Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khiêu Vũ Với Bầy Sói

Đại tá John Dunbar phiêu bạt đến một bộ lạc người da đỏ và được bộ lạc cưu mang. Cuộc sống êm đềm diễn ra giữa thiên nhiên hoang dã và những con người hồn nhiên, đặc biệt tình yêu nảy nở giữa anh và một người con gái da trắng được bộ lạc này nuôi dưỡng từ nhỏ. Năm 1836, khi chiến tranh còn đang giai đoạn nóng bỏng, đại tá John Dunbar vừa thoát chết sau một cuộc giao tranh với một bên chân bị thương nặng. Các bác sĩ ở bệnh viện Union Field tại Tennessee không thể cắt bỏ nó, đau đớn đến cùng cực tưởng như không thể chịu đựng được nữa, Dunbar tuyệt vọng và suýt nữa tự tử. Đột nhiên trong lúc tuyệt vọng và lang thang ở biên giới phía tây, Dunbar bắt gặp một con sói tên là Two-Socks và bộ lạc người da đỏ Sioux. Anh được họ cưu mang và gọi tên là “Dances With Wolves”. Thời gian đầu thực sự khó hòa nhập với những người da đỏ xa lạ. Anh phải quan sát học tập theo lối sống và cách xử sự của họ, kể cả ngôn ngữ của người da đỏ. *** Bản dịch này dịch theo phong cách lược dịch thường gặp ở những bản dịch cũ trước năm 2000, tức là ở đó người dịch sẽ bỏ không dịch một số đoạn văn và ở một số đoạn văn thì trình bày và diễn giải tương đối khác với nguyên tác. Do đó nếu so sánh với nguyên tác Dances with Wolves thì bản dịch này có khác biệt sau: Không chia các chương nhỏ như trong nguyên tác; và đôi khi có vài đoạn văn được bỏ qua, không dịch. Số hoá quyển sách này với mục đích lưu trữ nên tôi chủ trương trung thành hết mức có thể với phiên bản giấy. Ở phiên bản số này tôi chỉ sửa lại các lỗi đánh máy, lỗi chính tả, lỗi dịch tên không thống nhất, và có một đoạn văn dài 1500 chữ mang thông tin quan trọng với nội dung câu chuyện nhưng không được dịch, tôi đã đề chú thích bên dưới để tóm tắt nội dung đoạn bị thiếu nhằm giúp bạn đọc dễ theo dõi mạch truyện hơn. Còn lại, tất cả thông tin của sách giấy được giữ nguyên, bao gồm cả nội dung ở trang xi-nhê và bìa sau. Bìa của phiên bản này, cũng như cách dàn trang sách đều do tôi thiết kế lại. Phần Lời giới thiệu cho phiên bản số do tôi thêm vào. Trung uý John Dunbar là kẻ đang yêu, chàng yêu vùng đất miền Tây hoang sơ và bạo liệt. Tình yêu của chàng là thứ tình yêu nhiều người khao khát mà không có, nó thuần khiết và vô tư, nó cho đi và không cần nhận lại, nó không thể giải thích được bằng lí trí. Chẳng thế mà sau một trường hợp vừa có thể gọi là anh dũng, vừa có thể gọi là may mắn khiến chàng Trung uý trẻ tuổi Dunbar lập một chiến công lẫy lừng đến mức đủ cả cho một đời binh nghiệp, đến mức chàng được tưởng thưởng và xuất ngũ ngay, thế nhưng thay vì trở về quê hương chàng lại xin đầu quân vào đồn biên phòng Sedgewick. Bởi vì chàng vừa yêu miền Tây vừa sợ biên giới phía Tây sẽ biến mất trước khi chàng kịp ngắm nó. Cũng chính vì thế nên mặc cho đồn Sedgewick đã trở thành hoang lương từ lâu trước khi Dunbar đến do toán lính cũ bỏ đi vì nản lòng với cuộc sống thiếu thốn và buồn tẻ, chàng vẫn kiên định bám đồn và tự đặt nhiệm vụ cho mình là sửa sang tôn tạo nó để chờ đến khi chính quyền lại cử toán lính khác tới. Quanh chàng chỉ có nhõn hai người bạn: người bạn vàng Cisco, con ngựa cừ khôi đã cùng chàng vượt qua kì tích thập tử nhất sinh hồi còn trong quân ngũ; và người bạn không mời mà đến, một con sói già đơn độc thường lảng vảng quanh đồn Sedgewick. Chàng cô đơn lắm, mà chàng hẵng còn trẻ trung nên nỗi cô đơn càng thêm bứt rứt. Chàng cần bạn bè, cần đồng đội, và cần đàn bà. Đang lúc những đồng đội da trắng của chàng chưa đến và không biết bao giờ mới đến, thì chàng gặp những người da đỏ. Sau nhiều gặp gỡ và giao tiếp đầy khó khăn vì khác biệt ngôn ngữ, Dunbar nhận ra những người da đỏ thật khác xa với tuyên truyền của chính quyền. Nhưng 5 dù sao chàng vẫn là người da trắng, cuối cùng chàng vẫn phải đứng giữa lựa chọn vì tổ quốc hay vì hạnh phúc cá nhân. Và tuy chàng có chọn gì đi nữa, lựa chọn ấy ắt hẳn là lựa chọn mà theo lời của một người bạn quý đã từng nhận xét về chàng: lựa chọn để được đi trên “con đường của con người chân chính”. 24/1/2021 TORNAD Trung úy Dunbar chưa đến nỗi bị choáng ngợp. Đó là ý nghĩ đầu tiên bật ra trong đầu óc chàng. Mọi thứ xung quanh đều mênh mông. Bầu trời bao la không một gợn mây. Cả một thảo nguyên rập rờn bất tận. Ngoài ra không còn thứ gì khác, không có thứ gì lưu giữ tầm mắt của chàng. Không hề thấy một con đường. Thậm chí không một vết bánh xe khả dĩ đưa cỗ xe ngựa to lớn của chàng lần theo. Hoàn toàn chỉ là một khoảng trống bao la. Chàng cảm thấy lạc lõng. Điều đó khiến trái tim chàng rộn ràng một cách kỳ lạ và sâu sắc. Trong lúc ngồi trên tấm ghế phẳng lỳ lộ thiên, để mặc cho thân thể lắc lư dọc theo đám cỏ, ý nghĩ của Trung úy Dunbar tập trung vào trái tim đang đập rộn rã. Nhưng dòng máu của chàng lại không chảy mạnh. Máu của chàng vẫn bình thản. Tình trạng trái ngược ấy giúp trí óc chàng hoạt động đầy thích thú. Các từ ngữ liên tục quay cuồng trong đầu và chàng cố thử tách bạch ra xem câu nào, chữ nào thể hiện đúng cảm giác của chàng lúc này nhưng không nổi. Sang ngày thứ ba chàng bỗng chộp được một câu: “Thật là linh thiêng!” và câu đó có vẻ chính xác hơn cả. Khốn nỗi Trung úy Dunbar chưa hề theo tín ngưỡng nào bao giờ nên tuy câu đó có vẻ chính xác, chàng vốn hoàn toàn không biết dùng nó để làm gì. Nếu như bị câu đó ám ảnh nhiều, có lẽ Trung úy Dunbar cũng thử phân tích xem sao. Nhưng đầu óc mơ màng, chàng quên ngay câu ấy đi. Trung úy Dunbar trở thành kẻ si tình. Chàng phải lòng cái xứ sở hoang vu tuyệt đẹp cùng mọi thứ chứa đựng trong đó. Đấy là loại tình yêu bất cứ ai cũng khao khát được có đối với một người khác: một tình yêu vị tha và tuyệt đối tin tưởng, một tình cảm tôn sùng và bất biến. Tinh thần chàng phấn chấn và trái tim chàng rộn ràng. Phải chăng đó chính là nguyên do khiến chàng trung úy kỵ binh đẹp trai và tâm hồn cao thượng thoáng nghĩ đến tôn giáo. Chàng liếc mắt sang bên và thấy bác đánh xe Timmons đang nghiêng đầu ra ngoài thành xe nhổ nước bọt đến lần thứ một ngàn xuống đám cỏ mọc cao ngang lưng. Bác nhổ liên tục đến nỗi đờm dãi bắn ra thành một dòng dính liền nhau, chỉ chốc chốc mới đứt quãng khiến bác ta phải lấy tay quệt ngang miệng. Dunbar không nói gì nhưng thấy Timmons khạc nhổ liên tục như thế chàng bất giác co rúm người lại. Cử chỉ của bác ta là vô hại nhưng làm chàng ghê tởm, giống như lúc nào cũng phải nhìn một người xỉ mũi. Họ ngồi cạnh nhau suốt buổi sáng. Mặc dù chỉ cách nhau hai bước chân nhưng vì gió thổi từ phía Dunbar sang nên chàng không ngửi thấy mùi nồng nặc của bác Timmons. Trong gần ba chục năm sống trong cõi đời, chàng đã phải ngửi quá nhiều mùi chết chóc và không thứ mùi gì khó ngửi hơn thế. Nhưng xác chết nào cũng chỉ một lúc sau đã được đem đi chôn hoặc bản thân chàng Michael Blake rời xa nó, nhưng với bác Timmons này thì chàng không có cách nào thoát được. Khi gió đổi chiều, mùi hôi thối từ người bác ta bay sang, trùm lên Dunbar như một đám mây ô uế vô hình. Nghĩ đến đây chàng ngoái lại nhìn con ngựa Cisco đang chạy lóc cóc đằng sau cỗ xe, khoan khoái vục mõm vào chiếc bị đựng thóc. Bộ da màu nâu như da nai của nó ánh lên dưới nắng. Dunbar mỉm cười nhìn con ngựa và bỗng mong muốn loài ngựa cũng sống lâu được như loài người. Con Cisco này may lắm cũng chỉ sống được khoảng mười, mười hai năm nữa. Tất nhiên sau đó chàng sẽ cưỡi những con ngựa khác, nhưng chắc chắn là không có con ngựa nào sánh được với Cisco. Trong lúc Dunbar nhìn, con ngựa bé nhỏ ngước cặp mắt màu hổ phách lên như thể dò tìm xem chàng trung úy của nó lúc này đang ở đâu và làm gì. Đến khi thấy chủ, nó yên tâm lại vục đầu vào trong bị thóc. Dunbar điều chỉnh lại thế ngồi rồi thọc tay vào túi tấm áo choàng sĩ quan, lấy ra một tờ giấy gấp tư. Chàng giữ gìn rất cẩn thận tờ giấy này bởi đó là bản quyết định, trong có ghi tất cả những mệnh lệnh quân sự chàng phải thực hiện. Từ lúc rời khỏi căn cứ Fort Hays chàng đã đưa cặp mắt màu sẫm và không đồng tử lướt trên mặt giấy sáu bảy lần, nhưng nghiên cứu mãi nó chàng vẫn chưa cảm thấy yên tâm thêm chút nào. Trong bản quyết định, tên họ chàng bị ghi sai đến hai lần. Ông thiếu tá hơi thở nồng nặc mùi rượu ký vào dưới tờ giấy đã vụng về quệt ống tay áo lên nét chữ chưa khô mực và chữ ký của ông ta bị nhòe nhoẹt. Tờ quyết định lại quên không ghi ngày tháng cho nên Trung úy Dunbar đành phải điền thêm lúc chàng đã trên đường đi. Nhưng chàng điền bằng bút chì và nét chữ đè lên vết mực nhòe của ông thiếu tá, lẫn cả vào hàng chữ tiêu đề in sẵn trên tờ quyết định. Trung úy liếc nhìn bản quân lệnh. Trông nó giống như một tờ giấy lộn nhiều hơn. Bản quân lệnh làm chàng nhớ lại do đâu mà có nó và chàng càng thấy bối rối hơn. Chàng bực dọc nhớ lại cuộc tiếp xúc với vị thiếu tá thở ra toàn mùi rượu ấy. Do tha thiết muốn được sớm nhận nhiệm vụ, khi bước chân ra khỏi tàu hoả, chàng đã đi thẳng một mạch đến ban chỉ huy tiểu đoàn. Ông thiếu tá là người đầu tiên và cũng duy nhất chàng nói chuyện trong khoảng thời gian từ khi chàng tới tiểu đoàn đến lúc chiều tà, khi chàng leo lên cỗ xe ngựa ngồi bên cạnh bác đánh xe chuyên môn nhổ nước bọt Timmons. Ông thiếu tá với cặp mắt đỏ ngầu đã giữ chàng lại khá lâu. Và khi lên tiếng, giọng ông đầy châm biếm làm chàng thấy khó chịu. — Thích đánh nhau với bọn da đỏ, hả? Trung úy Dunbar từ bé chưa hề nhìn thấy một người da đỏ nào, nói gì đến chuyện chiến đấu với họ. — Vâng, nhưng không phải dịp này, thưa thiếu tá. Tôi nghĩ rằng tôi có thể chiến đấu với họ, chắc chắn là như thế. — Vậy là cậu thích chiến đấu, chứ gì nữa? Trung úy Dunbar không trả lời câu hỏi đó. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc lâu rồi ông thiếu tá mới cầm bút điền vào bản quân lệnh in sẵn. Ông ta viết với vẻ giận giữ, không buồn để ý đến việc mồ hôi chảy ròng ròng trên má. Dunbar nhìn thấy cả những giọt mồ 10 Michael Blake hôi đang to dần trên đỉnh chiếc đầu hói gần hết của ông ta. Vài sợi tóc lơ thơ màu muối tiêu còn sót lại dính bết trên đỉnh đầu ông. Hình dạng ông khiến chàng trung úy nhớ đến một con người bệnh hoạn nào đó. Dunbar đâu biết được rằng ông thiếu tá quá ốm yếu. Đôi khi sức khỏe của ông chỉ được giữ bằng một sợi chỉ mong manh và sợi chỉ ấy hôm nay vừa mới đứt, đúng mười phút trước khi chàng trung úy đến gặp ông. Lúc đó ông đang ngồi bất động sau bàn giấy, hai bàn tay chắp lại đặt trên bàn và đang quên béng cả cuộc đời. Đó là một cuộc sống bạc nhược, dựa trên sự bố thí mà người ta dành cho những kẻ phục vụ nhẫn nhục nhưng không hề làm nên được chiến tích gì. Khốn nỗi cả cuộc đời đã trôi qua, bao gồm những năm tháng sống độc thân, những năm tháng chống cự với rượu chè, tất cả đều đã biến đâu mất như do một phép thần thông. Nỗi nhàm chán đắng cay của cuộc đời Thiếu tá Fambrough chỉ được thay thế trong khoảnh khắc bằng một sự kiện hấp dẫn và nhất thời. Ông thèm được thấy mình ngồi trên ngai vàng như một bậc vua chúa trong cái căn cứ Fort Hays, một lát trước bữa ăn tối. Ông thiếu tá viết xong, nhấc tờ giấy lên. — Tôi điều cậu ra đồn Sedgewick. Cậu nhận phân công trực tiếp của Đại úy Cargill. Trung úy Dunbar ngó xuống bộ quân phục nhàu nát. — Xin tuân lệnh thiếu tá. Tôi sẽ đi đến đó bằng cách nào? — Cậu tưởng tôi biết ư? – Viên thiếu tá xẵng giọng đáp. — Không phải thế, thưa thiếu tá. Chỉ có điều tôi không biết. — Tôi đang vui và sẵn sàng ưu ái cho cậu. Một cỗ xe tiếp tế chất đầy lương thực, thực phẩm và vật dụng sắp sửa lên đường ra đó. Cậu hãy đi tìm một bác nông dân tên là Timmons và cùng ngồi xe với bác ấy. Nói đến đây ông ta trỏ tờ giấy Dunbar đang cầm. — Con dấu của tôi sẽ bảo đảm an toàn cho cậu trong vòng một trăm năm mươi dặm của vùng đất mọi rợ này. Ngay từ ngày nhập ngũ, Dunbar đã hiểu rằng không nên băn khoăn về những thói tật oái oăm của các sĩ quan chỉ huy cấp trên. Chàng lập tức đưa tay lên mũ chào và đáp: “Rõ, thưa thiếu tá!” rồi quay gót bước ra. Chàng tìm được Timmons, bay ra ga nhận con ngựa Cisco. Nửa giờ sau chàng đã rời khỏi căn cứ Fort Hays. Lúc này, sau khi vượt được một trăm dặm đường, ngồi ngắm tờ quân lệnh, chàng nghĩ, chắc mọi sự sẽ ổn thỏa thôi. Chàng thấy xe đi chậm lại. Bác Timmons đang nghiêng đầu nhìn xuống bãi cỏ ngay bên cạnh. — Trung úy nhìn kìa! Vật gì trăng trắng nằm trong đám cỏ, cách xe chừng hai mươi bộ(1). Cả hai người cùng nhảy xuống xem thứ gì. Thì ra một bộ xương người trắng, sáng lên dưới ánh nắng, sọ ngửa lên phía trên. Dunbar quỳ xuống bên cạnh bộ xương, cỏ mọc lách xuyên qua xương sườn. Khoảng hai chục mũi tên chĩa lên như những chiếc trâm cắm vào gối. Dunbar rút một (1) Từ đây người dịch sẽ giữ nguyên cách đo lường của nước Anh. Bộ = 0,30 m. Thước = 0,91 m. Dặm = 1,609 m. Bảng = 453 g. (ND) Michael Blake mũi tên lên lật lật trong hai bàn tay. Thấy chàng đưa ngón tay sờ mũi tên, bác Timmons thốt lên sau lưng chàng. — Chắc phải có người nào nhìn thấy chứ, sao họ không báo gì về nhà nhỉ? Ngày thứ tư cũng giống như ba ngày trước, không xảy ra sự cố gì. Rồi ngày thứ năm và thứ sáu, Dunbar bắt đầu thất vọng khi thấy cỏ không còn um tùm nữa. Chàng vẫn chưa nhìn thấy một sinh vật nào hết. Bác đánh xe Timmons bảo rằng đôi khi các bầy súc vật bỗng tự nhiên biến đâu mất cả, chẳng đáng băn khoăn làm gì, bởi sẽ đến lúc chúng hiện ra đông đúc như châu chấu vậy. Họ cũng không thấy một người da đỏ nào nhưng điều này thì bác Timmons không có cách giải thích nào hết. Bác ta chỉ bảo rằng nếu nhìn thấy lúc này thì là quá sớm, và thế là may, họ không bị bọn cướp hay du đãng nào tấn công. Nhưng, sang đến ngày thứ bảy thì Dunbar chỉ nghe bác Timmons bằng nửa tai. Trong lúc họ vượt nốt những dặm đường cuối cùng Trung úy Dunbar càng suy nghĩ nhiều hơn. Chàng nghĩ đến cái đồn biên giới chàng sắp tới. Đại úy Cargill quay quay lưỡi trong miệng, mắt ngước đăm đăm. Nét mặt ông ta tươi lên một chút rồi lập tức lại cau có ngay. Lại một đứa nữa bị mất tích, ông ta nghĩ. Mẹ kiếp! Mời các bạn đón đọc Khiêu Vũ Với Bầy Sói của tác giả Michael Blake.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mối Tình Đầu - Veronique Olmi
Qua tác phẩm ta nhận thấy một điều tác giả như muốn nhắn gửi với bạn đọc: mối tình đầu chỉ như một thứ gia vị làm cho cuộc sống điểm sắc màu chứ không phải là điều quyết định cho cuộc sống của ta. Cuộc sống gia đình chồng vợ vẫn là vĩnh cửu. Người phụ nữ tuổi ngũ tuần đã phải thốt lên "Tôi chỉ muốn được gặp Marc lúc này chỉ có anh mới có thể đưa tôi ra khỏi những ý nghĩ rối ren những ý tưởng điên khùng không lối thoát. Ôi tôi muốn anh có mặt tại đây lúc này biết bao..." và Marc chính là chồng chị người đã chia sẻ cuộc sống với chị từ hai mươi lăm năm nay. Với lối viết nhẹ nhàng dễ đọc văn phong trau truốt tình tiết hấp dẫn mọi nút thắt cứ lớn dần theo những chi tiết hết sức đời thường để rồi cuối cùng tác giả dẫn chúng ta đến một bến bờ nhất định và giúp ta cởi những nút nơ vô hình buộc chặt: gia đình tình yêu vợ chồng. Đó như một lời khẳng định. Cuốn sách vừa phát hành cuối tháng giêng năm 2010 nhưng đã tiêu thụ gần 20.000 bản và đã liên tục lọt vào danh sách best sellers. Đã được nhượng bản quyền cho ba NXB nước ngoài và đã được một hãng phim mua bản quyền dựng thành phim. Đôi lời về tác giả: Véronique Olmi sinh năm 1962 tại thành phố biển thơ mộng miền đông nam nước Pháp: Nice. Sau khi đã theo học ngành nghệ thuật sân khấu bà đã từng làm trợ lý cho hai nhà làm phim danh tiếng của Pháp là Gabriel Garran và Jean-Louis Bourdon từ năm 1990 đến 1993. Tác giả chuyên viết kịch bản sân khấu nhưng năm 2001 bà đã xuất bản cúôn tiểu thuyết đầu tay mang tên Bord de Mer (Bên bờ biển) và đã ngay lập tức giật giải Prix Alain Fournier. Cho đến nay bà đã viết bảy kịch bản sân khấu và Mối tình đầu là cuốn tiểu thuyết thứ chín của bà và trong số ấy nhiều cuốn đã được dựng thành phim. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn tiểu thuyết đầy lãng mạn nhưng không phải không khiến ta suy ngẫm đến những hoài niệm và quan điểm sống của chính mình. *** Đôi khi chỉ cần một việc gì đó cỏn con cũng khiến cuộc đời chao đảo. Một lúc vô ý trên đường. Một cuộc bãi công của Công ty Đường sắt Quốc gia. Một hàng xóm mới. Một vụ kẹt thang máy. Một lá thư. Một cú điện thoại trong đêm. Cuộc đời tôi đã chao đảo ngày 23 tháng Sáu năm 2008 lúc 20 giờ 34 phút, ngay khi tôi mở tờ giấy báo quấn chai rượu vang Pommard, lẽ ra dùng để ăn với miếng vai cừu nấu trong lò từ 26 phút trước đó. Chai Pommard vừa lột đi tờ giấy báo, đã không bao giờ được mở. Miếng vai cừu không bao giờ được nấu chín. Tôi đã nhớ tắt lò trước khi bỏ đi Ý. Tôi cũng không quên tắt những ngọn nến thắp rải rác khắp phòng khách. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình Đầu của tác giả Veronique Olmi.
Trái Đất Tròn, Lòng Người Góc Cạnh - Minh Mẫn
Câu chuyện viết về hành trình của một cô gái tìm cách ngược dòng thời gian quay trở lại quá khứ cách thời điểm thực năm năm để cứu người mình yêu ra khỏi một tai nạn thảm khốc. Do một sự cố không ngờ, cô bị đổi thể xác với My và từ đây, bao rắc rối nảy sinh khiến Mẫn và Key - một linh hồn đi lạc khác - phải chạy đua với số phận và tìm cách để mọi thứ trở lại vị trí như cũ. Cốt truyện được dựng lên bởi những mảnh hồi ức của hai linh hồn xa lạ đi lạc và vô tình gặp nhau trong thế giới của quá khứ - nơi những sự tình cờ của duyên số cứ đan chéo vào nhau khiến họ trải qua biết bao bất ngờ, vui có, buồn có, đau thương mất mát cũng có.  Bạn sẽ gặp lại trong tác phẩm này một chút nhẹ nhàng tinh tế bởi văn phong quen thuộc của Người đi bán nắng, một chút bí ẩn ma mị của thể loại Fantasy, và thật nhiều tĩnh lặng sau cái kết - khi những nhân vật đã trải qua có thể là nụ cười, có thể là nước mắt, nhưng cuối cùng họ vẫn được bình yên.  “Có những tình yêu đơn giản như sau một giấc mơ, ta thấy có thêm một tấm chăn trên ngực."  Một câu chuyện buồn, chứa đựng nỗi đau, mất mát cứa vào tâm can nhưng lại được viết bằng thứ văn rất đỗi nhẹ nhàng. Giọng văn không quá gay gắt, không dồn dập, cuốn hút và có chút gì đó chợt buồn, đều đều nhưng vẫn khiến người đọc đồng cảm. Đọc Trái đất tròn, lòng người góc cạnh, bạn sẽ cảm nhận được những thông điệp thật sự rất xúc động và mở ra một chân trời mới cho độc giả nghĩ ra xa hơn. Để rồi khi trang cuối cùng của cuốn sách dù đã được gấp lại, âm hưởng của nó vẫn còn trong bạn.  “Tôi đã vượt qua tất cả những thứ tưởng chừng như không thể vượt qua, trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm... Có những thứ không thay đổi, và có những thứ đã thay đổi quá nhiều mà không thể thay đổi được nữa.  Điều duy nhất tôi hy vọng, là mỗi buổi sáng mặt trời mọc, tôi biết mình đang sống và muốn sống tiếp..."  Đẹp và lãng mạn. Nỗi đau khổ cũng quá đỗi dịu dàng. Trái đất tròn, lòng người góc cạnh - cuốn sách cho những trái tim đang cần tìm chút niềm tin về yêu thương và duyên phận. Hi vọng sẽ đem lại cho bạn vô vàn cảm xúc giống như Người đi bán nắng đã làm!  *** Sớm nay tỉnh giấc, nhìn ra cửa sổ nắng choáng ngợp, tôi thấy Phiên Vân đứng đó, như thể từ rất lâu, ánh sáng xung quanh anh dịu dàng một cách kì lạ. Tôi không thấy rõ mặt anh, chỉ cảm nhận dường như anh đang cười. Bước chân trần đến bên cửa sổ, không chạm vào anh, không khóc. Tôi biết mình phải cảm thấy may mắn vì còn có thể nhìn thấy anh như thế này, có thể chỉ lần cuối cùng này thôi. Phiên Vân nhẹ nhàng hôn lên môi tôi, ôm tôi, tôi không thể định nghĩa rõ ràng những cử chỉ ấy, chỉ cảm thấy sự ấm áp không phải ở xứ sở này. Tạm biệt anh, Phiên Vân! Chào Mẫn của tuổi 20! Chúng ta vẫn phải sống! Nắng rực lên trên những chùm hoa lòa xòa bên cửa sổ, nắng giục tôi trở về. Tôi có hẹn ở hiện tại, tôi có hẹn ở tương lai... ... Mời các bạn đón đọc Trái Đất Tròn, Lòng Người Góc Cạnh của tác giả Minh Mẫn.
Tháp Tokyo - Ekuni Kaori
“THÁP TOKYO CHÌM TRONG MƯA LÀ HÌNH ẢNH BUỒN NHẤT TRÊN ĐỜI.” Toru thường ngắm nhìn tháp Tokyo trong lúc uống cà phê hòa tan từ phòng mình. Cậu yêu Shifumi, một phụ nữ đã có chồng và là bạn của mẹ cậu. Koji là bạn thân của Toru từ hồi cấp III. Gã yêu Yuri, cô bạn cùng trường, nhưng không sao có thể dứt ra khỏi cuộc tình cuồng nhiệt và đầy ham muốn với Kimiko. Kimiko cũng đã có chồng. Cả Toru và Koji đều cứ ngỡ mình đang làm chủ cuộc tình, nhưng rốt cuộc, mọi sự lại đúng như những gì Shifumi đã dạy cho Toru: Tình yêu không phải thứ ta có thể cầm cương, mà là thứ ta đắm chìm trong đó. Còn tháp Tokyo thì lặng im chứng kiến tất cả. *** Ekuni Kaori sinh năm 1964 tại Tokyo. Cô được mệnh danh là “Murakami nữ” của văn học đương đại Nhật Bản. Cùng với Yoshimoto Banana, Ogawa Yoko, Ekuni Kaori được coi là một trong số các nhà văn nữ quan trọng Nhật Bản hiện nay, với các tác phẩm và tập truyện ngắn tiêu biểu: Tháp Tokyo, Lấp Lánh, Hoàng hôn rơi xuống, Đêm lạnh, Những ngày đẹp đẽ… Năm 2004, cô nhận giải thưởng Naoki với tập truyện ngắn Đã sẵn sàng để khóc. Các tác phẩm và tập truyện ngắn của Ekuni Kaori do Nhã Nam xuất bản: Tháp Tokyo, Lấp lánh, Hoàng hôn rơi xuống. *** “Không thể nào.” Nghe chuyện của Koji mà cậu rúng động trong lòng, không thể tìm được ngôn từ nào khác. “Không thể nào.” Giờ Yoshida đang ở nhà tớ. Koji đã nói vậy. Tự dưng cô ta cứ lăn xả vào. Có khi cô ta bỏ nhà ra đi hẳn. Bảo là ngủ một đêm, thế mà ngồi chềnh hễnh ra ở đây ba ngày rồi. “Thế trước đây cậu đã làm cái quỷ gì?” Toru hỏi, song lúc đấy Koji đã trả lời rất thật tình rằng bản thân gã cũng không biết nữa. “Đúng là đồ quỷ cái.” Koji mở miệng làu bàu, gã đang uống đến cốc bia thứ hai tại nhà hàng chuyên cánh gà rán tẩm ướp thứ nước xốt vừa cay vừa ngọt. “Ý cậu nói ai?” Toru cũng đến cốc thứ hai. “Yoshida. Cô ta vẫn hận Atsuko. Đúng là đồ quỷ cái. Tớ nghĩ, mục đích duy nhất khiến cô ta bám riết lấy tớ là khiến Atsuko phải đau lòng.” ... Mời các bạn đón đọc Tháp Tokyo của tác giả Ekuni Kaori.
Sắc Giới - Trương Ái Linh
…Sắc, giới là một câu chuyện đam mê dữ dội của tình yêu và gián điệp, trong bối cảnh Thượng Hải thời thế chiến II. Giữa lúc quân Nhật chiếm đóng Trung Quốc và Hồng Kông, hai sinh mệnh quyện chặt vào nhau: Vương Giai Chi, một nữ sinh viên hoạt động cho quân kháng chiến, và ngài Dị, một chính khách uy quyền làm việc cho chính quyền thân Nhật. Trong khi chơi trò chơi bí mật ngoại tình bên những bữa tiệc trà quý tộc Thượng Hải và công việc can dự vào chính trị đầy bất trắc với ý thức hệ của riêng mình, họ không thể cưỡng lại được sức hấp dẫn của nhau, như thể đó là hai mặt của định mệnh. Được viết bằng giọng văn gợi cảm, tinh tế và đẫm không khí chính trị ngột thở, Sắc, giới vẽ nên một Thượng Hải thời những năm 1940 đầy ma mị làm nền cho một cuộc tình nhục cảm mang cái kết ngoài dự đoán. ***  Những nhận xét về quyển sách:  “Một nhà văn viết hư cấu đặc biệt và gây sững sờ.” – New York Times Book Review “Một bậc thầy về truyện ngắn… Thế giới của Trương Ái Linh là một nơi chốn khắc nghiệt và u uẩn nơi con người đấu tranh để tìm thấy lối trong tình yêu nhưng thường thất bại dưới áp lực gia đình, truyền thống và tập tục.” – The New Yorker “Trương Ái Linh, một tiểu thuyết gia và cây bút truyện ngắn nổi tiếng - người đã mài sắc những nghiên cứu tâm lý đầy tinh tế và ngôn từ chuẩn xác - đã được ca ngợi như một bậc kỳ tài của văn học Trung Quốc hiện đại.” – New York Times *** Trương Ái Linh (Eileen Chang) sinh ngày 30 tháng Chín năm 1920 tại Thượng Hải trong một gia đình dòng dõi quan lại nhà Thanh, tên thật là Trương Anh. Gia đình Ái Linh chuyển đến Thiên Tân năm 1922, nơi Ái Linh đi học vào năm lên bốn. Khi Ái Linh năm tuổi, mẹ cô bỏ đi Anh sau khi cha cô cưới một cô vợ lẽ. Sau đó ông lâm vào cảnh nghiện thuốc phiện. Gia đình Ái Linh quay lại Thượng Hải năm 1928. Cô bắt đầu đọc Hồng Lâu Mộng khi mới tám tuổi. Hai năm sau, Trương lấy tên là Ái Linh và vào trường dòng nữ học. Ngay sau đó, mẹ cô trở về và và ly dị. Tuổi thơ bất hạnh của Ái Linh trong gia đình tan vỡ chắc chắn đã là nguyên nhân khiến cho các tác phẩm sau này có tâm thế bi quan. Năm 1932, cô viết cuốn truyện vừa đầu tay. Ngay từ khi học trung học phổ thông cơ sở, Ái Linh đã thể hiện năng khiếu văn chương qua những tác phẩm được đăng trên tạp chí trường học. Năm 1938, sau một trận cãi nhau với mẹ kế và cha, cô bỏ nhà đến ở với mẹ. Năm sau, Ái Linh nhận được học bổng học tại Đại học London, nhưng cơ hội này bị bỏ lỡ do chiến tranh ở Trung Quốc. Vì vậy, cô theo học văn chương ở Đại học Hồng Kông. Chỉ một học kỳ sau, ngày 25 tháng Chạp năm 1941, Hồng Kông rơi vào tay Nhật Bản cho đến tận năm 1945. Trương Ái Linh quay về Thượng Hải. Dự định ban đầu của cô là hoàn thành bằng đại học ở trường Đại học Saint John ở đây, nhưng việc học chỉ kéo dài được hai tháng. Thiếu tiền là một nguyên nhân khiến cô phải bỏ trường. Cô từ chối công việc dạy học hoặc làm biên tập viên, để tập trung vào việc cô làm tốt nhất - viết văn. Mùa xuân năm 1943, Ái Linh có một cuộc gặp định mệnh với biên tập viên và trở thành nhà văn được độc giả chú ý nhất ở Thượng Hải năm 1943-1944, mặc dù tuổi đời còn rất trẻ. Hai tập sách gây tiếng vang là Truyện lãng mạn (1944) và Viết trong làn nước(1945).  *** Mặc dù trời vẫn trời còn sáng, ngọn đèn nóng hực chiếu xuống bàn mạt chược. Nhẫn kim cương lóe lấp lánh trên các bàn tay xoa lách cách những quân bài. Chiếc khăn trải, cột chặt ở bốn chân bàn, kéo thành một mảnh vải trắng xóa. Ánh đèn nhân tạo tôn lên đường cong đầy đặn của bộ ngực Chia-chih, và làm rõ gương mặt trái xoan thanh tú của nàng, mấy lọn tóc ơ thờ rơi trên vầng trán hẹp lại tăng thêm phần kiều diễm. Nàng có lối trang điểm kín đáo, nhẹ nhàng ngoại trừ vành môi cong tô đỏ bóng. Mái tóc nàng được vén hững hờ ra sau gáy, rồi buông lơi xuống bờ vai. Chiếc áo xường sám của nàng bằng hàng satin moiré xanh lam dàí tới gối, cổ áo chỉ cao vài phân, theo kiểu tây phương. Chiếc ghim cài cổ áo hòa hợp với đôi hoa tai ngọc bích cẩn kim cương. Hai người đàn bà -- tai-tai -- ngồi bên trái và phải nàng đều mặc áo choàng len đen không tay, thân áo giữ hờ ở cồ nhờ một sợi dây chuyền vàng dầy nặng thò ra dưới bâu áo. Cách ly với thế giới vì bị quân Nhật chiềm đóng, Thượng Hải đã tự tạo ra vài kiểu thời trang. Trong những vùng bị chiếm đóng, giá vàng cao vọt nên các sợi dây chuyền dầy như thế rất đắc tiền. Tuy nhiên, nếu dùng thay thế cho nút áo cổ, chúng không có vẻ phô trương thô tục, do đó người mang chúng có cớ để trình diễn sự giàu sang của họ khi đi đây đó trong thành phố. Vì những lý do tuyệt diệu đó, áo choàng và dây chuyền vàng trở thành đồng phục ưa thích của các bà vợ các viên chức chính phủ bù nhìn Wang Ching-wei. Cũng có thể họ bắt chước Chungking, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc, nơi đó áo choàng đen rất đuợc giới phụ nữ đài các phe chính khách thượng lưu ưa chuộng. ... Mời các bạn đón đọc Sắc Giới của tác giả Trương Ái Linh.