổi.” Diệp Nhượng là người theo phái hành động, vừa định ra mục tiêu anh đã lên kế hoạch sau đó bắt đầu hành động. Huống chi anh còn dùng nhiệt tình tích cóp hơn hai mươi năm để theo đuổi Hoa Thanh Nguyệt thế nên sự tình tiến triển rất thuận lợi. Ít nhất Diệp Nhượng cho rằng ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt nhìn về phía anh quả thực có yêu thích. Cứ như thế sau nửa năm Diệp Nhượng lập tức nghĩ tới việc cầu hôn. Hôm nay anh tính toán chính thức tỏ tình, là loại hướng tới kết hôn ấy. Hoa đã đặt, đã xin nghỉ, nhẫn đính hôn anh cũng đã chuẩn bị xong, địa điểm tỏ tình đã ổn, vạn sự đã hoàn hảo chỉ chờ Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Buổi sáng nhẫn tới. Diệp Nhượng mở hộp kiểm tra và lẩm bẩm: “Chỉ còn thiếu mỗi hoa.” Lúc này trong lòng anh bỗng nhiên có một tiếng nói vang lên: “Ngươi thật lòng hả? Muốn một đời một kiếp ấy hả?” Diệp Nhượng theo bản năng nghĩ: “Đương nhiên, nếu không thật lòng thì tôi vội vã bận rộn cái gì chứ? Nếu không cầu một đời một kiếp thì vì sao tôi phải mang thật lòng ra theo đuổi cô ấy?” Nhất kiến chung tình, nhất vãng tình thâm, tất cả những thứ ấy thực sự xảy ra trên người anh. Anh tin tưởng khoa học, cũng tin tình yêu. Lạch cạch —— Hộp nhẫn rơi trên mặt đất. Chuông cửa vang lên. “Diệp tiên sinh có nhà không? Hoa anh đặt tới rồi.” Ngoài cửa lưới có anh chàng đưa hoa vói vào phòng thét to. Tầm mắt Diệp Nhượng mơ hồ vì thế anh lắc lắc đầu đi về phía cửa. …… Từ từ? Diệp Nhượng sửng sốt ngừng ở cửa rồi ngẩng đầu. Then cửa cao quá —— là anh hoa mắt à? “Hả? Không ở nhà sao?” Anh chàng đưa hoa vặn mở tay nắm cửa và tò mò tiến vào. Miêu Cương chính là có cái điểm này không tốt, người địa phương thuần phác ngay thẳng, không hề có cảm giác giới hạn là gì. Vốn Diệp Nhượng đang muốn ngăn cản anh chàng đi vào nhưng thấy anh chàng đưa hoa đột nhiên trở nên khổng lồ thế là anh cũng choáng váng hết cả đầu. Anh chàng đưa hoa cúi đầu, ánh mắt đối diện với ánh mắt của Diệp Nhượng, ngay sau đó anh ta lộ vẻ kinh ngạc và hớn hở ngồi xuống nói: “A! Chó con!! Đáng yêu thế!” Diệp Nhượng nhìn thấy bàn tay cực đại của anh chàng đưa hoa chậm rãi vươn tới chỗ mình sau đó trời đất quay cuồng. Đôi tay kia cứ thế bế anh lên, còn mạnh mẽ xoa đầu anh nữa chứ. “Ai u, là con chó con Diệp tiên sinh nuôi à?” Anh chàng đưa hoa khen lấy khen để, “Lần trước tới không thấy mày, lông màu xám nữa chứ, đẹp thế…… Mày còn hơi bị giống Diệp tiên sinh đấy nhé!” Diệp Nhượng: “……” Khoan đã! Cái! Mẹ! Gì! Thế! Này?!! Mời các bạn mượn đọc sách Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ của tác giả Phượng Cửu An.
Cùng Ngày Ly Hôn Với Đại Lão Tôi Biến Nhỏ
Khúc Kim Tích xuyên thành sao nữ vô danh trong một cuốn sách. May mắn thay, sao nữ có ông chồng bí mật: Siêu sao Thẩm Thính. Chết nỗi là, sao nữ suýt thì đã cắm sừng Thẩm Thính. Để tránh khỏi kết cục bi thảm của bản thân, Khúc Kim Tích chủ động đề nghị ly hôn. Chẳng ngờ đúng ngày ly hôn gặp tai nạn xe, cô biến thành một con mèo con, bị cảnh sát xách về đồn. Cùng đường bí lối, Khúc Kim Tích vươn móng viết mấy chữ như giun bới: Bố cháu là Thẩm Thính, số điện thoại xxxxx. Cảnh sát: “Anh Thẩm đúng không, phiền anh tới đồn cảnh sát xx đón… con gái anh về.” Thẩm Thính: “???”            Fan đều biết Thẩm Thính không thích động vật, cho đến một ngày, phát hiện bên cạnh anh thế mà lần lượt xuất hiện đủ loài động vật. Tất nhiên họ không biết rằng, đó đều là Khúc Kim Tích biến thành. Thẩm Thính nuôi riết thành nghiện chọc chọc nhím nhỏ Khúc Kim Tích: “Lần sau, biến thành gấu trúc thử?” Ngày hôm sau, Khúc Kim Tích biến thành một bé gấu trúc. Khúc Kim Tích: “…”                    Kịch nhỏ: Hiện trường hoạt động, Khúc Kim Tích biến thành bạch tuộc hồng không cẩn thận rơi tõm vào ly rượu. Không lâu sau, sao nữ tép riu Khúc Kim Tích đột nhiên hiện hình, ôm Thẩm Thính cọ tới cọ đi, miệng gọi: “Bố!” Hiện trường chết máy. Hôm sau, weibo Thẩm Thính tung ra chứng nhận kết hôn: Tôi không có đứa con gái lớn như thế. Toàn cầu: !!!                Note: Mặc dù thích truyện có não nhưng có vẻ blog này chỉ hợp đào truyện không não rồi (có cái truyện nhiều não nhất thì bị đào rồi bỏ xó). Truyện này kiểu nhẹ nhàng ngốc nghếch dễ thương, coi thể loại với giới thiệu là biết nó thuần giải trí, tiểu bạch văn rồi ha, khuyến cáo đọc không nên mang não. Chọn truyện này thứ nhất vì bạn nữ chính, trời đất ơi sao bạn ấy lại có thể cưng và moe tới vậy, cưng lắm lắm, đặc biệt những khi biến hình, có thể nói những cảnh biến hình chính là điểm sáng nhất của truyện. Thứ hai, đấy là truyện không bôi đen nguyên chủ, tức người bị nữ chính nhập vào. Bạn nguyên chủ truyện này, tuy là ban đầu bạn ấy có một vài hành động hơi nữ phụ, nhưng khi đọc, dần dà lại thấy hành động của bạn ấy là có nguyên do và có thể hiểu được, chỉ là hơi ngốc với hơi dại dột tí, và sau cùng tác giả đã cho bạn này một cái kết trọn vẹn. Thứ ba thì, là vì tác giả đã cho một lời giải thích về việc xuyên không của nữ chính và cả việc bạn ấy liên tục biến hình thành đủ loại động vật, đồ đạc, và với tớ thì lời giải thích này là đủ thuyết phục. Chúc các bạn đọc vui. *** “Mau nhìn kìa, cô ta lại còn dám đến?” “Nom bộ đồ cô ta mặc kia, dám phải nhặt từ hàng vỉa hè ấy chứ, cũng dám gọi là lễ phục?” “Đi thảm đỏ cùng với loại người này, đúng là mất mặt.” “Bỏ tiền vào ké tiếng chứ gì.” Tỉnh lại giữa những tiếng xoi mói móc mỉa, Khúc Kim Tích mở bừng mắt, quét toàn diện cảnh tượng trước mắt: Đây là một căn phòng rất rất rộng, có rất nhiều người, trai xinh gái đẹp, xung quanh còn có không ít ống kính. Khu hậu trường thảm đỏ. Năm con chữ bật ra trong óc. Nói cách khác, trong phòng này, mười người thì có chín là nghệ sĩ ngôi sao, đang đợi đi thảm đỏ. Lúc này, trong não tự động nảy ra một hình ảnh. Trong hình, cô đang trao đổi với một nhân viên chương trình: “Chị Hồng, làm ơn đi, em đưa chị năm mươi ngàn, chị cho em tham gia đêm weibo, dù chỉ ngang qua thảm đỏ lộ mặt thôi cũng được.” Nhân viên chương trình: “Tám mươi ngàn.” “Dạ được!” Khúc Kim Tích: “…” Chuyện quái chi đây? Không được, cô phải thăm dò tình huống cho rõ. Dò hỏi một người trông như là nhân viên nhiếp ảnh, biết được vị trí của nhà vệ sinh, Khúc Kim Tích mải mốt chạy đi. Trên đường còn nghe có người nhỏ giọng châm chích, chẳng biết là nhân viên trong đây hay mấy nghệ sĩ vẻ ngoài lộng lẫy bóng bẩy kia. “Không mặt mũi ở lại rồi?” “Mặt dày đi đu bám Thẩm Thính, đáng kiếp.” “Lần đó cô ta cố tình trượt ngã, ngã ngay vào Thẩm Thính, fan tăng lên cả triệu đó.” “Ha ha, toàn là người mắng chứ gì.” … Vào phòng vệ sinh, Khúc Kim Tích nghĩ bụng cái tên Thẩm Thính này sao nghe quen quen, hình như đã nghe đâu đó rồi. Song ngay khi nhìn thấy người trong gương, cô ngưng bặt. Trang điểm đậm kiểu Âu Mỹ phối với cái đầm ngắn màu vàng trẻ trung, giày ống đen gót cao, kiểu phối đồ khiến người ta khó thở này… Thực ra trang điểm nom cũng được, hiềm nỗi phối màu đậm quá, hoàn toàn không phù hợp với bộ đồ và đôi giày này mới gây hiệu quả thị giác khiến người ta dè sợ. Váy ngắn trẻ trung thì phải phối cùng kiểu trang điểm nhẹ nhàng tươi trẻ chớ, trang điểm đậm vầy là muốn hù ai chết tươi đây. May mà trong tay có túi xách, bên trong là dụng cụ trang điểm đơn giản, còn có một gói bông tẩy trang. Khúc Kim Tích gỡ mi giả trong tâm trạng cạn lời, mở gói bông tẩy trang, định bụng lau sạch lớp trang điểm. Cánh cửa phản chiếu trong gương đột ngột bật mở, một thanh niên trẻ tuổi mặc vest, đi giày da bước vào. Khúc Kim Tích: “???” Cô nhìn sang bên cạnh theo phản xạ, chắc chắn đây là phòng vệ sinh nữ. “Sợ rồi à?” Nom anh chàng độ chừng hăm bốn, hăm lăm tuổi, gương mặt điển trai khôi ngô, khóe môi nhếch cong, hé ra nụ cười mỉm hút hồn. Khúc Kim Tích ngắm anh chàng mất hồn. “Trưng bộ mặt không quen biết anh làm gì, từ bao giờ diễn xuất lại tốt thế rồi?” Anh ta vươn tay riết quanh eo cô, kéo cô lại gần, bàn tay phủ trên lưng cô trượt lên mờ ám. Khúc Kim Tích nổi da gà kín tay, đẩy phắt anh ta ra. Người đàn ông vẫy cái tay bị bộp đau, đôi mày quặp xuống: “Khúc Kim Tích, em nổi điên gì vậy?” “Hay là…” Phút chốc lại rộ cười, “Em đổi kịch bản rồi?” Đầu Khúc Kim Tích kêu lên ong ong, bất giác làm theo lời anh ta, chắp tay để trước người, cảnh giác lại xa lạ: “Anh là ai?” “Chơi mất trí nhớ à.” Chàng trai khẽ cười. Khúc Kim Tích vờ ra vẻ không vui khi bị lột trần, sau đó lại trở về xa lạ cảnh giác. Quả nhiên, người đàn ông càng đoan chắc cô đang chơi trò “mất trí nhớ”. Anh ta đi lên, nét mặt nặng tình tha thiết, nắm chặt tay Khúc Kim Tích: “Tích Tích, em quên rồi ư? Anh là Mạnh Thiên Hạo, người em yêu nhất đây.” “Mạnh Thiên Hạo?” Sao cả cái tên này cũng quen tai thế?! “Được rồi, đừng quấy nữa, sắp phải đi thảm đỏ rồi, còn chơi tiếp thì sẽ lỡ giờ mất.” Anh ta ra chiều muốn hôn cô, cặp mắt chứa chan tình tứ, “Nếu em muốn chơi, đợi đi thảm đỏ xong anh sẽ từ từ chơi với em.” Khúc Kim Tích lùi một bước về sau. Đáy mắt Mạnh Thiên Hạo vụt lướt qua vẻ chán ghét, tiện đà buông cô ra, bỏ lỡ vẻ không dám tin chợt hiện trên mặt cô rồi vụt biến mất. Thẩm Thính, Mạnh Thiên Hạo, đi thảm đỏ… Một loạt sự việc cuối cùng khiến Khúc Kim Tích chợt bừng tỉnh, những người trong này, hoàn toàn ăn khớp với một cuốn sách cô từng đọc trước đó. Cuốn sách bạn giới thiệu cho cô, nói bên trong có một nữ phụ làm nền tên giống hệt tên cô, còn nói kết cục cuối cùng của nữ phụ bi thảm đau xót, gợi khiến cô tò mò, không nhịn được mới lướt lướt cuốn sách nọ. Trong sách, nữ phụ tên Khúc Kim Tích là một sao nữ vô danh tép riu, mơ mộng trở thành siêu sao tầm cỡ, ngồi ôm vô số trai tơ trẻ măng, chẳng ngờ chó ngáp phải ruồi kết hôn với siêu sao Thẩm Thính. Nhưng Thẩm Thích không thích cô ấy, không chạm vào cô ấy, không cho cô ấy công khai quan hệ giữa họ ra bên ngoài. Trừ một tờ đăng ký kết hôn, hai người chẳng khác gì hai kẻ xa lạ. Khúc Kim Tích không cam tâm, bắt đầu tìm đường chết, phát hiện không giành được hồi đáp từ Thẩm Thính thì dứt khoát ngoại tình, tìm một gã tình nhân, cuối cùng thành công khiến Thẩm Thính đưa ra đề nghị ly hôn. Cô nàng chẳng phải kẻ hiền lành dễ đuổi, đưa ra yêu cầu, ly hôn thì được thôi, nhưng phải có một nửa tài sản của Thẩm Thính. Đoán chừng bản thân tác giả cũng không thể chấp nhận nhân vật dưới ngòi bút của mình tác quái nhường ấy, bèn tặng cô nàng một sự cố bất ngờ — quay phim rơi xuống vách núi, xương cốt bầy hầy. Lúc ấy Khúc Kim Tích đọc thấy nữ phụ cùng tên với mình chết thảm thiết như vậy, trong lòng loáng thoáng khó chịu nên không đọc tiếp, ai mà ngờ bản thân lại xuyên vào trong cuốn sách này! Tên Mạnh Thiên Hạo trước mắt này, chính là tên tình nhân mà chủ cũ thân thể này léng phéng. Trong sách Mạnh Thiên Hạo là tên ăn bám dựa vào đàn bà để leo lên. Khúc Kim Tích kết hôn với Thẩm Thính, lợi ích duy nhất là mỗi tháng sẽ nhận được một khoản tiền tiêu vặt từ họ Thẩm, con số rất khả quan. Chút tiền này không thể giúp cô ấy tạo dựng mạng lưới quan hệ trong giới giải trí, tuy thế nuôi một gã mặt trắng vô danh khỏe mạnh cũng muốn vào giới giải trí thì kể vẫn đủ. Cầm tiền của Thẩm Thính đi nuôi tình nhân… Dẫu Thẩm Thính có làm từ gỗ, nếu biết được cũng sẽ tức thành củi khô phừng lửa thôi. Huống hồ, anh ta còn chẳng phải khúc gỗ. Cứ nghĩ tới kết cục của nguyên chủ trong sách, Khúc Kim Tích lại rợn lạnh toàn thân.   Mời các bạn mượn đọc sách Cùng Ngày Ly Hôn Với Đại Lão Tôi Biến Nhỏ của tác giả Đường Hoàn Hoàn.