Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Tây

Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm, đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật, thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn với nhiều tác phẩm đã trở thành những tượng đài bất tử như Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ… Bộ sách tập hợp những tuyệt phẩm để đời của Tô Hoài để tưởng nhớ một năm ngày Cụ trở về với cát bụi gồm 9 tác phẩm, bao gồm 4 tiểu thuyết, 3 truyện ngắn và 2 bút ký: Quê nhà (tiểu thuyết) Quê người (tiểu thuyết) Mười năm (tiểu thuyết) Khách nợ (truyện ngắn) Chiếc áo xường xám màu hoa đào (truyện ngắn) Chuyện để quên (truyện ngắn) Miền Tây (tiểu thuyết) Kí ức Đông Dương (bút ký) Kí ức Phiên Lãng (bút ký) Được viết năm 1965, Miền Tây là tác phẩm tiếp nối cho đề tài về vùng đất Tây Bắc “để thương để nhớ” cho Tô Hoài trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Tô Hoài đã dành cho cuốn tiểu thuyết những nét vẽ chân thật và sinh động nhất, với hình ảnh những người con đất Phiềng Sa tình nghĩa đã sống qua hết những vất vả, đau thương, đấu tranh và dựng xây. Khai thác nhiều tư liệu lịch sử, chính trị, quân sự, tác phẩm đã tạo nên những bức tranh đối lập xưa và nay trong cuộc sống, số phận con người Phiềng Sa. Ở đó, hình ảnh con người chưa bao giờ được tác giả tạo nên bằng bút pháp lí tưởng hóa, mà họ luôn chân thật và gần gũi, mang đầy đủ mặt tốt và mặt xấu của một con người bình thường trong đời sống. Chính vì thế, họ đã sống rất lâu và vững bền trong trái tim rất nhiều độc giả Việt. *** Cảm nhận Quen biết nhiều, từng trải lắm, quả thật có thể nói Tô Hoài đã trở thành một cuốn từ điển sống của nghề văn. Qua các tác phẩm đã in của ông, mãi mãi người ta còn tìm thấy hình ảnh con người một thời, với tất cả những lo toan hàng ngày, sự phấn đấu của chúng ta cùng những khó khăn những hạn chế hoàn cảnh đã đặt ra mà không ai trong chúng ta vượt qua nổi. Thời gian sẽ sàng lọc để chọn ra những gì tinh hoa Tô Hoài đã viết, từ đó làm giàu thêm cho văn học Việt Nam. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn Tô Hoài hay “khoe”, chẳng chịu bỏ phí những chuyến đi nên ông viết bút ký, ký sự về rất nhiều nước ông có dịp đặt chân đến. Về điều này có lẽ ông cũng là bậc thầy. Những tập ký, truyện ngắn lấy bối cảnh nước ngoài của ông rất khác với nhiều tập sách về nước ngoài của các tác giả thế hệ sau này. Đọc ông luôn có văn, có sáng tạo. Cũng như nhiều bạn đọc thuở ấy, trong đó có tôi, các tác phẩm này của Tô Hoài đã mở giúp chúng tôi một cửa sổ để nhìn ra một góc thế giới trong thời buổi sách quá hiếm, không có phương tiện thông tin. Đỗ Quang Hạnh Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng đời tự nhiên, chảy trôi miên viễn. Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên như nó vốn thế: có mọi thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm thường, có đời sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt phong tục. Nhà phê bình Nguyễn Văn Long Đời thường, bình dị và trầm buồn, đó là miền núi của Tô Hoài. Những đặc trưng phong cách này đã khơi gợi lịch sử nhiều đau thương của miền núi theo một cách riêng, gần gũi và nhân bản. Nét dịu dàng, sâu lắng, giàu chất thi họa của nó cũng là một đặc sắc thẩm mĩ, vừa mộc mạc cổ điển vừa có sức sống lâu bền. Phạm Duy Nghĩa ***             Năm nào cũng vậy, đoàn ngựa buôn của ông khách Sìn về đến châu Yên, dừng lại, thay tay thồ, thì vừa xong gặt hái tháng mười. Các phiên chợ tết đã đến rồi.             Ông khách Sìn chỉ bán ghé chợ châu Yên có một phiên, rồi lại đóng hàng vào ngựa mới, bắt đầu lên Phiềng Sa. Hàng của khách Sìn vốn quen ăn các chợ Mèo.             Câu chuyện giữa khách Sìn và chủ ngựa Tòng hôm ấy.             - Chào ông chủ Tòng, năm nay bao nhiêu ngựa ông đi Phiềng Sa được? Hàng nặng đấy, ông ạ.             - Bẩm ông chủ, ngoài trăm con tôi cũng có thừa sức.             - Tốt lắm...             - Nhưng mà...             - …             - Con nhất, con nhì... tôi.             - Sao?             - Nó... ốm.             - Không may cho ông.             - Vâng, bẩm ông chủ, mấy chợ nay, tôi bỏ cả những chuyến thồ gần thật ngon ăn để đợi hàng ông chủ về…             Ông khách Sìn liền khóa ngay cái giọng sắp muốn mè nheo của lão chủ ngựa:             - Phải rồi, ông mà lên được Phiềng Sa với tôi, ông cứ nhấc cái thồ xuống là có tiền chảy đến, ông còn kiếm gấp trăm những chuyến ngon ăn khác kia!             - Vâng, cũng nhờ lộc ông chủ.             - Hàng tôi cần lên kịp chợ, không nấn ná được. Để bảo ngựa ông Đèo vậy.             Lão chủ ngựa Tòng xám hẳn mặt. Ngựa lão Tòng vốn quen thồ hàng cho khách Sìn trên chặng Phiềng Sa đã hàng chục năm. Ngưạ tốt, khách hàng sòng phẳng, mà lão Tòng mỗi chuyến lên vùng Mèo cũng phát tài riêng được một bọn thuốc phiện mang lậu về.             Không ngờ khách Sìn lại dửng dưng ném phắt ngay lão đi như thế.             Lão Tòng cay quá, đứng ơ. Ông khách Sìn còn vỗ vai lão, cười nhăn nhở, nói:             - Ông chủ bằng lòng nhé, sang năm giúp cho tôi, tôi chờ đấy.             Nhưng lúc ấy lão Tòng chẳng còn nghe biết khách Sìn nói vuốt gì nữa. Lão điếng người, lại nghĩ đến hai con ngựa.             Hai con ngựa nhất, ngựa nhì đầu đàn của lão.             Chỉ có nửa buổi, lăn ra chết cả.             “Hay là nhà thằng Đèo hại mình?” - Lão Tòng hốt hoảng, bối rối nghĩ.   * *    *               Đoàn ngựa thồ hàng ông khách Sìn lên Phiềng Sa.             Tết sắp đến, những đoàn ngựa thồ hàng của người buôn lại lũ lượt lên các vùng núi cao miền tây.            Không ai biết ngựa buôn hàng ở mãi đâu về, phía nào tới, Vân Nam xuống hay bên nước Lào, nước Miến Điện sang, hay từ ngoài sông Đà vào. Nhưng cứ trông người đi đuổi ngựa cho các ông chủ hàng có thể đoán những chặng đường họ đã đi qua. Đủ cả: người Kinh, người Lào, người Thái, người Xạ Phang, người Hà Nhì, đôi khi cũng có người Xá, người Mèo tận Mường Cò Nòi bên Miến Điện. Hễ năm nào nhiều người Xạ Phang, người Hà Nhì theo ngựa thì bảo đoàn này trên Vân Nam xuống, có người Kinh thì chắc hàng ngoài cửa Vạn sông Đà vào, có người Lừ, người Khạ thì biết họ từ Lào sang.             Có đến ngoài trăm cơn ngựa thồ hàng ông khách Sìn lên Phiềng Sa.             Con ngựa nhất, con ngựa nhì thắng yên cương đỏ, lưng không đeo hàng, thung dung đi trước. Tiếng nhạc rung sang sảng. Trên bờm cắm ngù đỏ, hai bên mông rực rỡ chiếc hoa thị vải đỏ năm cánh.             Những con ngựa mộc, thồ hàng đi sau, tai nghe nhạc, mắt chăm chăm nhìn vào cái hoa đỏ đính đuôi ngựa trước, mõm cất cao, bước không loạn vó, không đá nhau, không quơ vặt ven đường. Ngựa nào cũng ngoan nết bắt chước hai con đầu đàn.             Lão chủ ngựa họ Đèo ngồi xếp chân trên cọc thồ giữa lưng con ngựa thứ ba. Lão náu mình trong chiếc áo bành tô đẫm nước mưa, xám ngắt. Nếu chốc chốc không thấy từ trong đống áo xù xụ có một đám khói thuốc lá cuốn xanh mờ nhả ra, cũng dễ tưởng đấy là một kiện hàng.             Sau lưng lão, cứ chừng mười thồ, lại một người phu ngựa kèm.             Những người phu co ro cầm cái roi, khi thì lập cập chạy theo ngựa, khi thì gật gưỡng ngủ ngồi trên thồ hàng.             Đàn ngựa kéo dài qua những vùng vàng rượi cỏ tranh cứ xoay tròn lên lưng trời, đi cả ngày trông xuống vẫn thấy độc có một vết dốc vượt hôm trước. Không một tiếng người, chỉ nghe vó ngựa và tiếng roi quất dứ qua quãng kẹt núi dựng, tiếng gió gào quẩn trên đầu sóng cỏ tranh, chốc lại xô lên, lấp cả người, cả ngựa.             Đôi khi mặt trời rầu rĩ nhô ra, làm cho các mỏm núi và đến cả các khe suối xa bỗng nhiên nhuộm nắng úa xuộm.             Một tiếng hát, tiếng hò hay tiếng kể lể than vãn của người phu ngựa Xạ Phang đột ngột cất lên, lê thê lướt qua. Cái dốc núi càng rét, càng vắng, càng chơ vơ.   * *    *               Bóng tối trĩu nặng từng quãng, nhanh và dữ tợn. Các mỏm núi đương vàng rực, bỗng xanh rợn. Gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa các triền đồi tranh im lặng.             Đoàn ngựa lên dốc. Tối dần.             Một lúc, cả đoàn dừng lại. Những người phu nhảy xuống, chạy quanh ngựa, hấp tấp rút trên túi ngực ra một ống nứa đựng rượu ngâm củ gấu đặc sẫm. Họ lần lượt xách cương kéo mõm từng con ngựa lên, rồi dốc ngược cả ống rượu gấu vào họng ngựa. Những tiếng hí rít vang sâu vào các hõm núi. Con ngựa rùng mình, lắc lắc, nhảy vung hai chân trước. Rồi lại đứng yên. Ngựa đã quen được nhai củ gấu ngâm rượu thuốc, mỗi chuyến đi dài. Rượu gấu ngấm vào làm rung bốn vó, đổ thêm sức cho ngựa dấn nốt đoạn dốc cuối cùng dài nhất, dai dẳng nhất.             Rồi đoàn ngựa lại chuyển động và bắt đầu ló lên một quãng trống lưng đèo, trông như đàn kiến nối nhau, nhấp nhô.             Trên một khe núi kia, bà Giàng Súa đương nhìn xuống.             Đàn ngựa thấp thoáng qua khúc đường còn loang lổ sót lại một chút nắng đến chỗ tối bóng núi, bà Giàng Súa không đếm hết từng con được. Bà chỉ thấy mờ mờ lố nhố.             Bà Giàng Súa sợ hãi, nghĩ đến các con.             Trong vách, lúc ấy chỉ có bé Mỵ ngồi bên đống lửa đương lụi. Bé Mỵ đợi anh Nhìa vác thêm củi về nhóm sưởi. Còn Khay thì ra nhà nương lấy ngô. Sao hai anh em nó đi lâu thế? Bà Giàng Súa lại lo. Cứ bao giờ có nỗi lo láng gì đến, mọi người mẹ đều tựa gà mái ấp, muốn được các con mình ở cạnh. Chúng nó đi đã lâu, mà đàn ngựa ai lên núi thì nhiều thế kia, dài thế kia…             Ngựa lên núi, ngựa lính, ngựa quan, ngựa thồ người buôn, ngựa nào cũng chỉ buộc lo, buộc sợ vào mình. Ngựa nào cũng của quan, của người chức việc, của người ta. Nhà bà Giàng Súa chưa được nuôi ngựa bao giờ. Mà đời bà, con ngựa chỉ có mang tai họa đến mà thôi.             Năm ấy, đương cày nương xuân, chồng bà Giàng Súa phải bỏ cày. Mùa nương nhà dân sao bằng mùa thuốc nhà quan, chồng bà Giàng Súa đành cắm cái cày giữa nương, bỏ đi tải thuốc phiện cho nhà thống lý.             Con ngựa tải thuốc phiện lần ấy chẳng may tuột chân xuống vực đá.             Có người về bảo: lúc ngựa ngã, chồng bà còn bíu được ghềnh đá, thằng người nhà quan thấy rơi mất thồ thuốc, nó mới luống cuống đẩy nốt chồng bà xuống.             Có người về nói: tại chồng bà sợ quá, nhảy liều theo ngựa và thuốc phiện.             Có người về thì thào: chồng bà phải ma chài nên đánh mất thuốc phiện nhà quan, quan bắt nó chết rồi.             Người nào cũng rằng đích tai đã nghe quan nói thế.             Đằng nào thì chồng bà Giàng Súa cũng không về nữa, dù cho mọi đồn đại khác lời nhau. Nhưng còn một điều ghê gớm hơn thế. Ấy là từ đấy, cả làng bảo: con mẹ Giàng Súa có ma.             Người ốm rét mê hoảng, reo: “Giàng Súa, con ma Giàng Súa bắt tôi!". Hôm sau nữa, có người ra nương gặp bà Giàng Súa về rồi ốm, họ bảo đấy là tại đi đường gặp "con ma Giàng Súa". Bà Giàng Súa khiếp sợ quá. Có lúc tưởng mình có ma thật, bà Giàng Súa đã đi lấy sỏi lấy đá ngậm hàng tháng trong miệng. Khi còn bé nghe nói ai có ma muốn giải ma thì ngậm hòn đá ba mươi đêm, con ma sẽ hóa cục máu ra theo hòn đá. Hòn sỏi nằm trong miệng đủ ba mươi đêm, đến lúc bà Giàng Súa nhổ ra, cũng chẳng thấy cục máu ra!             Người làng xôn xao lo lắng, giận dữ bàn tán: cho mẹ con nhà Giàng Súa ăn Tết này xong rồi đem giết đi. Nếu không, cũng có lúc ma làm chết hết làng.             Đến cả bé Mỵ cũng nghe trẻ con dọa bé Mỵ thế. Suốt ngày, suốt mấy ngày, suốt tháng, bé Mỵ, các anh Thào Nhìa, Thào Khay, với mẹ, cứ ngồi xó nhà, tưởng người ta sắp xông vào bắt đem đi giết.             Rồi, một hôm, ai như ngựa nhà thống lý đến trước cửa. Có nhẽ thế. Một tiếng quát chõ qua khe cửa:             - Con ma Giàng Súa! Mày chết đi, con ma Giàng Súa à!             Tiếng chân ngựa vừa rời, bốn mẹ con bà Giàng Súa lật đật chạy vào rừng. Đấy là quan bảo, hay người làng đến chửi rủa? Chạy vào rừng, cũng chẳng dám quay lại đeo đi một mảnh chảo gang vỡ nữa!             Từ đấy, bốn mẹ con chúi vào rừng sâu. Tối quá, khổ quá. Nhưng thà ở rừng một mình, chứ nếu ra ngoài gặp người thì còn khổ hơn, hãi hơn. Thấy bóng ai làm nương phía nào, mẹ con lại lủi đi trú chân rừng khác - như con hươu, con chuột sợ người. Quanh năm chẳng gặp ai. Người ta cũng tránh ma chài. Mẹ con cứ vật vờ như người hủi, người ốm lâu bị làng đem bỏ vào rừng đợi chết.             Nhưng không chết. Mẹ con bà Giàng Súa bám lấy rừng mà sống. Cũng phá được một khoảnh nương kín đáo trồng bắp và nuôi được nhiều đàn ong mật trong gốc cây. Không chết, bà Giàng Súa sống mịt mù như trên đời chỉ còn có bốn mẹ con.             Mấy năm như thế, mấy năm đổi rừng ở mấy lần, bà Giàng Súa cũng không đếm được.             Lúc ấy có tiếng lạt sạt đến sau lưng bà Giàng Súa. Một thân cây to tướng rơi huỵch xuống trước vách. Thào Nhìa chạy vào, vừa thở vừa trỏ tay đằng kia:             - Bao nhiêu ngựa, mẹ ơi!             Bé Mỵ cũng lật đật chạy ra khỏi đám lửa lom đom. Bé Mỵ rét quá, run rẩy, lập cập hàm răng hỏi anh:             - Nhiều quá hả? Có ngưa à? Ngựa nào, ngựa quan à?             Thào Khay, ngoài nương ngô, cũng vừa về.             Cái địu nhẹ thếch khoác vai, buông thõng một dây nghiêng trên lưng. Trong địu lăn ra mấy bắp ngô khấp khểnh, hạt long, hạt chuột gặm, mỗi bắp rơi một nơi. Cũng chưa ai buồn nhặt, có gì mà nhặt! Khay đứng trố mắt, như hỏi Nhìa. Thào Nhìa còn mải cắt nghĩa cho bé Mỵ:             - Không, ngựa thồ đấy. Mày chưa trông rõ à? Một toán lại có một người đuổi ngựa đấy thôi. Toàn ngựa tải hàng.             Chẳng hiểu gì cả, bé Mỵ cũng reo to:             - Phải rồi.             Thào Khay nhìn ra phía dốc núi tối mịt rồi nói:             - Ngựa tải hàng, mẹ ạ. Nhiều quá. Mẹ thấy không?             Bà Giàng Súa đáp:             - Mẹ nghe tiếng rồi.             Những tiếng gì cứ vừa xôn xao vừa mơ hồ tới, như tiếng rít, tiếng vó ngựa, tiếng thở, tiếng nhạc khô lạnh ở cổ ngựa.             Trẻ con lúc nào cũng thích xem ngựa. Cả ba anh em đều ra chăm chú nhìn xuống. Bấy giờ chẳng nhìn thấy gì nữa, nhưng vẫn sướng mê vì chúng đương tưởng ra một đàn ngựa hết sức đông đương nối đuôi đi lên, lẫn lộn với bóng sương, bóng núi, bóng tối.             Bà Giàng Súa đứng dậy, gỡ cái địu nghiêng trên vai Thào Khay. Cái bắp ngô bị chuột cắn xơ xác rơi nốt xuống. Bà toan hỏi Khay: "Còn mấy bắp này thôi à?", nhưng thấy bọn trẻ con mải nghé nghiêng, bàn tán chuyện đàn ngựa, bà lại im. Nỗi lo hết ngô chen mềm vui có các con đông đủ trước mặt. Bà Giàng Súa thở dài rồi ngồi xuống.             Lát sau, bà khe khẽ nói:             - Ngựa tải hàng ông Sìn đấy. Tết đến rồi.             Bây giờ thì cả các chỏm núi và vệt đường chân dốc đều đã bị xóa mờ từ lâu. Nhưng người đàn bà khốn khổ vẫn trông thấy trong vòm sương đặc những ngày xưa có gió thổi thật rét, những ngày Tết nhộn nhạo tiếng khèn, tiếng sán tiếng thanh la, tiếng người cúng hò hét, rin rít, có cả xóm đến xem cúng và ăn cỗ.             Ngày Tết vui những nhà ai ngày trước. Trẻ con khi ấy cũng biết uống từng bát rượu.             Bốn mẹ con cứ ngồi yên quanh bếp đã vạc hết lửa, trong lòng rừng.             Trên lưng dốc tối đen dưới kia bỗng bật hồng một loạt đuốc dài, sáng lốm đốm như hàng chân con giời leo đương bám bóng đêm bò lên.             Đã nghe rõ hẳn tiếng móng ngựa trượt đá, tiếng ngựa hí vào đêm vắng. Những âm vang lạ lùng đem đến bao nhiêu chờ đợi và lo lắng cho mọi người.             Một cái Tết lại sắp qua ngoài kia, đến tận các làng xa. Lũ con bà Giàng Súa nương náu trong rừng không biết Tết, chỉ mang máng cái Tết từ lâu lắm, và bao giờ nghĩ đến cũng háo hức vô cùng.             Đêm ấy, mẹ con nhà Giàng Súa đành ngồi chịu lạnh đến tận khuya.             Không dám nổi lửa, sợ người ngựa đi ngoài rừng trông thấy. Mời các bạn đón đọc Miền Tây của tác giả Tô Hoài.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đâu Phải Vì Yêu - Debbie Macomber
Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Những lời ca ngợi dành cho tiểu thuyết của Debbie Macomber “Thật thú vị khi phát hiện ra một nhà văn không hề dựa vào tình dục và những hành động báng bổ để viết nên những câu chuyện hấp dẫn tuyệt vời.” – G.Schmorleizt, một độc giả ở California đã vượt qua chứng trầm cảm nhờ đọc tiểu thuyết “Tiểu thuyết lãng mạng của Debbie Macomber rất mới lạ vì cách phát triển đầy thực tế, nhẹ nhàng và mãnh liệt của câu chuyện. Nó vươn mình trong thế giới tình yêu, một thế giới cho phép sự say mê, đắm đuối phát triển thành một thứ gì đó tồn tại mãi mãi và đủ đặc biệt để vượt qua mọi khó khăn thử thách!...” – CrystalRiviers.com “Những cuốn sách trong loạt truyện về Vịnh Cedar của Macomber giống như một hộp bánh nướng Krispy Kreme: nhừ và mịn nhưng cực kỳ ngon và càng ăn càng nghiện.” – Publishers Weekly “Đôi khi lối kể chuyện của Macomber khiến người ta trào nước mắt, có lúc lại khiến người ta mỉm cười.” – Newport News, VA, Daily Press *** Series truyện Chuyện tình Vịnh Cedar hiện đã xuất bản 9 cuốn: 1. Đâu phải vì yêu​ 2. Ngày mai không hẹn trước 3. Tìm lại tình yêu 4. Có anh trong đời 5. Vẫn mãi yêu anh 6. Đánh thức trái tim 7. Vì em yêu anh 8. Hơn cả yêu thương 9. Giáng sinh ngọt ngào *** Vài lời cùng độc giả Bạn đọc thân mến, Chào mừng đến với vịnh Cedar, Oa-sinh-tơn. Tôi hy vọng các bạn thích thú khi gặp gỡ những người bạn mới của tôi. Và tôi hy vọng rằng khi gặp, các bạn sẽ cảm thấy dễ chịu với Olivia, Grace, Charlotte, Cecilia, Jack, Ian, Seth và tất cả những người khác như những người hàng xóm nhà bạn. Các bạn thấy đấy họ là những người bạn của tôi. Vân không hẳn vậy. Vịnh Cerda nằm ở thị trấn cảng Orchard quê hương tôi, Oa-sinh-tơn, nhưng các nhân vật và câu chuyện của họ hoàn toàn là hư cấu từ trí tưởng tượng của tôi. Tuy nhiên, nếu ai đã từng bước qua những con phố của cảng Orchard, sẽ đều nhận ra những tòa nhà và những sự kiện tôi đã miêu tả. Thư viện, Tòa thị chính mới, và cả cuộc thi nhại tiếng chim Hải Âu đều là một phần và là hiện thực cuộc sống ở cảng Orchard. Sau khi viết những câu chuyện liên quan đến Alaska, Texas và Bắc Dakota, tôi đã nhận được hàng chục lá thư với những gợi ý về các cốt truyện ở những thành phố khác. Và trong khi quyết định, tôi chợt nhận ra chẳng có nơi nào tôi có thể yêu thích hơn bang Oa-sinh-tơn xinh đẹp quê hương tôi. Trong suốt những năm qua, mọi thị trấn hay thành phố nhỏ tôi từng tạo ra đều là một phần cuộc sống tôi từng biết - cuộc sống chính tôi từng trải nghiệm khi kiếm tiền nuôi cả gia đình tôi ở ngay cảng Orchard này. Với xê-ri truyện về vịnh Cerda, tôi đã chính thức đưa cuộc sống này lên trang giấy. Trước khi các bạn kịp hỏi liệu Vịnh Cerda là một tác phẩm bộ ba hay là một xê-ri tám tập truyện khác, tôi sẽ kể cho các bạn nghe. Câu trả lời là tôi không biết. Để kể hết những câu chuyện, sẽ như bao nhiêu cuốn khác thôi. Lúc nào cũng vậy, mục tiêu của tôi là giúp các bạn cầm cuốn sách đầu tiên hay cuốn thứ mười lên và ngay lập tức trải nghiệm cảm giác mình được chào đón. Vì vậy, xin hãy nán lại và cùng thưởng thức một chút lãng mạn, một chút huyền bí và một chút từng trải xuyên suốt cả tác phẩm. Hãy nán lại và cùng làm quen với cả cộng động những người bạn mới. Tôi biết, tất cả bọn họ đều đang náo nức muốn được tự giới thiệu mình với bạn. *** Cecilia Radall đã nghe kể về những người, mà nếu cho họ một điều ước, họ sẽ muốn sống lại chính cuộc đời của mình. Nhưng cô thì không muốn như vậy. Cô hài lòng với giai đoạn mười hai tháng kể từ khi cô bước sang tuổi hai mươi hai. Mười hai tháng đã trôi qua. Tháng Giêng vừa rồi, ngay sau Tết, cô đã gặp Ian Jacob Randall, một anh chàng hải quân, một thủy thủ tàu ngầm. Cô đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng - đó là để mình dính bầu. Rồi cô làm rối tung mọi chuyện lên bằng một sai lầm nữa, là làm đám cưới với anh chàng này. Đó là lỗi thứ ba và từ đó, cô ngày càng lún sâu hơn vào những sai lầm nối tiếp nhau. Cô thật ngốc nghếch, ngây thơ trong tình yêu - và tệ hơn cả - là cô quá lãng mạn. Bởi thế mà anh chàng hải quân và cuộc sống của anh ta đã nhanh chóng hấp dẫn cô. Cô con gái nhỏ Allision Marie của họ bị sinh non trong khi Ian đang công tác ngoài biển. Đã thế cô bé còn bị chứng tim bẩm sinh. Đến khi Ian trở về, Allision Marie đã qua đời. Lúc người ta hạ chiếc bình đựng tro hỏa táng nhỏ xíu của con gái mình xuống đất ướt lạnh lẽo của vùng Tây bắc Thái Bình Dương, Cecilia cô đơn đứng nhìn, gió mưa không ngớt táp vào mặt cô rát buốt. Cô buộc phải có những quyết định giữa sự sống và cái chết mà chẳng có lời khuyên nào của gia đình hay sự động viên an ủi của chồng mình. Mẹ cô sống ở vùng bờ biển phía Đông và vì có một cơn bão tuyết nên bà không thể bay tới Oa-sinh-tơn. Cha cô ủng hộ cô theo cách của ông - và nó quá ít ỏi. Ý tưởng “có mặt ở chỗ con gái” của ông chỉ là gửi cho cô tấm thiệp, và viết vài dòng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước nỗi mất mát lớn lao của cô. Biết bao đêm cô thẫn thờ choáng váng và khóc ròng bên chiếc nôi trống của con, cô yêu đứa con bé bỏng tội nghiệp của mình biết bao. Những người vợ hải quân khác cố an ủi cô nhưng Cecilia không cảm thấy thoải mái với người lạ. Cô từ chối sự cảm thông giúp đỡ và tình bạn của họ. Vì mới ở vịnh Cerda trong một thời gian ngắn nên cô chưa kịp có bạn bè thân thiết. Do đó cô càng cảm thấy mình cô đơn trống vắng hơn. Khi Ian trở về, anh cố giải thích sự chậm trễ của mình là do các thủ tục trong ngành hải quân. Nhưng Cecilia đã quá mệt mỏi rồi. Chỉ có một hiện thực đau đớn tồn tại trước mắt cô: con gái cô đã chết. Chồng cô không thể biết và không thể cảm nhận được những gì cô đã phải chịu đựng trong một thời gian anh đi vắng. Vì anh ở trên một chiếc tàu ngầm hạt nhân nên trong suốt thời gian làm nhiệm vụ, tất cả các cuộc liên lạc chỉ được giới hạn trong những chữ “các bức điện từ gia đình”. Nhưng cũng chẳng thể làm được gì vì đúng thời điểm đó, con tàu lại bị kẹt dưới một mỏm băng. Cô đã báo cho anh về sự ra đời và cái chết của Allison. Cô đã viết về nỗi đau giằng xé trái tim mình trong những tin nhắn ngắn ngủi đó mà chẳng hề biết rằng chúng bị nhân viên hải quân kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy mà mãi đến khi chuyến đi mười ngày kết thúc, viên sỹ quan trên tàu mới chuyển thông tin đến anh. Anh không biết, Ian khẳng định nhiều lần như thế. Chắc chắn là cô không thể buộc anh phải chịu trách nhiệm rồi. Tuy nhiên cô vẫn nghĩ là anh cũng có lỗi trong tất cả mọi chuyện. Mặc dù có thể điều đó là không công bằng, nhưng Cecila không thể tha thứ cho anh. Bây giờ cô muốn chấm dứt. Chấm dứt cuộc hôn nhân của cô, chấm dứt những cảm giác tôi lỗi và hối tiếc, chỉ duy nhất là chấm dứt. Cách trốn thoát duy nhất là ly dị Ian. Ngồi ở hành lang gần phòng xử, cô cảm thấy quyết tâm của mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chỉ cần một nhát búa dứt khoát của người thẩm phán là cô có thể bỏ lại sau lưng cơn ác mộng đã qua. Và cuối cùng, cô sẽ quên rằng cô từng gặp Ian Randall. ... Mời các bạn đón đọc tập đầu tiên của bộ sách Chuyện tình Vịnh Cedar: Đâu Phải Vì Yêu của tác giả Debbie Macomber.
Lời Cầu Hôn Mùa Đông (Devil in Winter) - Lisa Kleypas
Nói về series Wallflowers, thì điểm nổi bật nhất là cả dòng series này đều lấy bối cảnh nước Anh thời kỳ công tước hầu tước…. Series nói về mấy chị em bạn thân đến tuổi chống-lầy nên phải tham dự hết thảy vũ hội để tìm cơ hội vớ được một con mồi sáng giá. Dậm lên mặt hàng đống phấn, mặc áo nịt bụng chặt muốn lòi ruột, đóng giả một cô nàng yếu đuối,… Họ sử dụng hết mọi kế sách để thực hiện mục tiêu vàng: Lấy được một anh chồng. Mặc dù họ bị gán ghép vào vai Những bông hoa bên lề, trong số họ cũng có người gần ngưỡng bị đưa vào danh sách Ế, nhưng phải nói là mấy ” bà cô” này đều không phải hạng xoàng đâu nha. Không phải tất thảy họ đều thuộc hàng Mỹ nữ khuynh nước khuynh thành, nhưng ở họ có những nét đẹp mà hầu hết các cô gái ở buổi vũ hội không có để khi một chàng hầu tước vô tình bắt gặp nụ cười của một bông hoa đứng bên lề vũ hội lại ngẩn ngơ nhớ mãi. Không phải cô nào cũng bắt được con mồi sáng giá như ý định ban đầu của họ, có cô đau khổ khóc ròng vì từ vị trí đi săn chồng cô lại trở thành món ngon để cho con sói máu lạnh danh tiếng trác táng xơi tái…. *** Đôi nét về tác giả: Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Nhìn chung hầu hết tác phẩm của Lisa Kleypas đều có những kết thúc rất hậu, truyện của bà mang phong cách nhẹ nhàng là chính, tuy nhiên bà cũng theo đuổi dòng trinh thám một ít. Bà được xem là một trong những tác giả dòng lãng mạng có những cuốn sách bán chạy nhất, tác phẩm của bà được bán trên toàn thế giới và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Bộ Wallflowers gồm có: - Again The Magic - Bí mật Đêm hè - Chuyện Xảy ra giữa Mùa Thu - Lời Cầu Hôn Mùa Đông (Devil in Winter) - Scandal in Spring - A wallflower christmas *** Luân Đôn, 1843 Sebastien, Lord St. Vincent, nhìn chăm chú vào người phụ nữ trẻ vừa mới đột nhập vào cơ ngơi của anh ở Luân Đôn, và nhận ra có lẽ mình đã thực hiện một cố gắng vô ích vào tuần trước tại điền trang Stony Cross Park khi bắt cóc nhầm nữ thừa kế. Mặc dù cho đến gần đây, bắt cóc không nằm trong danh sách dài thườn thượt những hành vi xấu xa đặc trưng của Sebastien, lẽ ra anh phải khôn ngoan hơn thế. Xem xét kỹ, Lillian Bowman là một lựa chọn ngu ngốc, tuy vào lúc đó cô ta có vẻ là đáp án hoàn hảo cho vấn đề nan giải của Sebastian. Gia đình cô ta giàu có, trong khi Sebastian có tước danh và đang trong tình trạng eo hẹp tài chính. Hơn nữa Lillian hứa hẹn sẽ là một đối tác thú vị trong phòng ngủ, với vẻ đẹp của mái tóc đen nhánh và tính khí sôi nổi, nồng nhiệt. Anh lẽ ra nên chọn một con mồi ít khí thế hơn. Lillian Bowman, một nữ thừa kế người Mĩ mạnh mẽ, đã kịch liệt chống lại những kế hoạch của anh cho đến khi được giải cứu bởi vị hôn phu của cô ta, Ngài Westcliff. Jenner, một sinh vật như con cừu non đang đứng trước mặt anh đây, hoàn toàn không hề giống với Lillian Bowman. Sebastian nhìn nàng với một sự khinh miệt được che dấu, cân nhắc về những gì mà anh biết về nàng. Evangeline là đứa con duy nhất của Ivo Jenner, người sở hữu sòng bạc nổi tiếng ở Luân Đôn, và một người mẹ đã bỏ trốn cùng ông ta—chỉ để nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình. Mặc dù mẹ của Evangeline đến từ dòng dõi đoan chính, cha nàng lại còn hơn cả một kẻ cặn bã đáng khinh. Tuy phả hệ của nàng chẳng có gì vẻ vang, Evangeline có thể trở thành một sự kết hợp kha khá nếu không kể đến cái tính bẽn lẽn khập khiễng của nàng, với hậu quả là việc nói lắp bắp tra tấn người khác. Sebastian đã nghe những người đàn ông rất nghiêm túc nói rằng họ thà mặc một cái áo sơ-mi đầy gai cho đến khi da họ rướm máu còn hơn là cố trò chuyện với nàng. Thế là theo lẽ tự nhiên, Sebastian đã cố gắng hết sức để làm ngơ nàng mọi lúc có thể. Việc đó chẳng có khó khăn gì. Nàng Jenner cả thẹn có thói quen trốn trong góc phòng. Họ chưa bao giờ thật sự trò chuyện trực tiếp với nhau—một hoàn cảnh rất phù hợp với cả hai người họ. Nhưng giờ thì chẳng thể nào ngó lơ nàng được. Vì lí do nào đó Miss Jenner đã thấy phù hợp trong việc không mời mà đến tại ngôi nhà của Sebastian vào một giờ khuya khoắt khiếm nhã. Để khiến cho hoàn cảnh gây tổn hại hơn, nàng còn không có người đi kèm—và trải qua hơn nửa phút một mình với Sebastian đã đủ để huỷ hoại bất cứ cô gái nào. Anh sống sa đoạ, không có ý thức về luân lý, và tự hào một cách ngang ngạnh về điều đó. Anh xuất sắc trong những việc mình đã lựa chọn—việc của một kẻ quyến rũ suy đồi—và anh đã lập ra một chuẩn mực mà rất ít kẻ trác táng nào khác có thể theo kịp. Thả lỏng người dựa vào ghế, Sebastian quan sát Evangeline Jenner tiến tới bằng một vẻ uể oải đánh lừa. Căn phòng thư viện khuất trong bóng tối chỉ trừ một ngọn lửa nhỏ trong lò sưởi, ánh sáng lung linh nhẹ bập bùng trên gương mặt nàng. Nàng trông không nhiều hơn hai mươi tuổi, nước da tươi tắn, đôi mắt nàng tràn đầy nét trong sáng không bao giờ thất bại trong việc khơi dậy sự khinh miệt của anh. Sebastian chưa bao giờ xem trọng hay ngưỡng mộ sự ngây thơ. Tuy với tư cách là một quý ông buộc anh phải đứng lên khỏi ghế, anh lại thấy chẳng có lí do gì phải thể hiện cử chỉ lịch sự trong hoàn cảnh này. Thay vào đó, anh ra hiệu về chiếc ghế khác ở bên cạnh lò sưởi với cái vẫy tay lơ đễnh. “Cứ ngồi nếu cô thích,” anh nói. “Mặc dù tôi sẽ không lên kế hoạch ở lại lâu nếu tôi là cô. Tôi rất dễ bị nhàm chán, và tiếng tăm của cô thì không phải là của một người trò chuyện sắc sảo.” Evangeline không cau mày vì sự thô lỗ của anh. Sebastian không thể không tự hỏi kiểu giáo dục nào lại làm cho nàng hoàn toàn quen thuộc với việc bị xúc phạm, trong khi bất cứ cô gái nào khác cũng sẽ đỏ mặt và rưng rưng nước mắt. Hoặc nàng là một cây đậu hóm hỉnh, hoặc nàng có thần kinh vững vàng đáng nể. Cởi bỏ áo khoác ngoài, Evangeline vắt nó lên một cánh tay vịn của chiếc ghế bọc nhung, và ngồi xuống mà không tỏ vẻ duyên dáng hay giả tạo. Hoa-bên-lề, Sebastian nghĩ, nhớ lại rằng nàng không chỉ là bạn của Lillian Bowman, nhưng còn là bạn của cả em gái Lillian: Daisy, và Annabelle Hunt. Cả nhóm bộ tứ đã ngồi ngoài rìa của rất nhiều vũ hội và dạ tiệc vào mùa hội vừa qua, một băng những hoa-bên-lề đến cuối đời. Nhưng có vẻ như vận xui của họ đã thay đổi, bởi vì Annabelle cuối cùng đã có thể chộp được một người chồng, và Lillian thì chỉ vừa bới được Ngài Wescliffe. Sebastian nghi ngờ may mắn của họ sẽ lan truyền đến con người vụng về này.  Mặc dù anh rất muốn hỏi về mục đích của nàng đến viếng thăm, Sebastian e là điều đó sẽ khởi đầu một hiệp của những tràng lắp bắp tra tấn cả hai người họ. Anh buộc mình phải kiên nhẫn chờ đợi, Sebastian quan sát nàng trong ánh sáng nhảy nhót của lò sưởi, và khá ngạc nhiên khi nhận ra nàng thu hút. Anh chưa bao giờ thật sự nhìn thẳng vào nàng. Anh chỉ có cảm giác thoáng qua về một cô gái tóc đỏ vụng về nhếch nhác với dáng điệu kém cỏi. Nhưng nàng lại xinh xắn. Khi Sebastian chăm chú quan sát nàng, anh ý thức được một sự căng thẳng nhẹ đang hình thành trong các thớ thịt của mình, những sợi lông nhỏ đang dựng đứng lên sau cổ anh. Anh vẫn ngồi thả lỏng trên ghế, tuy vậy, những đầu ngón tay anh hơi ấn vào tấm khăn nhung trải bàn. Anh thấy thật lạ là mình chưa bao giờ nhận thấy nàng trong khi có rất nhiều thứ đáng để nhận thấy. Tóc nàng có một sắc đỏ tươi thắm nhất mà anh từng được chiêm ngưỡng, nó dường như hấp thụ sức sống từ ngọn lửa, sáng bừng lên với luồng hơi nóng rực rỡ. Vòm cong mảnh mai của lông mày và đôi mi dày có màu nâu đỏ đậm, trong khi làn da nàng là của một người tóc đỏ thật sự, trắng và hơi có tí tàn nhang trên mũi và hai gò má. Sebastian thấy những nốt tàn nhang ánh vàng trải rộng như pháo hoa mùa lễ hội thật thú vị, lác đác như thể được phất ra từ cây đũa thần của một nàng tiên thân thiện. Nàng có đôi môi mọng với sắc hồng tự nhiên, và đôi mắt xanh lam to, tròn...tuyệt đẹp nhưng là đôi mắt vô cảm, như đôi mắt của một con búp bê bằng sáp. “Tôi nh-nhận được tin rằng bạn tôi, Cô Bowman giờ đã là Nữ bá tước Westcliffe,” Evangeline nói với một thái độ cẩn trọng. “Cô ấy và ngài bá tước đã kết hôn ở Gr-Gretna Green sau khi ngài ấy...giải quyết ngài.” “Đánh tôi thành một cục bột nhão thì sẽ là một lựa chọn từ ngữ chính xác hơn,” Sebastian nói thoải mái, biết rằng nàng không thể không nhận thấy những vết bầm đã nhạt màu trên quai hàm anh từ trận đòn thích đáng của Westcliffe. “Cậu ấy có vẻ không chấp nhận chuyện đó tốt lắm, việc tôi mượn vị hôn thê của cậu ấy.” “Ngài b-bắt cóc cô ấy,” Evangeline điềm tĩnh phản bác. “Mượn ám chỉ rằng ngài có ý định trả cô ấy lại.” Sebastian cảm thấy môi anh cong lên trong một nụ cười thật sự đầu tiên sau một khoảng thời gian dài. Nàng không phải là một kẻ ngốc nghếch, rõ ràng rồi. “Bắt cóc vậy, nếu cô muốn cụ thể hơn. Có phải đó là lí do mà cô đến thăm không, Cô Jenner? Để thông báo tin tức về cặp đôi hạnh phúc đó à? Tôi mệt mỏi vì chủ đề này rồi. Tốt hơn là cô nên sớm nói điều gì đó thú vị, nếu không tôi e là cô sẽ phải rời đi.” “Ngài m-muốn Cô Bowman vì cô ấy là một người thừa kế gia tài,” Evangeline nói. “Và ngài cần phải kết hôn với ai đó có tiền.” “Đúng vậy,” Sebastian thoải mái thừa nhận. “Cha tôi, ngài công tước, đã không thành công trong trách nhiệm duy nhất của đời mình: giữ cho gia sản bất khả xâm phạm để có thể truyền lại cho tôi. Mặt khác, trách nhiệm của tôi lại là sống thảnh thơi trong sự lười biếng phóng đãng và chờ cho ông ấy chết. Cho đến nay tôi đã thực hiện công việc của mình rất xuất sắc. Ngược lại, tước công thì lại không. Ông đã làm hỏng việc sắp xếp các khoản tài chính của gia đình, và hiện tại ông ấy đang ở trong tình trạng nghèo khó không thể tha thứ được, và còn đáng trách hơn, lại rất khỏe mạnh.” “Cha tôi giàu có,” Evangeline nói không có chút cảm xúc. “Và đang hấp hối.” “Chúc mừng cô,” Sebastian ngắm kĩ nàng. Anh không nghi ngờ Ivo Jenner có một gia sản đáng kể từ câu lạc bộ của ông ta. Sòng bạc Jenner’s là nơi những đức ông của Luân Đôn đến đánh bạc, thưởng thức đồ ăn ngon, rượu mạnh, và gái điếm rẻ tiền. Không gian nơi đó là sự phung phí pha lẫn với một mức độ xoàng xĩnh dễ chịu. Gần hai mươi năm trước, Jenner’s đã được xếp hạng thứ hai sau Craven’s huyền thoại - sòng bạc lớn nhất và thành công nhất nước Anh. Mặc dù vậy, khi Craven’s bị thiêu rụi và người sở hữu nó không cho xây dựng lại, câu lạc bộ Jenner’s đã thừa hưởng những khách hàng giàu có, và đã đứng lên vị trí dẫn đầu. Không phải là nó có thể được so sánh với Craven’s. Một câu lạc bộ phản ánh rất nhiều về cá tính và phong cách của người sở hữu nó, cả hai thứ đó Jenner đều thiếu sót. Derek Craven, không phải bàn cãi, từng là một người đàn ông của công chúng. Ivo Jenner, ngược lại, là một gã thô lỗ cơ bắp, một cựu đấm bốc thủ chưa bao giờ xuất sắc ở bất cứ thứ gì, nhưng bởi một sự sắp đặt thần kì nào đó của định mệnh đã trở thành một người đàn ông kinh doanh thành đạt.  Và đây là con gái của Jenner, đứa con duy nhất của ông ta. Nếu nàng đang sắp đưa ra lời đề nghị đúng như Sebastian nghĩ, thì anh không có đủ khả năng để từ chối. “Tôi không muốn những l-lời chúc tụng của ngài,” Evangeline trả lời câu nhận xét trước đó của anh. “Cô muốn gì, bé con?” Sebastian hỏi dịu dàng. “Nếu cô vui lòng, hãy nói vào vấn đề chính đi. Chuyện này đang trở nên chán ngắt.” “Tôi muốn ở bên cha tôi trong những ngày c-cuối đời của ông. Gia đình bên mẹ tôi không cho tôi đến gặp ông. Tôi đã cố bỏ trốn đến câu lạc bộ, nhưng họ luôn luôn bắt được tôi, và rồi tôi bị trừng phạt. Lần này thì tôi s-sẽ không trở lại với họ. Họ đã lên một kế hoạch mà tôi muốn tránh bằng mọi giá—kể cả bằng mạng sống của mình, nếu cần thiết.” “Và kế hoạch đó là?” Sebastian uể oải giục. “Họ đang cố ép tôi kết hôn với một trong những người anh họ của tôi. Mr. Eustace Stubbins. Anh ta c-chẳng quan tâm gì đến tôi, mà tôi cũng không quan tâm gì đến anh ta...nhưng anh ta tình nguyện làm một con tốt trong âm mưu của gia đình tôi.” “Để nắm giữ gia sản của cha cô trong tay sau khi ông ta chết?” “Vâng. Lúc đầu tôi đã xem xét ý tưởng đó, bởi vì tôi nghĩ Anh Stubbins và tôi có thể có ngôi nhà của riêng mình...và tôi đã nghĩ...cuộc sống có thể chịu đựng được nếu tôi có thể sống xa bọn họ. Nhưng Anh Stubbins đã nói với tôi rằng anh ta không có ý định chuyển đi đâu cả. Anh ta muốn ở lại dưới mái nhà của gia đình...và tôi không nghĩ là tôi có thể sống sót ở nơi đó lâu hơn nữa.” Đối mặt với sự im lặng có vẻ thờ ơ của anh, nàng lặng lẽ nói thêm, “Tôi tin là họ có ý g-giết tôi sau khi đã có được tiền của cha tôi.” Ánh mắt Sebastian không rời khỏi khuôn mặt nàng, anh giữ cho giọng mình nhẹ nhàng. “Họ mới khinh suất làm sao. Tại sao tôi lại phải quan tâm?” Evangeline không rơi vào bẫy của anh, chỉ hướng về anh cái nhìn chăm chăm điềm tĩnh, thể hiện tính ngoan cố bẩm sinh mà Sebastian chưa bao giờ gặp ở một phụ nữ trước đây. “Tôi đang đề nghị ngài kết hôn với tôi,” nàng nói. “Tôi muốn có sự bảo vệ của ngài. Cha tôi bệnh quá nặng và quá yếu để có thể giúp tôi, và tôi sẽ không trở thành một gánh nặng cho bạn bè của mình. Tôi tin là họ sẽ đề nghị cho tôi ẩn náu, nhưng nếu được như thế tôi cũng sẽ luôn luôn phải đề phòng, lo sợ những người họ hàng có thể bắt tôi đi và buột tôi làm theo ý họ. Một phụ nữ chưa kết hôn có rất ít quyền lợi, cả trong xã hội và trước pháp luật. Điều đó không c-công bằng...nhưng tôi không đủ khả năng để đi đánh nhau với những cối xay gió. Tôi cần một ng-người chồng. Ngài cần một người vợ giàu có. Và chúng ta đều tuyệt vọng như nhau, điều đó khiến tôi tin rằng ngài sẽ đồng ý với lời đ-đề nghị của tôi. Nếu như vậy, thì tôi sẽ muốn đến Gretna Green ngay tối nay. Ngay bây giờ. Tôi chắc là lúc này những người họ hàng của tôi đã bắt đầu tìm kiếm rồi.” Sự tĩnh lặng nặng nề ngập trong không trung khi Sebastian đánh giá nàng với một cái nhìn thiếu thiện cảm. Anh không tin tưởng nàng. Và sau cuộc bắt cóc thất bại tuần trước, anh không có ý định lặp lại kinh nghiệm đó lần nữa. Dù vậy, nàng vẫn đúng về một điều. Sebastian thật sự đang tuyệt vọng. Như những người chủ nợ sẽ thừa nhận, anh là một người đàn ông thích mặc quần áo sang trọng, ăn uống ngon lành, điều kiện sống tốt. Khoản trợ cấp hàng tháng mà anh nhận được từ công tước sẽ sớm bị cắt giảm, và chỉ mới tháng trước anh còn không có đủ tiền trong tài khoản. Đối với một người đàn ông không có sự phản đối nào với việc chọn lựa con đường dễ dàng, lời đề nghị này đúng là của trời cho. Nếu nàng thật sự sẵn sàng thực hiện nó. “Của được cho thì không nên kén chọn,” Sebastian nói thẳng thừng, “nhưng cha cô đang hấp hối đến mức nào? Một vài người còn lê lết nhiều năm trên giường bệnh của mình. Tôi luôn nghĩ đó là một phong cách rất tệ, khi khiến cho mọi người phải chờ đợi.” “Ngài sẽ không phải đợi lâu,” là câu trả lời nổi cáu của nàng. “Tôi đã được bảo là ông sẽ chết trong khoảng hai tuần nữa, có lẽ vậy.” “Có gì chắc chắn là cô sẽ không thay đổi ý định trước khi chúng ta đến được Gretna Green không? Cô biết tôi là loại người nào rồi đấy, Cô Jenner. Có cần tôi nhắc nhở cô rằng tôi đã cố gắng bắt cóc và cưỡng hiếp một trong những người bạn của cô vào tuần trước?” Cái nhìn của Evangeline hướng thẳng về phía anh. Không giống như đôi mắt anh, với một sắc lam nhạt, mắt của nàng là những viên ngọc saphire xanh thẫm. “Ngài có cố cưỡng hiếp Lillian không?” nàng căng thẳng. “Tôi đã đe dọa như thế.” “Ngài sẽ thực hiện lời đe dọa đó chứ?” “Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ bị buột phải làm thế trước đây, nhưng như cô đã nói, tôi đang tuyệt vọng. Và trong khi chúng ta đang nói về chuyện này...có phải cô đang đề nghị một hôn nhân vì lợi ích, hay chúng ta sẽ ngủ với nhau trong vài dịp?” Evangeline làm ngơ câu hỏi đó, vẫn dai dẳng. “Liệu ngài có e-ép buộc cô ấy hay không?” Sebastian nhìn nàng chằm chằm với vẻ châm biếm hiển nhiên. “Nếu tôi nói không, Cô Jenner, thì làm sao mà cô biết tôi có nói dối hay không? Không. Tôi sẽ không cưỡng hiếp cô ấy. Câu trả lời này có phải là thứ cô muốn? Cứ tin nó đi vậy, nếu nó khiến cô thấy an toàn hơn. Giờ, với câu hỏi của tôi...” “Tôi sẽ ng-ngủ với ngài một lần thôi,” nàng nói, “để khiến cho hôn nhân này hợp pháp. Không bao giờ có lần sau đó.” “Tuyệt thật,” anh thì thầm. “Rất hiếm khi tôi lại thích ngủ với một phụ nữ nhiều hơn một lần. Đúng là sự nhàm chán cấp tốc, sau khi điều mới lạ đã ra đi. Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ làm một kẻ trưởng giả và đi thèm muốn vợ mình. Mà đã thèm muốn vợ thì có nghĩa là sẽ không được giữ một người tình. Tất nhiên là còn có vấn đề phải sinh cho tôi một người kế vị...nhưng chừng nào mà cô còn kín đáo, tôi không quan tâm cái đếch gì nó là con của ai.” Nàng còn không hề chớp mắt. “Tôi sẽ muốn một p-phần trong di sản được để lại cho tôi qua một ủy thác. Một ủy thác rộng rãi. Khoản lợi nhuận sẽ chỉ của riêng tôi mà thôi, và tôi sẽ sử dụng nó theo ý của mình-mà không phải báo cáo cho ngài về mọi việc tôi làm.” Sebastian giờ đã hiểu rằng nàng không hề ngốc nghếch, mặc dù tật nói lắp sẽ khiến cho nhiều người nghĩ khác. Nàng đã quen với việc bị xem thường, bị ngó lơ, bị bỏ qua một bên...và anh đoán chừng nàng sẽ lấy điều đó làm lợi thế cho mình bất cứ khi nào có thể. Việc này khiến anh thích thú. “Tôi phải là một kẻ ngốc mới tin tưởng cô,” anh nói. “Cô có thể quay lưng lại với thỏa thuận của chúng ta vào bất cứ lúc nào. Và cô phải là một kẻ ngu ngốc hơn nữa mới đi tin tôi. Bởi vì một khi chúng ta đã kết hôn, tôi có thể còn xử tệ với cô hơn cả những gì gia đình phía mẹ cô có bao giờ mơ tới.” “T-thà rằng đó là một người tôi chọn,” nàng đáp lại nghiêm nghị. “Là ngài thì tốt hơn là Eustace.” Sebastian phì cười vì điều đó. “Câu đó không nói lên nhiều điều tốt về Eustace lắm.” Nàng không đáp trả lại nụ cười của anh, chỉ hơi sụm người trên ghế, như thể một sự căng thẳng nặng nề đã rời bỏ nàng, và nhìn anh chằm chằm với một vẻ yên phận cam chịu.    Ánh mắt họ gặp nhau, và Sebastian cảm thấy một cú sốc nhận thức kì lạ chảy rần rật từ đầu đến chân. Với anh, việc bị một phụ nữ kích thích chẳng có gì mới mẻ. Từ lâu anh đã nhận ra mình là một người đàn ông thiên về thể xác hơn những người khác, và rằng một vài phụ nữ nhen nhóm ngọn lửa trong anh, thổi bùng lên khát vọng đến một mức độ bất bình thường. Không hiểu vì sao cô gái vụng về, nói lắp bắp này lại là một trong số họ. Anh muốn ngủ với nàng. Những hình ảnh vụt hiện lên từ trong trí tưởng tượng xáo động của anh, về cơ thể nàng, về những đường cong và làn da mà anh còn chưa được nhìn thấy, sự căng tròn của mông nàng khi anh khum nó trong hai bàn tay. Anh muốn hương thơm của nàng tràn vào mũi, thấm vào da anh...mái tóc dài của nàng lướt qua cổ và ngực anh...Anh muốn làm những điều không thể nói nên lời với miệng nàng, và với miệng anh. “Vậy điều đó đã được quyết định,” anh thì thầm. “Tôi chấp nhận lời đề nghị của cô. Còn rất nhiều thứ phải bàn, tất nhiên, nhưng chúng ta sẽ có hai ngày cho đến khi đến được Gretna Green.” Anh đứng lên từ chiếc ghế và vươn vai, nụ cười của anh phảng phất khi anh nhận thấy ánh mắt của nàng lướt nhanh khắp người anh. “Tôi sẽ cho chuẩn bị xe ngựa và bảo người hầu thu xếp hành lý. Chúng ta sẽ đi trong khoảng một tiếng nữa. Tiện đây, nếu cô có quyết định rút lại thỏa thuận bất cứ lúc nào trong chuyến hành trình của chúng ta, tôi sẽ thắt cổ cô.” Nàng liếc anh vẻ chế giễu. “Ngài sẽ không phải quá căng thẳng về điều đó nếu ngài đã không thử làm thế với một nạn nhân miễn cưỡng vào t-tuần trước.” “Nói hay lắm. Vậy chúng ta có thể miêu tả cô như một nạn nhân tình nguyện?” “Một nạn nhân hăng hái,” Evangeline nói ngắn gọn, trông như thể nàng muốn rời khỏi ngay lập tức. “Kiểu yêu thích nhất của tôi,” anh nhận xét, và cúi người lịch sự trước khi anh sải bước rời khỏi thư viện.  ... Mời các bạn đón đọc tập mở đầu của bộ sách Wallflowers: Devil in Winter của tác giả Lisa Kleypas.
Những Chàng Trai Tháng 12 - Michael Noonan
Michael Noonan là tác giả của 18 cuốn tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn nổi tiếng dành cho độc giả ở nhiều lứa tuổi, bao gồm series truyện dài kì Flying Doctor, Magwitch và A Different Drummer. Ông cũng là nhà viết kịch bản, nhà soạn kịch cho các chương trình phát thanh, đài truyền hình, phim truyện và sân khấu. Các tác phẩm của ông đã được xuất bản, dựng thành phim và trình chiếu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cuốn sách đầu tay của ông có tên là In the Land of the Talking Trees được sáng tác khi ông còn đang phục vụ trong quân ngũ ở New Guinea trong Chiến tranh Thế giới thứ II. Cuốn tiểu thuyết dành cho các độc giả tuổi teen của ông có tên là McKenzie’s Boots (có tên trong dang sách “Những cuốn sách bán chạy nhất cho thanh thiếu niên” vào năm 1988 do American Library Association bầu chọn) được dựa theo những kinh nghiệm mà ông có được trong suốt thời kì chiến tranh. Tác phẩm The Patchwork Hero đã được Đài truyền hình ABC chuyển thể thành phim và dành giải thưởng cao. Giống như The December Boys, bối cảnh cho câu chuyện xảy ra vào năm 1930. Sau chiến tranh, Michel Noonan theo học ngành hội hoạ tại Phòng tranh Quốc gia ở Melbourne ( ông là tác giả của cuốn tiểu sử về hoạ sĩ Turner, cha đẻ của bức tranh The Sun Ir God nổi tiếng ), tiếp đó là ngành kịch nghệ, văn học, lịch sử và triết học tai Đại học Sydney. Từ năm 1957 đến năm 1979, ông sống ở Anh, sau đó quay trở về Australia và sống nốt quãng đời còn lại ở Queensland. Ông mất năm 2000. Những chàng trai tháng 12 (The December Boys) từ lâu đã được coi là một tác phẩm kinh điển của Australia. Đó là câu chuyện về 5 cậu bé đến từ Cô nhi viện St.Roderick. Tên của 5 cậu là Maps – thích lần theo đường bờ biển, Sharks – tóc đỏ và đầy chấm tàn nhang, Fido – được đặt tên theo một chú cún trong truyện tranh, Misty – có một mắt bình thường còn mắt kia không tốt, và bị che bởi cái mắt kính mờ tịt, và Choker – được đặt tên như thế (“Choker” có nghĩa là kẻ hay bị nghẹt, nói không nên lời) vì chẳng bao giờ trả lời được các câu hỏi trong lớp học. Năm người bạn này được gọi là “Những chàng trai tháng Mười Hai” vì mọi người đều nghĩ chúng đều được sinh vào tháng Mười Hai. Chúng được đưa đến bãi biển vào kì nghỉ, do bà Hodge “tài trợ”. Câu chuyện này được kể qua lời của Choker với một cái nhìn mới mẻ, ngây thơ và lạ lẫm đối với môi trường xung quanh cũng như với những sự việc xảy ra ở đó. Khi các cậu bé mới đến , tất cả đều sung sướng vì cảm giác tự do. Vì trước đó chưa đứa nào được đến bãi biển, nên chúng thích thú từ cơn sóng, bãi cát và mọi trò khám phá mà chúng có thể thực hiên quanh bãi biển. Captian’s Folly là một thị trấn nổi lên từ cuộc Đại Khủng hoảng những năm 1930 và khá vắng vẻ. Các cậu bé được giới thiệu với một đám dân cư sinh sống ở đây – những người lập dị một cách ngộ ngĩnh và thú vị. Trong đó gồm chủ nhà – ông bà McAnsh, và mấy cậu bé nhanh chóng phát hiện ra rắng hai ông bà dễ dàng bị “hạ gục” bời vài chai rượu vang, cho phép chúng được tự do nhiều hơn. Mấy cậu cũng kết bạn với một đôi vợ chồng – cô Teresa và chú Can Đảm, cùng với ông Lão Làng O’Leary – một người có rất nhiều kiến thức về địa phương. Qua O’Leary mà các chú còn gặp những người khác như Galore Bàn Tay Vàng, Hai Martin và Porter Bụng Phệ. Vào đêm Giao Thừa, Choker tình cờ nghe được chú Can Đảm nói với ông Lão Làng rằng họ (chú Can Đảm và cô Teresa) không thể sinh con và họ muốn nhận một đứa con nuôi. Cảm thấy quá “nặng gánh” nếu cứ giữ bí mật này một mình, Choker đành thú nhận với vị linh mục, và ông khuyên cậu nói ra với những người bạn của mình. Kể từ đó, kỳ nghỉ hầu như bị phá hỏng bởi sự ganh đua và cạnh tranh căng thẳng của các cậu bé, nhằm thể hiện mình vượt trội hơn những đứa khác, để thu hút sự chú ý và cảm tình của cô Teresa, với mong muốn được nhận làm con nuôi, trở thánh thánh viên của một gia đình thật sự… Xuyên suốt câu chuyện là chủ đề về tình bạn, về ước mơ có một gia đình, vế mong muốn rất hường hấy của tuổi mới lớn là được “hoà nhập” với xã hội, được “bình thường” như những người khác. “The December Boys” đã được dựng thành phim, với vai chính thuộc về Daniel Radcliffe (diễn viên đóng vai Harry Potter). Thân tặng Ted Willis – chủ nhân của căn nhà nơi cuốn sách này được thai nghén – vì tình bạn lâu năm và những lời động viên chân thành của anh. *** “Con còn lời nào muốn xưng tội nữa không, con trai?” Một giọng thì thầm khàn đục cất lên, phía bên kia tấm lưới sắt là cái bóng của vị linh mục. Có chứ, tôi vẫn còn muốn xưng tội tiếp nhưng không biết phải mở lời như thế nào. Từ trước tới nay mọi tội lỗi của tôi chỉ xoay quanh mấy chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, không có gì là đặc biệt: lỡ miệng nói bậy, gọi tên Người, bật cười trong nhà thờ, nói dối về việc rửa chân mỗi tối, bỏ qua các buổi cầu nguyện sáng và đêm. Tuy nhiên tôi luôn cảm thấy mình có lý do để bỏ qua mấy buổi cầu nguyện đó, bởi lâu nay tôi vốn đã không chăm chú lắm vào điều được coi là Thiên đường của mọi người – các tín đồ Công giáo, Tin Lành… “Hãy nói ta nghe, con trai.” Biết phải giải thích thế nào đây? Tôi tình cờ nghe được thông tin đó thì đâu phải là lỗi của tôi. Nó đè nén trong tôi suốt quãng thời gian qua, như một thứ trái cấm mà tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài mong muốn được nếm thử một lần xem sao. “Con có một bí mật.” – Cuối cùng tôi cũng cất lời. “Một bí mật sao, con trai?” “Vâng, thưa Cha.” “Và nó khiến con phải lo lắng?” “Vâng, thưa Cha.” “Có lẽ con đã bị cám dỗ bởi những suy nghĩ tội lỗi?” Mọi việc có thể không phải bắt đầu theo cái cách mà Cha nghĩ, nhưng rõ ràng là những suy nghĩ tội lỗi của tôi thì có thật. Sự thật là mấy tuần gần đây trong đầu tôi luôn tràn ngập cái ý nghĩ tội lỗi ấy. Thông tin mà tôi nghe lỏm được thật quý giá, và tôi đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải làm sao để ngăn không cho thông tin ấy lọt vào tai của bốn đứa bạn thân. “Một bí mật cũng có thể là tội lỗi, con trai ạ.” Đó chính là điều mà tôi đã luôn lo sợ. “Hãy bày tỏ nỗi lòng của con và rồi tâm hồn con sẽ được thanh thản.” Và thế là tôi kể cho Cha nghe. Về việc tôi đã nghe lỏm được, một cách vô tình, cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông có tên Foley Can Đảm và O’Leary Lão Làng về một phụ nữ tên Teresa. Có lẽ Cha hiếm khi phải nghe lời xưng tội từ một con chiên mới 12 tuổi như tôi. Cha ngồi trầm ngâm suy tư bên trong căn buồng buông rèm tối đó, nơi những suy nghĩ vẩn đục được các con chiên tự do thổ lộ và chế ngự. Phía bên kia tấm lưới sắt là tôi, đang quỳ gối xưng tội. Toàn bộ căn phòng được bao trùm bởi một sự yên lặng như tờ, đâu đó thỉnh thoảng vang vọng những tiếng thì thầm xưng tội của những con chiên đang ngồi trên các băng ghế dài phía bên ngoài. “Con trai của ta,” – Cha khẽ nói – “bằng việc muốn giữ riêng thông tin này cho bản thân, liệu con đã công bằng với những người khác chưa? Nếu con vẫn tiếp tục giữ im lặng, thì có nghĩa là con đang ích kỷ và trong mắt của Chúa, đó là một tội lỗi. Do đó, để tìm lại sự thanh thản cho mình, có lẽ tốt nhất là con nên chia sẻ thông tin mà con nghe được với những người bạn của mình. Hãy chia sẻ bí mật với họ, con trai của ta. Niềm vui và những nỗi lo trong cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu chúng ta được chia sẻ”. Tiếp đó Cha nói lời xá tội cho tôi bằng tiếng Latinh. Ngày nay phương thức sám hối có vẻ cũng thay đổi, từ việc đọc ba lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng hằng đêm đến việc đọc kinh Mân Côi trong 10 ngày liên tục, phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ và độ thường xuyên của tội lỗi mà người đó mắc phải. Tôi đã được Cha miễn cho không phải sám hối nhưng vốn kiến thức ít ỏi về tín ngưỡng vẫn đủ để tôi hiểu được rằng tội lỗi của tôi sẽ chỉ được gột rửa hoàn toàn khi tôi chịu làm theo lời khuyên của Cha và tiết lộ với tám cái tai thính kia của tụi bạn về cái điều sẽ khiến chúng phải ồ lên vì kinh ngạc. “Hãy cầu nguyện cho ta, con trai” – vừa nói Cha vừa kéo tấm gỗ nhỏ đằng sau tấm sắt và quay qua tiếp tục nghe lời cầu nguyện ở phía bên kia của căn phòng. Cầu nguyện cho Cha nữa ư? Với “nhiệm vụ” mà Cha vừa giao, chắc chắn tôi sẽ vô cùng bận rộn cầu nguyện cho bản thân mình ấy chứ.
Tuyển Tập Linda Howard
Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. *** Tác phẩm tiêu biểu: Sắc màu của hoàng hôn Cầu vồng lúc nửa đêm Vịnh tình yêu White Lies - Bản giao hưởng ngọt ngào The way home - Đường về nhà... *** eBook Tuyển Tập Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương Mời các bạn đón đọc ​Tuyển Tập Linda Howard.