Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuần Đêm

Ít ai biết được rằng ở Matxcơva, trong vẻ huy hoàng lộng lẫy của thành phố này, kể cả vào ban đêm, lại có biết bao chuyện kỳ lạ xảy ra, phía trên mặt đất và sau một tầng thế giới khác nữa thường được bóng u minh bao phủ. Tuần Đêm - tiểu thuyết giả tưởng, pha một chút kinh dị lại mang rất nhiều yếu tố của trinh thám hình sự, đưa người đọc lạc vào thế giới của những-người-khác mà Lukianenko đã vẽ nên bằng trí tưởng tượng tuyệt vời của mình qua một loạt những cuộc phiêu lưu trong không gian lạ, để bạn nhìn thấy chính mình trong cái gọi là cuộc chiến giữa Thiện và - Ác, cảm nhận nỗi hoang mang khi đứng giữa lằn ranh mong manh của Ánh sáng và Bóng tối. Cuốn sách có triết lý lạnh lùng, lại được viết bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn từng là bác sĩ tâm thần: cái Thiện, cái Ác trong thế giới này thậm chí đã nương vào nhau mà song song tồn tại, cái Thiện có thể thắng nhưng không thể triệt tiêu cái Ác, những con người của cái Thiện đôi khi cũng cần đến những thủ đoạn không được trong sạch lắm để giành phần thắng – để làm việc thiện, đôi lúc cũng phạm tội ác! *** Đầu năm 2010, tạp chí Expert đã công bố danh sách 10 nhà văn Nga đương đại nổi tiếng nhất theo bình chọn của tạp chí và độc giả. Sergey Lukianenko đứng thứ năm, được Expert đánh giá là “nhà văn vừa giữ được những giá trị truyền thống của văn học Nga, lại là một trong những tác giả thời thượng hiếm hoi của Nga theo đuổi thành công thể loại giả tưởng”. Sergey Lukianenko (bìa phải) trong một buổi chuẩn bị ra mắt phim Tuần đêm tại Saint Petersburg - Ảnh: barros.rusf.ru Ông được công nhận là nhà văn có tác phẩm được điện ảnh hóa nhiều và nhanh nhất từ trước đến nay. Ba cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim (Tuần đêm, Tuần ngày và Hôm nay, mẹ ạ). Trong tương lai gần người ta đang chuẩn bị khai thác thêm một vài kịch bản phim nữa và đưa ra những phiên bản game online Tuần đêm ngày càng phức tạp, hoàn thiện. Vì sao có khi tội ác không bị trừng trị? Với nhân vật chính là Anton Gordetsky, một công dân bình thường của thủ đô nước Nga, câu chuyện Tuần đêm xoay quanh cuộc sống của anh ta giữa những nhân vật kỳ bí: ma cà rồng, người sói, những phù thủy tà giáo, minh giáo nhiều phép thuật, những con người biết biến hình vào những tầng lớp hiện thực được gọi là những tầng U Minh, công lực càng cao càng xuống được sâu hơn, nơi thế giới không còn màu sắc nhưng lại có những phép biến ảo kỳ lạ làm thay đổi hành vi đời sống... Thế nhưng, sức hấp dẫn của Tuần đêm quyết không phải ở những pha gay cấn, kinh dị hay huyền ảo ma quái (chất này so với phim Mỹ thì chưa “đủ đô”!), mà ở chỗ Tuần đêm đưa ra một cách lý giải thế giới độc đáo, bất ngờ không kém phần thuyết phục. Chẳng hạn, những bất hạnh, buồn khổ của con người do chính con người tạo ra cho nhau, bằng những lời nguyền rủa hoặc được thốt lên một cách độc địa, hoặc âm thầm tàn hại người ta. Hiện thân của những lời tàn ác ấy là những chiếc phễu đen xoay chầm chậm trên đầu... Từ đó mà xảy ra chiến tranh, thiên tai và những điều tồi tệ khác... Rồi những quầng sáng trên đầu mỗi người mà chỉ những người khác mới nhìn thấy được, chính là một dạng “chứng minh thư” trong đời, vừa làm nên khác biệt của con người trong đám đông, lại cho một hình dung rõ nét về bản chất và số phận của người. Đọc Tuần đêm, bạn đọc sẽ có cho mình lời đáp của một loạt câu hỏi: Vì sao đôi khi tội ác không bị trừng trị? Vì sao trong nhiều trường hợp, người ta không thể tùy tiện làm điều thiện mà tất cả đều phải tuân theo những nguyên tắc khắc nghiệt của một bản đại giao ước giữa ánh sáng và bóng tối? Hai thế lực tưởng chừng đối lập nhau hoàn toàn về lợi ích lại có thể đi đến những thỏa hiệp gì để giữ gìn sự cân bằng của thế giới? Cái ác được cấp “giấy phép” dưới hình thức nào và ai cầm cân nảy mực để những môn đồ thiện - ác hành động theo giao ước đã được đặt ra? Ngọn nguồn của lòng hận thù, sự lãnh đạm và cả tình yêu... - những vấn đề gần gũi của cuộc sống lẫn những biến động to lớn của lịch sử được tác giả Sergey Lukianenko bình thản cắt nghĩa bằng giọng văn khá trầm tĩnh, không chạy theo tốc độ, nhưng với cách cắt đặt lớp lang khéo léo không lộ ý, nhà văn từng là bác sĩ tâm thần này đã luôn khiến người đọc chấn động khi những câu chuyện nhỏ của Tuần đêm khép lại trang cuối cùng. Điều thú vị ở truyện kỳ ảo của Sergey Lukianenko chính là tính logic chặt chẽ trong thế giới tưởng chừng không có thật, nhưng lại được lý giải một cách khoa học, dễ chấp nhận về cả lý và tình. Tác giả khiến ta hiểu rằng tiểu thuyết kỳ ảo không phải là thể loại khoa học viễn tưởng với những tưởng tượng táo bạo về tương lai có thể một lúc nào đó sẽ trở thành sự thật. Ở đây, thế giới được giải mã thông qua diễn biến tâm lý nhân vật. Những triết lý về cuộc sống của những người khác góp phần làm sáng tỏ cách sắp đặt thế giới ngày càng đảo điên của những người thường. Sergey Lukianenko, sinh năm 1968, là một trong những cây bút ăn khách và có sức viết hàng đầu của nền văn học đương đại Nga thế kỷ 20-21, tác giả của một loạt tiểu thuyết, truyện vừa và kịch bản điện ảnh thể loại giả tưởng. Bắt đầu từ truyện ngắn đầu tay Hành vi xấu (1988), cho đến nay trung bình mỗi năm Lukianenko cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết và đều được đón nhận nồng nhiệt. Ngoài cuốn Tuần đêm, Lukianenko đã từng đến với bạn đọc Việt Nam qua Mê cung ảnh (NXB Lao Động, Phương Hoài dịch) cách đây năm năm. Là bác sĩ tâm thần, những tiểu thuyết kỳ ảo của ông đặc biệt có tác động mạnh đến cảm nhận tâm lý của người đọc. Ông là “hot blogger” với trang blog nổi tiếng “doctor-livsy”, nhưng trang blog này đã phải đóng cửa sau một entry “nhạy cảm” về nước Mỹ và những vấn đề xung quanh chuyện người nước ngoài nhận con nuôi người Nga. *** Thang cuốn bò một cách chậm chạp, thẳng căng. Ga cũ rồi mà, biết làm sao. Ngược lại, gió thả sức thổi cuộn lên trong đường ống bê tông, vò rối tóc người, kéo xếch mũ áo khoác, luồn dưới khăn quàng và đẩy người xuống phía dưới. Gió không muốn Egor đi lên. Gió đòi người quay bước. Lạ thật - tuồng như chung quanh không một ai nhận ra sự hiện diện của gió cả. Bấy giờ ở đây cũng chẳng có mấy người - nhà ga về nửa đêm đã vắng. Dăm người đi ngược chiều, còn cùng phần thang với Egor hầu như chẳng có ai: một người đứng trước, hai hay ba người phía sau. Hết. Nếu không tính đến một nhân vật nữa - là gió! Egor đút tay vào túi, ngả người về phía sau. Khoảng hai phút từ lúc mới bước ra khỏi tàu, cái cảm giác có ánh mắt người lạ không rời cậu. Không hiểu sao hoàn toàn không phải cảm giác hãi sợ, mà nó phê phê, cảm giác, nhoi nhói lên như mũi tiêm. Ở đầu thang cuốn, nơi bắt đầu thang lên, có một người đàn ông mặc đồng phục. Không phải công an, mà là quân nhân. Tiếp đó là một phụ nữ đi cùng bé con ngái ngủ, bám vào tay mẹ. Nữa là một thanh niên trẻ, mặc áo khoác màu cam sặc sỡ, đeo tai nghe. Có vẻ như anh ta cũng ngủ trên đường. Không có gì đáng ngờ cả. Kể cả đối với một cậu bé đương về nhà vào giờ quá muộn. Một lần nữa, Egor lại nhìn lên trên - thấy một chú công an dựa người vào thanh vịn sáng loáng, rầu rĩ soi giữa đám hành khách xem có con mồi dễ vồ nào không. Chẳng có gì đáng sợ. Gió xô Egor lần cuối và lặng đi - dường như đã cam chịu, đã hiểu rằng gắng đấu sức cũng hoài công. Cậu bé lại nhìn về sau rồi bắt đầu chạy theo những bậc thang đang cuốn nhàu đi dưới chân. Lẽ ra phải rảo bước lên mới đúng. Không hiểu tại sao lại phải thế. Một lần nữa cậu lại bị chích nhói vào người, một cách vô lý và bất an, luồng khí lạnh lướt ngang qua cổ. Vẫn là gió. Egor co giò phóng qua cánh cửa mở hé, và cái lạnh sắc ngọt ào vào cậu với một sức mạnh mới. Mái tóc hãy còn ẩm sau khi đi bơi - cái máy sấy lại hỏng - lập tức đông đá. Egor kéo sụp cái mũ áo khoác xuống thấp hơn, chạy một mạch ngang qua mấy sạp hàng, hụp ngay xuống đường ngầm. Trên mặt đất, người đông hơn nhiều, nhưng nỗi lo ngại không hết được. Thậm chí cậu còn ngoái lại, chân vẫn không chậm bước - nhưng không ai theo dõi cậu cả. Người phụ nữ đi với con đang hướng về phía bến tàu điện, thanh niên đeo tai nghe dừng lại bên những ki-ôt, ngắm nghía hàng chai lọ, đồng chí quân nhân thì vẫn chưa bước ra khỏi metro. Cậu bé đi dọc đường ngầm, càng lúc càng rảo chân và rảo chân hơn nữa. Có tiếng nhạc từ đâu đó vang lên - khe khẽ, khó nghe, nhưng dễ chịu kỳ lạ. Giọng thanh thanh của ống tiêu, tiếng lao xao của dây đàn ghi-ta, âm rung lanh lảnh của bộ đàn gõ. Tiếng nhạc mời gọi, tiếng nhạc giục giã. Egor tránh nhóm người đi ngược chiều, đuổi kịp một người đàn ông vui nhộn say liêng biêng, lê bước chậm chạp. Mọi suy nghĩ tuồng như bay hết ra khỏi đầu, cậu đã gần như chạy. Tiếng nhạc đang gọi. Giờ trong nhạc đã có lời quện vào… dẫu còn lơ mơ chưa rõ tiếng, quá khẽ, nhưng lại gọi mời đến thế. Egor nhảy ra khỏi đường ngầm, dừng lại một giây nuốt một ngụm khí lạnh. Vừa lúc chiếc xe điện bánh hơi cũng lướt đến bến. Nó đợi vài giây, các cửa lên xuống mở toang, rồi khép lại, rời bến. Egor lờ đờ nhìn theo dấu chiếc xe - tiếng nhạc càng lúc càng vang lên to hơn, tràn ngập cả thế giới, từ cái khách sạn cao tầng hình bán nguyệt cho đến “cái hộp có chân” thấp thoáng không xa - nhà của cậu. Tiếng nhạc rủ cậu đi bộ. Dọc theo đại lộ được chiếu sáng rỡ, nơi tận giờ này vẫn có không ít người đi lại. Chỉ cần độ năm phút để đến chân cầu thang. Còn để đến với tiếng nhạc lại cần ít phút hơn. Egor cũng kịp đi được quãng trăm mét cho đến lúc tòa nhà khách sạn thôi không che gió cho cậu được nữa. Luồng băng giá quật vào mặt, gần như át hẳn tiếng nhạc mời gọi. Cậu lắc lư người, dần dừng lại. Trạng thái mông lung ma mị tan biến, song cái cảm giác về ánh mắt người lạ lại trở về - lần này thì cảm giác ấy còn quyện chặt với nỗi hãi hùng. Cậu ngoảnh lại - thêm một chiếc xe điện bánh hơi đang trờ về bến. Và trong ánh sáng của đèn đường thấp thoáng bóng áo màu cam sặc sỡ. Gã thanh niên đã đi lên cùng cậu trên thang cuốn, giờ theo sát gót. Mắt vẫn cứ khép hờ, nhưng gã đột nhiên đi nhanh và gắng sức hơn - như thể nhìn thấy Egor. Cậu bé bỏ chạy. Tiếng nhạc lại vang lên với sức ngân mới, xuyên thủng màn gió. Cậu đã có thể phân biệt được lời hát… cậu có thể, nhưng không muốn. Bây giờ chuẩn nhất là đi dọc theo đại lộ, ngang qua những cửa hiệu đóng cửa nhưng sáng đèn, đi sát những khách bộ hành đêm muộn, để lộ mình ra trong ánh đèn những chiếc ôtô đang phóng trên đường. Nhưng Egor lại rẽ vào một cái ngách cổng. Tiếng nhạc gọi cậu đến đó. Ở đây gần như tối hoàn toàn - chỉ có ở bên tường hai bóng đen lay động. Egor nhìn thấy chúng như nhìn qua màn sương mù, như thể chúng được chiếu hắt lên bởi một thứ ánh sáng xanh lè chết chóc. Một thanh niên và một thiếu nữ, còn trẻ, mặc rất mỏng, cứ như ngoài trời không phải âm hai mươi độ vậy. Tiếng nhạc lại dội lên lần cuối - chói óc và đắc thắng. Rồi im bặt. Egor có cảm giác toàn thân mềm nhũn. Người cậu ướt đẫm mồ hôi, chân đứng không vững, chỉ muốn ngồi bệt xuống vỉa hè trơn chuội vì phủ một lớp bùn đóng đá. - Trông ngon đấy… - đứa con gái khẽ nói. Cô ta có gương mặt thanh mảnh, má hóp, nước da tai tái. Mỗi đôi mắt là có vẻ sống động - đen, to và cuốn hút. - Để lại tí chút chứ… - gã thanh niên bảo. Mỉm cười. Hai người giống nhau như hai anh em ruột - không phải giống ở nét mặt mà ở một thứ gì đó khó nắm bắt, cùng chung cho cả hai, bao trùm lên họ từ bên trên, như thể một tấm voan bụi mờ ảo. - Để cho anh á? - Trong một thoáng, cô nàng rời mắt khỏi Egor. Trạng thái đờ đẫn hơi hẫng đi, song nỗi sợ hãi lại ập đến. Cậu bé mở miệng - nhưng bắt gặp ánh mắt của gã kia, và không thể nào kêu lên được. Cậu như bị quấn chặt bằng một tấm cao su lạnh. - Ừ. Giữ nó đi! Đứa con gái phì cười giễu cợt. Chuyển ánh nhìn sang Egor, chúm môi lại như đang hôn gió. Ả cất giọng khẽ phát ra những từ giờ đã thành quen thuộc - những lời từng quện vào tiếng nhạc gọi mời. - Lại đây… lại đây với ta… Egor đứng như trời trồng. Không đủ sức chạy nữa, dù cậu đang sợ phát khiếp, tiếng thét trong cổ vụn vỡ và nghẹn tắc. Cậu chỉ có thể đứng sững yên một chỗ. Một người đàn bà dắt hai con bec-giê to khỏe đi ngang qua ngách cổng. Chầm chậm, gò bước, như thể cử động dưới nước, như thể đang hiện đến trong một giấc mơ hãi hùng. Egor liếc thấy hai con chó vùng vằng, cố sấn đến phía ngách cổng - và trong lòng cậu bùng lên hy vọng mãnh liệt. Hai con chó gầm gừ, nhưng có vẻ không tự tin sao đó, vừa căm giận vừa hoảng sợ. Người đàn bà dừng lại một thoáng, nghi ngờ nhìn khe cổng. Egor bắt được ánh nhìn của bà ta - ánh nhìn của người không nhìn thấy gì, dường như xuyên qua một khoảng trống. - Đi thôi! - bà ta kéo dây xích, và lũ chó nhanh nhảu lùi về phía chân bà. Gã trai cười khẽ. Người đàn bà bước dấn lên, và đi khuất. - Thằng oắt kia, anh nhìn kìa, nó không đi! - đứa con gái nhõng nhẽo kêu lên - Nó đứng yên kìa! - Mạnh hơn lên, - gã trai nói ngắn gọn. Cau có - Học cách đi. - Lại đây! Lại đây với ta! - đứa con gái nói giọng căng thẳng. Egor đứng cách cô ta độ hai mét, nhưng có vẻ như cô nàng rất cần thấy cậu tự đi qua khoảng cách ấy. Rồi Egor hiểu ra rằng mình không còn sức chống cự nữa. Ánh mắt cô gái giữ nguyên, dính chặt vào sợi dây trói cao su vô hình, lời cô ta kêu gọi, và cậu bé chẳng thể nào điều khiển nổi mình. Biết là không nên bước - nhưng vẫn bước. Cô gái mỉm cười - hàm răng trắng đều sáng lóe lên. Nói: - Tháo khăn quàng ra. Cậu đã không còn cưỡng lại nổi. Đôi tay run rẩy gỡ chiếc mũ áo khoác, giằng chiếc khăn mà không tháo vòng cuốn. Bước đến trước đôi mắt đen đang gọi. Có điều gì đó xảy ra với gương mặt đứa con gái. Hàm dưới trễ ra, răng nghiến trèo trẹo. Những chiếc răng nanh dài, đã không còn là răng người nữa, sáng lóa. Egor bước thêm bước nữa. Mời các bạn mượn đọc sách Tuần Đêm của tác giả Sergey Lukianenko & Thụy Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tìm Em Nơi Anh
Đây là cuốn tiếp theo sau "Gọi em bằng tên anh" (Call me by your name). Những nhân vật gặp lại, và câu chuyện nhiều năm sau, khi họ đều đã lớn tuổi hơn và có những ngã rẽ riêng trong cuộc đời mình. Tác giả chia sẻ thêm về quyết định viết tiếp câu chuyện: "Tôi vẫn luôn đau đáu về câu chuyện dang dở trong Gọi em bằng tên anh. Dù là người tạo nên các nhân vật và cuộc đời họ, tôi không thể ngờ rằng chính các nhân vật lại khiến tôi trăn trở về những xao động của tình yêu - điều mà tôi không hay biết cho đến khi hoàn thiện cuốn sách. Bộ phim điện ảnh chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết đã giúp tôi nhận ra rằng mình muốn được trở lại với Elio và Oliver và tiếp tục đồng hành với 2 con người ấy". Find Me được chia làm bốn phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo, như một bản nhạc lôi cuốn có nhịp điệu và hơi thở riêng, cùng những đoạn phóng túng ngẫu hứng nói lên tiếng lòng người chơi. Tempo Phần đầu tiên được thuật lại bởi lời của Samuel "Sami" Perlman, cha của Elio Perlman. Mười năm sau các sự kiện của Call Me By Your Name, Sami Perlman gặp một người phụ nữ trẻ tuổi tên là Miranda khi đi tàu đến Rome. Hai người nhanh chóng trở nên thân thiết và bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Trong khi ở Rome, cặp đôi đến thăm người cha ốm yếu của Miranda, tham dự một buổi thuyết trình công khai do Sami tổ chức và gặp được Elio. Cadenza Phần thứ hai được thuật lại bởi lời của Elio. Năm năm sau, Elio làm giáo viên dạy piano ở Paris. Tại một buổi hòa nhạc, anh gặp một người đàn ông lớn tuổi tên là Michel, và họ bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Họ đến thăm ngôi nhà thời thơ ấu của Michel ở vùng nông thôn nước Pháp, và kết thúc mối quan hệ vài tuần sau đó bởi cuối cùng, người cũ trong trái tim anh không thể thay thế. Capriccio Phần thứ ba được thuật lại bởi lời của Oliver. Vài năm sau, Oliver làm giáo sư tại một trường cao đẳng ở New Hampshire. Anh ấy đã lập gia đình và có con, nhưng trong thâm tâm lại nuôi dưỡng nỗi nhớ về khoảng thời gian anh ấy ở bên Elio khi còn là sinh viên đại học. Anh ấy đoàn tụ với Elio ở Ý, và họ kết nối lại một cách lãng mạn. Mặc dù cha của Elio đã chết, ông vẫn có một đứa con với Miranda, đặt tên theo Oliver - Ollie Nhỏ. Da Capo Phần cuối cùng được thuật lại bởi lời của Elio. Elio và Oliver lại ở cùng nhau, cùng nuôi dưỡng Ollie Nhỏ, em trai cùng cha khác mẹ của Elio. Phần kết này diễn ra không lâu sau các sự kiện trong Capriccio. *** Sau thành công của "Gọi em bằng tên anh'', André Aciman viết tiếp câu chuyện của Elio và Oliver với những ngã rẽ riêng trong đời. Nếu Gọi em bằng tên anh (tên gốc: Call Me By Your Name) để lại nhiều nuối tiếc cho mối tình giữa cậu trai 17 tuổi Elio và học giả người Mỹ Oliver thì Tìm em nơi anh (tên gốc: Find Me) như một giấc mơ với cái kết trọn vẹn mà André Aciman dành cho hai người. Cuộc đào bới hạnh phúc Có những thứ ở hiện tại chúng ta không biết sẽ trở thành kỷ niệm đến khi ta đánh mất. Kỷ niệm là thứ nuôi nấng ta khi ngày nào đó ta dạt vào một bến bờ sâu thẳm của miền ký ức. Dịu ngọt, đắng cay, dữ dội, bồng bột, cuồn cuộn hòa vào dòng chảy hiện thực nhiều đau đớn. 10 năm trước, cuộc dạo chơi cùng thần ái tình mang cả ''cậu bé đào'' Elio cùng bạch mã hoàng tử Oliver đi ngược xuôi trên dòng thời gian. Họ kiếm tìm nhau bất chấp sự nối dài phi lý về mặt thời gian để gặp nhau sau 10 năm trong Tìm em nơi anh. Hay lùi về tận 20 năm nơi quảng trường nhỏ đối diện tượng đài Piave để kể cho nhau nghe về hai thanh niên hạnh phúc biết bao trong vài tuần ngắn ngủi trong Gọi em bằng tên anh. Tìm em nơi anh được xem là phần hậu truyện, tiếp nối câu chuyện nổi tiếng trước đó và được chia làm 4 phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo. Mốc thời gian giữa các phần không đi theo thứ tự và cũng không tuân theo những gì đã diễn ra ở cuốn sách trước. Mỗi phần cũng được kể lại bằng lời của nhiều nhân vật. "Nhạc trưởng" André Aciman dẫn dắt độc giả vào giai điệu hạnh phúc của một giao hưởng đầy ngẫu hứng. Những cuộc đời được tái sinh từ những cuộc đời khác, hạt giống tình yêu lại một lần nữa nảy mầm sau nhiều năm ngủ đông cô độc. Đó là Samuel "Sami" Perlman - cha của Elio - đưa người đọc đến mối tình say đắm của ông. Đó là Elio 10 năm sau cuộc chia ly với Oliver nhưng vẫn không thể ngừng thương nhớ người cũ. Đó còn là Oliver dù đã kết hôn nhưng trong thâm tâm vẫn nuôi dưỡng nỗi nhớ đong đầy về quá khứ. Và cuối cùng khi họ ở cùng nhau, họ tìm thấy tâm hồn mình quay trở về tháng ngày mùa hè cuồng nhiệt ở Italy. Cuốn sách là hành trình đi tìm chất xúc tác để xảy ra phản ứng hóa học cho một Elio trưởng thành sau 10 năm và sự tỉnh thức của Oliver sau giấc ngủ vùi dưới bức bình phong mang tên gia đình. Dường như ''một nửa mùa hè, vẫn còn những dở dang'' nới rộng bằng cách xóa đi dấu chấm hết trong Gọi em bằng tên anh, tiếp tục cuộc đào bới hạnh phúc và trao đi cái kết trọn vẹn cho độc giả sau hàng năm mong đợi. Bước ra ánh sáng để tìm lại hạnh phúc Trong tiểu thuyết Đừng tự dối mình của Philippe Besson có một nhân vật từng nói về người yêu đồng giới của mình: ''Đến cuối cùng, anh ấy cũng sẽ che giấu con người mình suốt cả đời. Cho dù anh đã bỏ đi thật xa, cho dù đã có tham vọng sống một kiếp tồn tại mới, anh vẫn lại đối diện với những bản tính của anh, nỗi hổ thẹn của anh, không có khả năng yêu lâu dài. Tôi nghĩ đến những người mình đã thấy trong những dịp gặp gỡ ở hiệu sách, những người đàn ông từng thừa nhận đã tự dối mình, đã sống dối gian từ rất nhiều, rất nhiều năm qua, trước khi chấp nhận sống vui vẻ, trước khi rời bỏ tất cả để bắt đầu lại từ đầu (những người đàn ông ấy sẽ tự nhận ra khi đọc những dòng này). Họ đã không có dũng khí''. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở tiểu thuyết Gọi em bằng tên anh thì tác giả André Aciman và Philippe Besson giao nhau ở cùng một điểm khi xây dựng nên một nhân vật đồng tính. Oliver của André Aciman chính là đại diện cho rất nhiều người đồng tính ngoài xã hội, ẩn mình và giấu đi giới tính thật của mình khi họ lấy việc lập gia đình, sinh con đẻ cái là tấm khiên che chắn sự kỳ thị của xã hội. Tìm em nơi anh chính là liều thuốc xoa dịu khi tác giả viết tiếp một đoạn kết hạnh phúc cho một dấu chấm hết đầy phũ phàng của những mối tình đồng tính. Là sự an ủi cho cậu bé Elio năm nào dám sống thật với giới tính của mình và cũng chính là sự cứu chuộc sau những lần đớn hèn trong quá khứ, không dám đối mặt và nắm bắt hạnh phúc của Oliver. Độc giả có thể tiếp cận tiểu thuyết Tìm em nơi anh bằng một hướng mới khi xem phần hậu truyện này hoàn toàn độc lập với câu chuyện trước đó. Bắt đầu bằng câu chuyện của ông Samuel Perman khi phải lòng một cô gái trẻ, như một dấu gạch nối để tiếp tục với chuyện tình của chàng nhạc công Elio cùng người đàn ông lớn tuổi và kết bằng việc quay về mối tình đầu của Elio và Oliver. Dù tiếp cận bằng cách nào đi nữa, câu chuyện của André Aciman luôn tập trung vào thấu hiểu và cảm thông. Bước ra ánh sáng để đi tìm hạnh phúc của người đồng tính chưa bao giờ dễ dàng dù ở thời đại nào. André Aciman đã viết phần hậu truyện không chỉ làm hài lòng độc giả với một cái kết đẹp cho cuộc tình của Elio và Oliver mà ông còn mang lại một khoảng lặng, một thập kỷ của đời người để nhận ra hạnh phúc đích thực từ những sai lầm tuổi trẻ. *** André Aciman   Sinh ngày 2 tháng 1 năm 1951) là một nhà văn người Mỹ. Sinh ra và lớn lên ở Alexandria, Ai Cập, ông hiện là giáo sư nổi tiếng tại Đại học Trung tâm Đại học Thành phố New York, nơi ông dạy lịch sử của các lý thuyết văn học và các tác phẩm của Marcel Proust.Aciman trước đây đã từng dạy viết văn bản sáng tạo tại Đại học New York và văn học Pháp tại Princeton và Bard College. Năm 2009, ông là nhà văn đặc biệt tại Đại học Wesley. Ông là tác giả của một số tiểu thuyết, bao gồm cả Call Me by Your Name (chiến thắng trong hạng mục Gay Fiction tại Lambda Literary Award 2007) và một hồi ký năm 1995, Out of Egypt, đoạt giải Whiting Award. Mặc dù ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Call Me by Your Name, nhưng Aciman đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019, cuốn sách hay nhất của ông là cuốn tiểu thuyết Eight White Nights. *** Sao cau có vậy? Tôi nhìn em lên tàu ở ga Florence. Em mở cửa và, khi đã vào trong khoang tàu, nhìn quanh một vòng, ném chiếc ba lô vào chỗ ngồi còn trống cạnh tôi. Em cởi chiếc áo khoác da, đặt xuống quyển sách bìa mềm đang đọc dở, cất một chiếc hộp vuông màu trắng lên học hành lý rồi ngồi phịch xuống chỗ ngồi chéo với tôi, vẻ bồn chồn cáu kỉnh. Dáng vẻ ấy như thể em vừa mới cãi nhau nảy lửa vài phút trước khi rời đi và vẫn giận dỗi bởi những lời lẽ đắng cay mà chính em hoặc người kia thốt ra trước khi cúp máy. Chú cún của em, bị kẹp giữa hai mắt cá chân cùng một sợi dây buộc đỏ quấn quanh tay chủ, dường như cũng bồn chồn chẳng kém. “Buona, ngoan nào bé,” cuối cùng em lên tiếng, mong làm nó bình tĩnh, “buona, ngoan,” nó vẫn ngọ nguậy cố chui ra khỏi vòng kìm kẹp. Sự hiện diện của nó khiến tôi thấy phiền, và bất giác tôi khước từ chuyện bỏ chân xuống hoặc nhích ra để nhường chỗ cho nó. Nhưng em có vẻ chẳng bận tâm tới tôi hay cử chỉ từ chối ấy. Thay vì vậy, em lục tìm trong ba lô ra một chiếc túi nhựa mỏng, lấy ra hai cái bánh nhỏ xíu hình xương cho chú cún, đặt lên lòng bàn tay và xem nó liếm hết. “Brava, giỏi lắm.” Con chó dịu xuống trong chốc lát, em hơi nhổm người lên để chỉnh áo, sửa thế ngồi một hai lần, rồi rơi vào một kiểu ngẩn ngơ buồn bã, nhìn chằm chằm ra khung cảnh Florence khi tàu bắt đầu rời khỏi ga Santa Maria Novella. Em vẫn giận, và có lẽ trong vô thức, em lắc đầu, một lần, hai lần, rõ ràng đang rủa cái người khiến em bực tức trước khi đi. Trong thoáng chốc em mang vẻ tuyệt vọng đến cùng cực đến nỗi dù đang chú mục vào quyển sách trước mặt, tôi bắt gặp bản thân mình đang cố nghĩ ra điều gì đó để gợi chuyện, để giá có thể giúp dịu lại cơn bão đang chực chờ dâng trào trong cái góc nhỏ bé tít gần cuối toa này. Rồi tôi lại đổi ý. Nên để người ta yên và quay lại việc đọc của mình thì hơn. Nhưng khi tôi bắt gặp em cũng đang nhìn mình, chẳng ngừng được, tôi buột hỏi: “Sao cau có vậy?” Chỉ đến khi nói ra rồi tôi mới nhận ra câu hỏi ấy hoàn toàn không phù hợp để hỏi người lạ trên tàu, nhất là một người có vẻ sẵn sàng bốc hỏa trước sự trêu ngươi nhỏ nhất. Em nhìn tôi với vẻ lúng túng và hằn học hiện lên trong mắt, báo hiệu trang ngôn từ sắp xổ ra nhắc tôi nhớ lấy vị trí của mình. Lo thân mình đi lão già. Hoặc: Liên quan tới ông sao? Hoặc bĩu môi: Đồ khốn! “Không, không cau có, chỉ nghĩ ngợi thôi,” em bảo. Tôi giật mình bởi sự nhẹ nhàng, gần như hối tiếc trong giọng điệu em nói, nếu em bảo tôi cút xéo đi thì tôi còn thấy ít bất ngờ hơn. “Chắc là nghĩ ngợi khiến tôi trông thế.” “Kể cả khi cô nghĩ điều vui à?” “Không, khi vui thì khác,” em trả lời. Tôi mỉm cười nhưng không nói gì thêm, cảm thấy hối hận với câu đùa nông cạn và hợm hĩnh vừa rồi. “Nhưng chắc dù sao cũng vẫn hay cau có,” em nói thêm, chấp nhận với một điệu cười đầu hàng. Tôi tỏ lời xin lỗi vì nói năng khiếm nhã. “Không sao,” em bảo, nhìn ngắm phong cảnh miền quê bắt đầu trải ra bên ngoài cửa sổ. Vậy cô là người Mỹ đúng chứ, tôi hỏi. Đúng là thế. “Tôi cũng vậy,” tôi nói. “Nghe giọng ông là tôi nhận ra ngay,” em mỉm cười. Tôi giải thích rằng mình đã sống ở Italy gần ba mươi năm rồi, nhưng chắc có cả đời cũng chẳng thể mất đi giọng bản xứ. Rồi tôi hỏi, em bảo đã chuyển tới đây cùng cha mẹ từ khi mười hai. Chúng tôi đều đang đi Rome. “Công việc à?” tôi hỏi. “Không, không phải công việc. Thăm cha tôi. Ông không khỏe.” Rồi, ngước mắt lên nhìn tôi: “Nên mới cau có, chắc vậy.” “Nghiêm trọng không?” “Tôi nghĩ là có.” “Tôi rất tiếc,” tôi bảo. Em chỉ nhún vai. “Đời mà!” Và rồi, đổi tông giọng: “Thế còn ông? Công việc là hay đi thăm thú?” Tôi cười bởi câu hỏi nhại và nói tôi được mời đến để làm buổi đọc sách cho sinh viên đại học. Nhưng tôi cũng ghé thăm con trai mình, nó sống ở Rome và lát sẽ đón tôi ở ga. “Hẳn là một cậu bé ngoan.” Mời các bạn đón đọc Tìm Em của tác giả André Aciman.
Thành Phố Và Lũ Chó
Lũ chó trong Thành phố và lũ chó là danh xưng mà học viên các lớp trên của Trường Quân sự Leoncio Prado “tặng” cho các học viên lớp mới vừa chân ướt chân ráo bước vào trường năm đầu. Và đám lính tò te ấy, lũ “chó con”, ngơ ngác, sợ sệt, “chửa biết gì”, rất nhanh chóng được nếm mùi vị thật của Trường Quân sự, mùi bạo hành, thứ bạo hành mà khi chúng lớn hơn, bản thân trở thành học viên lớp lớn, chính chúng sẽ đem áp dụng với đám “chó con” nhỏ tuổi hơn. Những năm niêu thiếu quan trọng nhất của “lũ chó” đã trôi qua trong môi trường nghiệt ngã của ngôi trường quân sự, một nhà tù để chúng trưởng thành về mọi mặt, cả mặt sáng và mặt tối. Tình yêu, tình dục, tình bằng hữu, ý thức về trung thực, trách nhiệm và phẩm giá, tất cả rồi sẽ nảy nở và hình thành trong cái lò lửa đó, theo cách giống như tất cả chúng ta song cũng theo một cách riêng, rất riêng của lũ “chó con” trường quân sự dưới ngòi bút duyên dáng, sinh động, sục sôi khí lực của một trong những nhà văn hàng đầu Mỹ latinh.   Khi Thành phố và lũ chó được ấn hành lần đầu tiên ở Peru vào năm 1962, tác phẩm đã  gây xì căng đan đến độ có một ngàn bản sách đã bị đốt trong một buổi lễ chính thức diễn ra tại Trường quân sự Leoncio Prado. Cũng năm đó, cuốn sách được trao giải Biblioteca Breve, một giải thưởng tặng cho tác phẩm hư cấu hay nhất bằng tiếng Tây Ban Nha.     ***********     Nhận định   “Cuốn tiểu thuyết đầy bạo lực nhất của Mario Vargas Llosa” - Lời bình của ấn bản tiếng Tây Ban Nha, NXB Alfaguara *** LỜI GIỚI THIỆU Năm 1962, khi còn là bản thảo, Thành phố và lũ chó[1] đã được nhận Giải thưởng Thư viện Ngắn gọn của Nhà xuất bản Seix Barral, cho đến hiện nay vẫn là một trong những nhà xuất bản danh tiếng nhất Tây Ban Nha và Mỹ Latinh. Ngay khi vừa được xuất bản, năm 1963, cuốn tiểu thuyết đã được trao giải thưởng của Giới phê bình Tây Ban Nha và gây nên chấn động chưa từng thấy trong dư luận xã hội và trong giới học giả, nhanh chóng được dịch ra ba mươi thứ tiếng và ngày nay được đánh giá là tác phẩm kinh điển trong nền văn học không chỉ của đất nước Perú mà còn của Mỹ Latinh nói chung. Trong nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh, nhà văn nổi tiếng người Guatemala, Miguel Angel Asturias, giải thưởng Nobel Văn chương năm 1967, và nhà văn người Cuba, Alejo Carpentier, được coi là những người khởi đầu và đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (realismo mágico hoặc realismo maravilloso), một khám phá độc đáo của văn học Mỹ Latinh hiện đại[2]. Còn nhà văn Perú Mario Vargas Llosa lại là một trong những người đi tiên phong, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách tân thi pháp tiểu thuyết, mà vấn đề cốt lõi là sử dụng thời gian đa tuyến, một kỹ thuật hết sức mới mẻ thời bấy giờ, đồng thời cũng sáng tạo ra những kỹ thuật kể chuyện có hiệu quả để nắm bắt và phản ánh hiện thực như mê cung của đất nước ông. Trong Thành phố và lũ chó, thời gian đa tuyến được tác giả sử dụng thông qua kỹ thuật tự sự đa chủ thể: thời gian “trong cốt truyện” thông qua chuyện kể của ngôi thứ ba (người kể chuyện) theo diễn biến từ đầu đến cuối - từ khi học viên Cava bị Nhóm bạn giao cho việc ăn cắp đề kiểm tra môn hóa, vô tình làm vỡ cửa kính, nhà trường phạt các học viên gác đêm hôm đó không được đi chơi ngoài trường vào thứ Bảy và Chủ nhật; quá bức xúc, học viên Arana (Nô Lệ) liền tố giác khiến Cava bị đuổi học, rồi bản thân Nô Lệ sau đó bị bắn chết trong cuộc diễn tập quân sự… Bên cạnh đó là thời gian “ngoài cốt truyện”, diễn ra qua lời kể của các nhân vật chính: Trăn, Alberto (tức Nhà Thơ), Báo Đen gồm những hồi ức về gia đình, bản thân (ngược chiều với thời gian cốt truyện, kể về những sự việc đã qua, một thứ flashback), thời gian tâm lý gồm tình yêu chớm nở, tình cảm với con chó cái… Toàn bộ cuốn tiểu thuyết được chia làm hai phần và phần vĩ thanh, mỗi phần có tám chương, mỗi chương thường có bốn hoặc năm phân đoạn, hai chương có đến mười phân đoạn. Một phần ba cuốn tiểu thuyết (ba mươi sáu trong số tám mươi mốt phân đoạn) được kể ở ngôi thứ nhất dưới dạng độc thoại nội tâm của ba nhân vật chính với thời gian và không gian bị đảo lộn, xáo trộn, khiến cốt truyện dù đơn giản cũng trở nên ly kỳ, hấp dẫn. Các đoạn độc thoại này không được nói rõ của nhân vật nào, độc giả phải tự luận ra, hơn nữa chúng lại kết hợp rất khéo léo, khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp với ngôi thứ ba, kỹ thuật kể chuyện này được M. Vargas Llosa tự gọi là “phương pháp bình thông nhau”, ví dụ trong đoạn độc thoại sau đây của Alberto: “Mình có thể sẽ đi mà nói với bố, bố ơi cho con hơi mươi đồng sol đi và ngay bây giờ mình đã thấy rõ, hai mắt bố sẽ đẫm lệ và bố sẽ cho mình bốn mươi hoặc năm mươi đồng, nhưng việc đó sẽ chẳng khác gì nói với bố, con tha thứ cho những việc bố đã làm với mẹ và bố vẫn có thể cứ làm ba cái trò đĩ thoã của mình đi với điều kiện là phải tiếp tục cho con tiền thưởng hậu hậu vào.” Dưới chiếc khăn quàng bằng len của mẹ cho từ mấy tháng trước, đôi môi của Alberto cử động liên tục mà không hề phát ra âm thanh nào… Cấu trúc phức tạp này đòi hỏi nhà văn phải vững tay nghề và, cùng với một cốt truyện ly kỳ, cấu trúc này đã giữ được mạch hồi hộp thích thú cho độc giả và buộc họ phải tham gia tích cực vào diễn biến của câu chuyện, phải chăm chú theo dõi, tự sắp xếp lại không gian và thời gian của các lời kể thì mới có thể nắm chắc được nội dung. Yếu tố kỹ thuật kể chuyện này hoàn toàn mới lạ trong nền tiểu thuyết Mỹ Latinh thời kỳ đó, và trở thành yếu tố kỹ thuật cơ bản của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Và chính Mario Vargas Llosa là một trong những người đầu tiên vận dụng nhuần nhuyễn ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Ngoài ra, khả năng sử dụng ngôn ngữ đời thường, kể cả những từ lóng, thậm chí thô tục của lứa tuổi mới lớn; nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật; sự kết hợp hài hòa giữa những trang miêu tả các sự kiện đầy bạo lực với những trang hết sức trữ tình về tình yêu của những thanh niên mới lớn, tình yêu thuở học trò, những trang miêu tả sương mù bảng lảng đầy chất thơ và chất u ám tăm tối ở khu vực La Perla nơi trường quân sự được xây dựng và ẩn hiện thường xuyên chất hài hước chế giễu sâu cay; tất cả làm nên giá trị nghệ thuật độc đáo và hết sức mới mẻ của tác phẩm này. Nét mới mẻ và độc đáo còn ở ngay nội dung tác phẩm. Thành phố và lũ chó là bản cáo trạng lên án nền giáo dục quân phiệt, quan điểm phân biệt chủng tộc, đẳng cấp xã hội, triết lý kẻ mạnh áp chế kẻ yếu còn ngự trị trong xã hội và trong trường quân sự. Là di sản của chế độ thực dân-phong kiến của Tây Ban Nha, chế độ gia trưởng, vai trò các trưởng lão, các thủ lĩnh (Caudillo) còn tồn tại lâu dài trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản. Các thế lực quân sự, nhằm đào tạo ra một thế hệ quân nhân mù quáng tôn thờ chế độ gia trưởng, chế độ độc tài quân sự, đã lập ra hệ thống trường quân sự nơi nền giáo dục dựa trên chính bạo lực và dối trá, nơi triết lý kẻ mạnh ngự trị trên hết. Bằng chính trải nghiệm của bản thân, Vargas Llosa đã đề cập đến một đề tài hết sức mới mẻ: nền giáo dục quân phiệt đầy bạo lực. Và Trường Quân sự Leoncio Prado cũng chính là xã hội Perú thu nhỏ với mọi tệ nạn xã hội, đầy rẫy tệ phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp xã hội, nguồn gốc văn hóa. Lên án nền giáo dục bạo lực đối với thế hệ thanh niên mới lớn trong trường quân sự, Thành phố và lũ chó cũng mang tính dự báo và kết án chế độ độc tài quân sự đã hình thành ở một số nước và sau đó, suốt thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, đã thống trị một cách tàn bạo ở hầu hết các nước Mỹ Latinh. Đây cũng là một đề tài được nhiều nhà văn nổi tiếng, từ M Angel Asturias, Alejo Carpentier, Augusto Roa Bastos, Ernesto Sabato… đến G. García Márquez đều đã viết và đạt thành tựu quan trọng. Nhưng nếu các nhà văn khác viết về các nhà độc tài, các trưởng lão, thì Vargas Llosa khai thác đề tài nền giáo dục, đào tạo ra bọn độc tài. Thành phố và lũ chó còn hấp dẫn bởi vì lần đầu tiên văn chương đề cập đến đời sống tinh thần và vật chất của lứa tuổi mới lớn trong trường quân sự, tình bạn, tình yêu. Họ là nạn nhân của một xã hội thối nát, của lối giáo dục tàn bạo, nên sống buông thả, bài bạc, đĩ điếm, ăn trộm, vô kỷ luật, tàn nhẫn với nhau, theo đuổi lối sống tình dục bản năng của tuổi chưa trưởng thành (tình dục đồng giới, tình dục với thú vật như gà mái, chó cái), thậm chí còn gây tội ác. Vargas Llosa mạnh dạn bóc trần những tệ nạn đó, lên án và chế giễu chua cay những kẻ đại diện cho chế độ xã hội dựa trên bạo lực và giả dối. Lập trường chống chế độ quân phiệt, chống giai cấp tư sản, chống tư tưởng ỷ thế kẻ mạnh, chống bạo lực tàn bạo của Vargas Llosa trong tác phẩm này đã làm cháy lên tinh thần phản kháng và thức tỉnh ý thức phải đổi mới trong xã hội Perú, như García Márquez từng nói:”… đảo ngược hẳn lại thực tế.” Mới mẻ, đặc sắc từ đề tài, quan điểm tiếp cận thực tế đến phong cách, nghệ thuật kể chuyện cùng những yếu tố kỹ thuật mới, Thành phố và lũ chó được liệt vào một trong những tác phẩm văn học mở đầu cho cuộc bùng nổ của tiểu thuyết Mỹ Latinh. Cùng với Gabriel García Márquez, Julio Cortázar, Carlos Puentes, Mario Vargas Llosas được coi là những nhà văn xuất sắc nhất của Mỹ Latinh từ nửa cuối thế kỷ XX cho đến hiện nay. M. Vargas Llosa sinh ở Arequipa, Perú, năm 1936, cho đến năm lên mười mới biết mặt bố vì trước đó bố mẹ ông đã ly thân. Từ chỗ được mẹ yêu chiều, khi về sống với bố và mẹ lúc này đã tái hợp, ông phải đối mặt với thái độ hà khắc của bố, từ đó nảy sinh xung đột bố- con, và nỗi khát khao được sống tự do. Ông bị đưa vào học Trường Quân sự Leoncio Prado. Chính trong môi trường bạo lực này, tố chất và năng khiếu văn chương của ông đã được nảy nở: ông viết thư hộ cho bạn, viết truyện tình bán cho bạn học. Ngay khi ra trường, ông tham gia viết báo và nhận ra sự nghiệp đời mình chỉ có thể gắn với chữ nghĩa. Năm 1953 ông vào học ở khoa Văn và Luật trường Đại học San Marcos và bắt đầu viết truyện ngắn; năm 1959 các truyện này được tập hợp trong tập Các vị chỉ huy, giành giải thưởng Leopoldo Alas. Sau đó, ông yêu và kết hôn cùng Julia Urquidi, người dì dâu của chính ông. Năm 1955, cùng với vợ, ông sang châu Âu học tập theo học bổng Javier Prado và lấy bằng Tiến sĩ Triết học và Văn chương; đồng thời tìm thấy môi trường thích hợp cho hoạt động văn học. Những chi tiết trong tiểu sử này đã được ông đưa vào một số tiểu thuyết nổi tiếng như Lầu xanh (La casa verde, 1966), Đối thoại trong quán La Catedral (Conversacion en La Catedral, 1969) và Dì Julia và nhà văn quèn (La tía Julia y el escribidor, 1977, hai cuốn sau đã được dịch ra tiếng Việt). Ngoại trừ một giai đoạn có tham gia hoạt động chính trị, thậm chí là ứng viên tổng thống năm 1990, phần lớn cuộc đời cho đến hiện nay ông dành cho văn học và báo chí. Ông có sức sáng tạo mạnh mẽ: hàng chục tiểu thuyết nổi tiếng như Pantaléon và các nữ du khách (Pantaleón y las visitadoras, 1973); Cuộc chiến tranh nơi tận cùng thế giới (La guerra del fin delmundo, 1981), Câu chuyện của Mayta (Historia de Mayta, 1984), Ai đỡ giết Palomino Molero? (iQuién mató a Palomino Molero?, tiểu thuyết hình sự, 1986), Người nói chuyện (El hablador, 1987), Ca ngợi người mẹ kế (Elogio de la madrastra, 1988), Người Lituma ở dây Andes (Lituma en los Andes, 1993), Những quyển vở của ông Rigoberto (Los cuadernos de don Rigoberto, 1997), Lễ hội của dê (La fiesta del chivo, 2000), Thiên đường nơi góc phố (El paraíso en la otra esquina, 2003), và ở tuổi 70, năm 2006, lần đầu tiên ông viết cuốn tiểu thuyết tình yêu Trò nghịch của gái hư (Travesuras de la nina mala). Ngoài ra ông còn một số lượng rất lớn sách tiểu luận về văn học, triết học, chính trị và nhiều tác phẩm sân khấu. Năm 2010 vừa qua, Mario Vargas Llosa được trao giải thưởng Nobel Văn chương. Bên cạnh đó, ông từng đoạt tất cả các giải thưởng quan trọng nhất ở đất nước Perú và các nước nói tiếng Tây Ban Nha: giải thưởng Cervantes, giải thưởng Hoàng tử Asturias về văn chương - hai giải thưởng danh giá nhất trong các nước nói tiếng Tây Ban Nha - giải thưởng của các nhà xuất bản quan trọng nhất Barral và Planeta, giải thưởng của các nước khác của Mỹ La tinh, của Ý, Pháp, Mỹ, Anh, Đức… Và, như ông tự nói: giải thưởng lớn nhất trong đời chính là niềm đam mê và lòng quyết tâm theo đuổi nghề văn. Lê Xuân Quỳnh   *** "Thành phố và lũ chó" là tác phẩm đầu tay của nhà văn người Tây Ban Nha gốc Peru Mario Vargas Llosa - người đoạt giải Nobel Văn học 2010. Bối cảnh của câu chuyện là trường quân sự có thật mang tên Leoncio Prado ở Lima, Peru. Tại đây, những đứa trẻ 14-15 tuổi đã phải nhập học và trải qua cuộc sống lính khắc nghiệt. Những năm tháng quan trọng nhất trong thời niên thiếu của lũ trẻ sống dưới dưới sự tàn khốc của chế độ quân phiệt Peru. Những học viên mới của trường bị gọi là “chó con”. Chúng phải trải qua thử thách là những trò hành hạ mà lũ “chó con” năm trước áp đặt. Trong môi trường khép kín và đầy thiết quân luật, trường học trở thành nơi lũ trẻ đe nẹt, hành hạ lẫn nhau. Ngoài ra, đây cũng trở thành nơi chúng hút hít và vụng trộm giải tỏa những nhu cầu sinh lý của những cậu trai đang lớn. Nội dung chính của tác phẩm tập trung vào một hội nhóm bí mật của đám học viên năm thứ tư. Chúng thường tổ chức các vụ trộm cắp, trao đổi những phi vụ bí mật trong trường. Một lần, Cava, một trong ba thành viên của nhóm, nhận nhiệm vụ đánh cắp đề thi môn Hóa. Vụ việc vỡ lở, toàn bộ học viên của khóa bị cấm trại cho đến khi tìm được thủ phạm. Cava bị một học viên khác trong trường tố giác và sau đó là những kế hoạch trả thù của nhóm hội bí mật với người bạn học này. Tác phẩm từng gây chấn động lớn trong xã hội ngay khi ra đời năm 1963 vì lên án chế độ quân sự của Peru. Đã có cả nghìn bản sách bị chính các sĩ quan của ngôi trường này đốt bỏ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng được đánh giá cao về giá trị văn chương và đã đoạt giải Biblioteca dành cho tác phẩm hư cấu hay nhất của giới phê bình Tây Ban Nha. Nhà văn Mario Vargas Llosa khi ấy mới 23 tuổi. Song Ngư *** Đã từng lướt qua không biết bao nhiêu lần và cũng đã từng muốn mua không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào cũng đang trong lúc cạn ngân sách nên đành bấm bụng quay đi. Sau một hồi quên lãng thì lại đọc ké hết cả quyển trong quán Cà phê. Và cảm xúc sau khi đọc xong là Cực kì muốn đọc lại. Đau đớn thay là khi ấy Quyển này đã hết hàng, còn đau đớn hơn nữa khi biết là không hề có bản Ebook. Và vì không có Ebook, cũng không có Sách trong tay, thế nên bài Review này cũng không có bất cứ dẫn chứng nào. Mà cũng đừng ai hỏi bạn chẻ có quyển này hay không, hay hỏi mượn, hay đại loại là hỏi mua ở đâu, đơn giản là vì bạn chẻ cũng đang kiếm chỗ mua đây. FULL: AZW3 EPUB MOBI PDF
Những Đại Lộ Vành Đai
Người kể chuyện đi tìm cha. Công cuộc tìm kiếm này khiến ông lần ngược thời gian và một lần nữa sống lại, trong ảo giác, một thời kỳ có lẽ là khi nước Pháp bị chiếm đóng. Đó là khi ông sống trong một ngôi làng ở vùng Seine-et-Marne, ven rừng Fontainebleau, giữa những người xa lạ đến làng để nghỉ cuối tuần. Trong số họ có “bá tước” Marcheret - cựu lính lê dương bị bệnh sốt rét, Jean Muraille - chủ bút, cháu gái ông ta - một nữ diễn viên tóc vàng lúc nào cũng quấn kín người trong chiếc áo choàng lông thú… Cuối cùng, là cha của người kể chuyện, người tự xưng là “nam tước” Deyckecaire. Người kể chuyện xâm nhập cái giới ám muội ấy, với hy vọng tiếp cận cha mình. Chính xác thì ông là ai? Buôn lậu chợ đen? Một người Do Thái bị săn đuổi? Tại sao ông lại ở cùng với những người kia? Cho đến tận cuối câu chuyện, người kể chuyện sẽ đuổi theo người cha mờ mịt ấy. Đầy âu yếm. Như muốn hòa vào với cha mình và chịu trách nhiệm về một quá khứ biến động cũng chính là nơi ông xuất thân. Vài nét về tác giả: Patrick Modiano, sinh năm 1945 tại Pháp, có cha là người Ý gốc Do Thái, mẹ là nghệ sĩ người Bỉ. Patrick Modiano được coi là một trong những nhà văn tài năng nhất thế hệ của ông. Là nhà thám hiểm quá khứ, ông biết cách khơi gợi lên một cách vô củng chính xác và chi tiết bầu không khí của những địa điểm hay những thời đại đã qua, ví dụ như Paris thời bị Đức chiếm đóng. Ngoài tiểu thuyết, Patrick Modiano còn viết kịch bản, lời bài hát. Ông đã giành được rất nhiều giải thưởng danh giá, trong đó phải kể đến Giải Goncourt năm 1978 và Giải Nobel văn chương năm 2014. Những đại lộ vành đai được xuất bản tại Pháp năm 1972 và đã giành Giải thưởng lớn dành cho tiểu thuyết của Viện hàn lâm Pháp. Những tác phẩm của Patrick Modiano đã được Nhã Nam xuất bản: Phố những cửa hiệu u tối Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối Từ thăm thẳm lãng quên Để em khỏi lạc trong khu phố Quảng trường Ngôi sao Catherine cô bé đeo mắt kính Một gánh xiếc qua *** “Những đại lộ vành đai” lấy bối cảnh thời kỳ Pháp bị chiếm đóng với đầy những tan rã, đổ vỡ và thất lạc. Những đại lộ vành đai là tiểu thuyết thứ ba của Patrick Modiano, được xuất bản lần đầu tiên tại Pháp năm 1972, đoạt Giải thưởng lớn cho tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp. Những đại lộ vành đai là hành trình nhiều ẩn ức của người đàn ông Do Thái dưới danh tính giả định, Serge, tìm gặp cha mình sau gần một thập kỷ thất lạc.  Tác phẩm được viết bằng những câu ngắn, nhiều tính ẩn dụ, truyền cảm, đạt được hiệu quả cao trong việc đi sâu vào tâm thức của mỗi nhân vật. Truy tìm ký ức về cha Người kể chuyện đi tìm cha. Anh phát hiện cha mình đang sống giữa những kẻ đầy mờ ám. Ông ở ngôi làng vùng Seine-et-Marne, cạnh mé rừng Fontainebleau, trong những ngôi biệt thự bỏ hoang.  Người cha đó là ai? Kẻ buôn lậu? Một người Do Thái bị truy lùng? Tại sao ông sống cùng những kẻ đó? Người kể chuyện sẽ săn đuổi cho tới cùng người cha như một bóng ma đó. Hành vi thụ động của ông trong cuộc sống hiện tại giữa những gã lang thang, khiến anh bị sốc, đồng thời khinh bỉ, chán nản. Giữa hiện thực đầy bức bối ấy, chỉ có những kỷ niệm thời xa vắng, với những mảnh rời rạc, khiến anh cảm thấy mối liên kết với người cha của mình. Cuộc tìm kiếm cha cũng là cuộc truy vấn về thân phận con người trong xã hội đang sụp đổ, khi mọi thứ đẹp đẽ đang bị tàn phá bởi chiến tranh, bạo lực và sự bất nhân. Modiano viết về những điều đó bằng giọng văn u sầu, đẹp đẽ. Dòng chảy kể chuyện u buồn, tạc nên chân dung những kẻ lang thang bên rìa thành phố. Sống ẩn mình vào ban đêm trong những căn biệt thự ấy với rượu, thịt, đàn bà... như những “lễ hội của vô nghĩa”. Những thân phận vô danh tính trong lịch sử Patrick Modiano sinh ngày 30/7/1945 ở Paris, Pháp. Cha của ông là người suốt đời phiêu bạt và mẹ là diễn viên quanh năm lưu diễn. Cậu bé Patrick có tuổi thơ thiếu vắng tình phụ mẫu.  Cảm thức cô đơn với đầy những truy vấn về sự tồn tại của gia đình trở thành nỗi ám ảnh trong mỗi trang viết của Modiano. Ông dùng ngòi bút của mình, đi sâu từng ngóc ngách, lần mò những dấu vết còn sót lại để có thể dựng những bức chân dung thất lạc về con người.  Những con người không thể hiện hữu một cách cụ thể trong tâm trí ông. Nó chỉ có thể được chắp nối với những cái tên, âm thanh, hay món đồ vật cũ kỹ nào đó.  Từ Phố của những cửa hiệu u tối, Để em khỏi lạc trong khu phố, Từ thăm thẳm lãng quên, Modiano đều “đi tìm thời gian đã mất” bằng chút dư vị trong tâm thức của đô thị, của con người như thế. Cách Modiano tiếp cận những góc khuất u hoài ấy, khiến người đọc liên tưởng cuốn tiểu thuyết Villa triste (tạm dịch: Ngôi biệt thự buồn), được viết năm 1975 của ông.  Trong Ngôi biệt thự buồn, Yvonne và Victor giả vờ rằng mình đang sống quãng thời gian thanh thản. Cũng như cha của người kể chuyện, Deyckecaire và những kẻ đồng hành của ông, họ chỉ là những kẻ mất danh tính và bị đẩy ra ngoài rìa xã hội. Modiano luôn xử lý rất tốt khi tạo nên mối liên hệ giữa lịch sử gia đình và lịch sử thế giới thông qua hành trình truy tìm ký ức của mình. Những đại lộ vành đai trong nỗi ám ảnh gia đình, là cuốn tiểu thuyết nhiều riêng tư của Modiano. Nó có thể là mắt xích để người đọc đi vào ngóc ngách ký ức của tác giả. Nó cũng giống như cách Orhan Pamuk đi tìm tiếng nói của gia đình, của người cha trong Nàng tóc đỏ. Hai người đàn ông, hai nhà văn đoạt giải Nobel, đều mang trong mình những ẩn ức không thể chôn giấu về tuổi thơ mất mát. Văn chương thấm đẫm u buồn Tiểu thuyết của Patrick Modiano quyến rũ người đọc với chủ đề ký ức, được biểu đạt bằng ngôn ngữ văn chương mang đậm màu sắc u buồn, thơ mộng. Những đại lộ vành đai đề cập chủ đề về nỗi đau, sự bất hạnh, đồng thời phô bày nhiều xảo trá, tinh ranh của con người trong cuộc sinh tồn giữa thời kỳ chiếm đóng. Thế nhưng, Modiano đã phủ lên câu chuyện một lớp ngôn ngữ tinh tế. Người đọc cứ theo tầng tầng lớp lớp ngôn ngữ của ông mà cuốn mình vào thế giới sâu thẳm ấy, như đi trong giấc mộng.  Những hiện thực xấu xí, những khu phố đổ nát, những con người tha hóa ở hiện thực này, nhưng lẩn khuất đâu đó, trong ánh mắt mơ màng, trong cơn mơ giữa chiều, là một thời kỳ tươi đẹp đã qua.  Lối viết của Modiano khiến Những đại lộ vành đai mang đậm màu sắc siêu thực, có những khoảnh khắc người đọc không còn phân biệt được đâu là hiện tại, đâu là ký ức, đâu là hiện thực, đâu là giấc mơ... Ta không thể biết sẽ trượt chân vào đâu, như lời ông viết: “Sương mù chưa tan, vỉa hè trơn trượt. Càng lúc, tôi càng thấy mình dễ trượt chân”. Thế giới thăm thẳm của Modiano cần rất nhiều thời gian để tìm kiếm, nghiền ngẫm. Chính vì thế, văn chương của ông luôn quyến rũ, mỗi lần đọc đều thêm một lần bất ngờ và sâu sắc. Những đại lộ vành đai được xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam năm 1989 với bản chuyển ngữ của dịch giả Dương Tường, tên gọi Những đại lộ ngoại vi, NXB Văn học.  Sau khi Patrick Modiano đoạt giải Nobel văn học năm 2014, nhiều tác phẩm của ông đã được xuất bản tại Việt Nam như: Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối, Phố của những cửa hiệu u tối, Từ thăm thẳm lãng quên, Để em khỏi lạc trong khu phố... Năm 2020, cuốn sách Những đại lộ ngoại vi với bản chuyển ngữ của dịch giả Trương Xuân Huy, được giới thiệu đến bạn đọc trong diện mạo mới, dưới tên gọi Những đại lộ vành đai. *** Tôi vẫn nghĩ hồi ức chỉ như một cơn gió đầu mùa. Chóng đến. Mau đi. Khiến người ta vừa kịp nhận ra cái hoang vu ấy về ngang phố, về ngang đời nhau. Trong cuộc đời mỗi người sẽ có rất nhiều hồi ức như vậy, phân nửa muốn đào thoát, phân nửa muốn tìm lại như một trong những vết sẹo không thể xóa đi mà cả hiện tại lẫn tương lai đều không cách nào trả lại cho ta, mà người ta chỉ có được một lần trong đời. Và chẳng còn gì bàn cãi khi điều làm ta nhớ hơn cả lại là những hồi ức buồn. Nhưng… buồn bao nhiêu là đủ, phải mất mát nhường nào để khi đối diện với trang giấy trắng có thể thôi thúc ta viết ra như một sự giải thoát? Và nếu như… Viết về thời điểm ta còn chưa có mặt sẽ thế nào nhỉ, có phải là rất mơ hồ? Tuyệt nhiên không, thậm chí việc ngược về quá khứ, lật lại những trang lịch sử còn có thể hình dung rõ hơn những đường nét của hiện tại và tương lai. Đây chính là cái tài của Patrick Modiano, được thể hiện qua tác phẩm Những đại lộ vành đai (Nhà xuất bản Hà Nội).  Không phải mình Patrick Modiano viết về chiến tranh nhưng có một điều, trong trường hợp này thì thật kỳ lạ, ông sinh năm 1945 khi Thế chiến II vừa kết thúc, nhưng bằng một cách nào đó những hình ảnh nước Pháp bại trận năm ấy, chính là thời kỳ Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng (năm 1940-1944) đeo bám, ám ảnh ông triền miên, đó là một trong những trường đoạn, có thể cho là đau đớn nhất của cuộc đời mà từ lâu đã trở thành hồi ức, thành một phần máu thịt và cả linh hồn đã và luôn thường trực trong ông. Và biết đâu rằng đây là cách để Patrick Modiano “tìm lại thời gian đã mất” khi mang trong mình những ẩn ức không thể chôn giấu về tuổi thơ mất mát, sống trong một gia đình mà ở đó thiếu đi tình thương yêu, chăm sóc từ cha mẹ, tệ hơn cả đó còn là những vết thương lòng không cách nào lành lại được. Không cách nào bỏ đi được. Tôi nhớ ai đó từng nói “Thời gian là liều thuốc kỳ diệu, nó sẽ: Biến nỗi buồn thành bài học. Biến cô đơn thành thói quen, và biến nước mắt thành nụ cười mạnh mẽ”. Nhưng kỳ thực thời gian chẳng kỳ diệu đến thế, nó chỉ khiến mọi thứ trở nên rõ ràng hơn mà thôi. Cho đến khi đọc Modiano, bạn có thể sẽ nhận ra những điều kể trên đều hiện diện trong ba tác phẩm đầu tay của ông: Quảng trường Ngôi Sao, Tuần tra đêm, Những đại lộ vành đai hay còn được gọi là “Bộ ba về Thời kỳ chiếm đóng”.  Nói như Patrick Modiano thì “Con người bao giờ cũng tò mò muốn biết cội nguồn của mình”, dù có hiểu theo cách nào thì việc đi tìm những “cội nguồn” ấy trở thành nét chủ đạo ở các nhân vật của Modiano. Chúng ta đều công nhận với nhau rằng, hình tượng người mẹ trong văn học luôn là thứ tình cảm chân thật nhất, bạn có thể viết láo cho một đề tài nào đó, chứ viết về mẹ thì không. Và ở đâu, thời nào cũng tha thiết như nhau. Nhưng khi viết về cha sẽ thế nào nhỉ? Ở góc độ cá nhân, tôi nhớ ngay đến Franz Kafka và cha ông - Hermann trong một số truyện ngắn Hóa thân, hay Quentin Compson của Âm thanh và cuồng nộ và hơn cả là Kafka bên bờ biển đều là những mối quan hệ cha con phức tạp, bị ám ảnh, bị giày vò bởi người cha, bởi quá khứ và nguồn cội. Modiano với cảm thức cô đơn viết ra Những đại lộ vành đai gặp lại nỗi đau được sinh ra từ chính con người ông, về quá khứ bị “tước mất” mang tên: Gia đình, và ở đây là người cha khi chính trong một bài phỏng vấn nhiều năm về trước, ông phải thừa nhận rằng mình “đau khổ vì được ra đời” và bản thân như một “sản phẩm của một thời kỳ quái đản, khi những người lẽ ra không nên gặp nhau lại gặp và có con một cách tình cờ”. Nghe mà buồn thế. Nhưng bạn biết không, cũng chính bằng giọng văn u buồn ấy, thơ mộng ấy lại khiến văn ông đẹp hơn, lấp lánh dù ngay cả trong bóng đêm, tôi chắc chắc đấy. Thứ văn chương ấy dường như có một mạch ngầm chảy tràn qua các tác phẩm, đẹp ngay giữa những cái điêu tàn, đẹp cả trong đổ vỡ đau thương, mất mát nhưng lại chẳng khiến người đọc u uất mà chỉ nghiêm túc truy vấn về sự tồn tại của bản thân, ta là ai, ta đang ở đâu trong thế giới này hỗn mang này. Lật giở từng trang sách, vẫn là cái ám ảnh về nguồn cội ấy, ta gặp lại nhân vật lấy danh giả định của một tiểu thuyết gia trong Những đại lộ vành đai đi xuyên thời gian để tìm lại người cha của mình, anh ta xâm nhập cái thế giới ám muội ấy, với hy vọng tiếp cận được cha mình. Chính xác thì ông là ai? Buôn lậu chợ đen? Một người Do Thái bị săn đuổi? Hoặc bất cứ ai khác? Cho đến cuối cùng người cha vẫn là một dấu hỏi, cho đến cuối cùng anh thêm một lần xác định lại địa điểm và thời gian. Nhưng với nỗi đau đầy âu yếm, anh như muốn hòa vào với cha và chịu trách nhiệm về một quá khứ biến động cũng chính là nơi ông xuất thân. Ở đó, các nhân vật như những bóng ma trở về từ quá khứ, họ treo lơ lửng, tan biến trong các khu phố đổ nát của một Paris xưa cũ, tạc nên chân dung những kẻ lang thang: Mất danh tính. Đang sống mà lại không giống như thế, mỗi người như giấu trong mình một ý nghĩ mù mờ nào đó hoặc một quá khứ xa xăm, khó nắm bắt từ nhiều năm về trước, đến nỗi mà khi nhớ về những hồi ức ấy, thậm chí còn ngỡ nó không hề có thật, để rồi lại loay hoay đi tìm chính mình cả ở hiện tại và quá khứ, khiến bạn đọc nhiều khi không phân biệt được đây là quá khứ hay hiện tại, đây là kí ức hay giấc mơ…một thế giới thăm thẳm như vậy trong tâm trí Modiano, ta chẳng biết lúc nào sẽ trượt chân… Bạn biết đấy, đọc Patrick Modiano, nhớ một điều… phải tỉnh!   Mời các bạn đón đọc Những Đại Lộ Vành Đai của tác giả Patrick Modiano & Trương Xuân Huy (dịch).
Nàng Tóc Đỏ
Tuổi thơ vắng bóng sự hiện diện của người cha, Cem theo thầy học nghề đào giếng để rồi dần coi người đàn ông trung niên nghiêm khắc ấy như một người cha trong lòng. Cậu không thể ngờ cuộc đời mình vĩnh viễn thay đổi, mùa hè rực lửa ấy, khi cậu gặp một người đàn bà tóc đỏ… Phương Tây, Oedipus vô tình giết cha. Phương Đông, Rustam đâm chết Sohrab mà không hay biết đó là con trai mình. Hai truyền thuyết Hy Lạp và Ba Tư ấy hợp lại làm một, phủ bức màn ngụ ngôn bí ẩn, ám ảnh quá trình vật vã trưởng thành của một cậu trai trên nền một Istabul những năm 1980 quay cuồng thay đổi. Nàng tóc đỏ là câu chuyện về sự mất kết nối giữa các thế hệ, về gia đình và tình yêu, Đông và Tây, truyền thống và hiện đại. Có vẻ ngắn gọn hơn Orhan Pamuk mà ta quen, nhưng vẫn tìm thấy trong cuốn sách này, không lẫn vào đâu được, sức cuốn hút cố hữu đến từ bút lực của một nhà kể truyện bậc thầy. “Đẹp lặng lẽ.” - 1843 “Cuốn tiểu thuyết thứ 10 xuất sắc của Pamuk… khiến độc giả cảm giác như vừa bất thần chui ra khỏi một cái giếng sâu bước vào ánh sáng chói lòa.” - Observer (London) “Một cái kết khiến ta phải lật sách đọc lại từ đầu.” - Sunday Times “Thấm đẫm cảm thông cùng cảm thức về nơi chốn, cuốn sách vạch nên chặng đường một cậu trai bước vào tuổi trưởng thành và Istanbul bước vào sự thay đổi không thể vãn hồi.” - Financial Times *** Tiểu thuyết "Nàng tóc đỏ" của Orhan Pamuk (Thiên Nga dịch, Nhã Nam và NXB Dân Trí, 2020) có dung lượng không như các tiểu thuyết khác của cùng tác giả: "Tên tôi là Đỏ", "Tuyết", "Bảo tàng ngây thơ"… nhưng "Nàng tóc đỏ" không vì thế mà thiếu sức nặng của văn hóa, sự mê đắm trong cái đẹp cũng như những giằng xé Đông - Tây trong lòng xã hội Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ XX. Cuộc tìm kiếm câu trả lời tấn bi kịch "Nàng tóc đỏ" là tác phẩm về mối quan hệ cha con. Một mối quan hệ phức tạp mà nhà phân tâm học Freud đã dùng tên nhân vật trong thần thoại Hy Lạp để đặt tên cho phức cảm đã trở thành điển phạm trong việc phân tích nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật: phức cảm Oedipus. Nhưng Pamuk nhảy cóc qua Freud để đi tìm gặp Oedipus trong kịch của Sophocles (496-406 TCN). Ngay đề từ tác phẩm, nhà văn đã dẫn một câu thoại trong vở "Vua Oedipus" của kịch tác gia Hy Lạp cổ đại: "Oedipus: Biết tìm nơi đâu dấu vết của tội ác ngày xưa". Có thể xem toàn bộ cuốn tiểu thuyết là cuộc tìm kiếm câu trả lời trong mớ hỗn độn của "ngày xưa" đó. Nhưng xưa đến đâu? Là thời xưa ở một nước Thổ của thế kỷ trước, có cậu thiếu niên học nghề đào giếng, sau trở thành một nhà thầu. Hay xưa như thần thoại Hy Lạp? Pamuk dường như trở lại nghệ thuật của những nhà vẽ tiểu họa trong cuốn tiểu thuyết "Tên tôi là Đỏ". Khi vạn vật đều bình đẳng, cậu chàng học việc đứng ngang hàng với người anh hùng huyền thoại. Tất cả đồng hiện, xoắn bện với nhau trong cùng một thực tại và trở thành niềm ám ảnh cả đời nhân vật chính. Anh thấy ở Oedipus một sự đồng cảm, một người bạn có thể hiểu được anh. Trong câu chuyện của anh lúc nào cũng có bóng hình của Oedipus, còn Nàng tóc đỏ hiện ra như một chất xúc tác để hoàn thành nốt tấn bi kịch, hay như ở đây ta có thể gọi là "lời tiên tri". Một lời tiên tri anh tự phán cho mình và càng muốn vượt qua nó, anh ngày càng sa vào nó. Trong nhiều tiểu thuyết của Orhan Pamuk lúc nào cũng tồn tại một tội ác. Nhưng không có tội ác nào rõ ràng và dễ nhận diện, đoán định ngay từ sơ khởi như trong "Nàng tóc đỏ". Một tội ác kinh khủng, nhưng không cưỡng lại. "Nàng tóc đỏ" vì thế tinh gọn và mới mẻ theo nhiều lẽ, một trong số đó chính là việc chúng ta nhận ra trong bóng hình những câu chuyện quen thuộc của ông, có thể được kể lại theo một cách hoàn toàn khác. Câu chuyện Đông - Tây Nhưng "Nàng tóc đỏ" không chỉ có hình bóng Oedipus mà còn có Rostam, để cân bằng sự hiện diện của cả phương Đông và phương Tây trong các tác phẩm của Orhan Pamuk. Rostam là vị anh hùng của thần thoại Ba Tư, nhân vật chính trong thiên sử thi "Shahnameh" của nhà thơ Ferdowsi (940-1020). Rostam có một người con trai mà bản thân ông cũng không biết, Sohrab. Trong một cuộc chiến, Rostam không nhận ra con và đã giết Sohrab. Nếu Oedipus là câu chuyện con giết cha thì Rostam là câu chuyện cha giết con, trong sự "vô minh". Vậy thì, nếu tội ác sinh ra từ cái không biết thì liệu có thể tha thứ, hay chính xác hơn chính vì không biết mới sinh ra tội ác. Bất chấp câu chuyện được kể lại theo một trình tự mạch lạc, "Nàng tóc đỏ" vẫn khiến ta trăn trở bởi sự bất lực của con người chống lại định mệnh. Rostam không phải là phản đề của Oedipus, nó là sự bổ sung toàn vẹn, chi phối tư tưởng của Pamuk trong tiểu thuyết này. Hình ảnh chiếc giếng cũng trở đi trở lại như một ẩn dụ tăm tối của tìm kiếm, khám phá nội tâm của sâu xa và phức tạp của con người. Nó là nơi hai thầy trò đi tìm nguồn nước, là nơi khởi đầu cho tội ác đầu tiên và cũng là nơi phán xử tội ác đầu tiên đồng thời sinh ra tội ác thứ hai. Nó trở thành một thông đạo, gắn kết cả câu chuyện, để chúng nối với nhau trong sự xuyên suốt tưởng chừng bảng lảng mà vững chắc. Cuốn tiểu thuyết này cũng theo cấu trúc xoay vòng và lặp lại. Khi ta tưởng đã đi đến cuối cuốn tiểu thuyết thực chất ta đang trở lại điểm xuất phát từ trang đầu tiên. Độc giả sẽ tự hỏi mình đang đọc câu chuyện do người cha kể hay đọc câu chuyện do người con "tiếm ngôi" cha để kể. Một cuốn tiểu thuyết "quy hồi" các chủ đề mà tác giả đeo đuổi. Khi Đông và Tây đồng hiện trong một không gian, dù cách biệt về địa lý, thời gian, con người thuộc về văn minh phương Đông hay phương Tây vẫn "nhận mặt" nhau ở những tương đồng thuộc về phức cảm sâu thẳm nhất.  Nhà văn duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đoạt giải Nobel Orhan Pamuk là nhà văn duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đoạt giải Nobel Văn học tính đến nay. Có nhận định cho rằng giải Nobel là kết thúc sự nghiệp của một nhà văn, vì sau giải thưởng họ không viết hoặc không thể viết được tác phẩm nào hay như trước. Nhưng với Pamuk, ông đã chứng minh điều ngược lại qua "Nàng tóc đỏ". Đây cũng chỉ là cuốn tiểu thuyết thứ 10 của ông. Ngay từ lúc cầm bút, những tác phẩm và phát ngôn của ông thường gây tranh cãi trong chính tổ quốc của mình. Bản thân ông từng bị những phần tử cực đoan đe dọa tính mạng. Từ lâu, các tác phẩm của Pamuk đã trở nên quen thuộc với độc giả Việt Nam, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết được đánh giá cao của ông: "Tên tôi là Đỏ" Huỳnh Trọng Khang *** Đọc "Nàng tóc đỏ" sẽ có cảm giác như vừa bất thần chui ra khỏi cái giếng sâu, bước vào ánh sáng chói lòa. Một cái kết bất ngờ, đủ sức mê hoặc tất cả. Cuốn tiểu thuyết thứ mười xuất sắc của Pamuk, tập trung các mối quan hệ cha - con, đã khơi sâu đáy ám ảnh, tội lỗi trong mỗi người, để làm bùng lên sự thật về danh tính, nỗi ám ảnh nhân sinh ở nơi mảnh đất giao thoa Đông - Tây. Cha - con và bi kịch mất kết nối thế hệ Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết rất đơn giản: Một thợ đào giếng giỏi, Mahmut, thuê Cem, 16 tuổi, học việc của mình. Họ bắt đầu công việc tìm kiếm nước ở vùng ngoại ô khô cằn của Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Sau giờ làm việc, họ thường nghỉ ngơi và mua những nhu yếu phẩm ở thị trấn Ongoren. Ở đó, Cem gặp nàng tóc đỏ. Nàng trông có vẻ gấp đôi anh tuổi anh nhưng chàng ta không thể nào tránh khỏi sự si mê, và theo đuổi nàng. Về sau, anh phát hiện nàng là diễn viên của gánh hát dân gian. Sau buổi tối xem nàng diễn, anh và nàng tóc đỏ có một đêm ân ái. Đó là bước ngoặt khiến cuộc đời Cem hoàn toàn thay đổi. Tại sao anh sơ ý làm rơi thùng đất xuống người thầy đang đào dưới giếng sâu, rồi để lại thầy một mình, quay trở về thành phố.  Cem đã sống cả cuộc đời sau đó với nỗi ám ảnh giết người. Đó lại là người thầy đáng kính anh đã ngấm ngầm xem là cha.  Anh xem xét những tài liệu xung quanh chuyện Oedipus giết cha và Rostam vô tình giết con mình. Hai bi kịch cổ đại ấy, một ở Hy Lạp, một ở Ba Tư, nhưng đều trở thành bóng ma ám ảnh cả cuộc đời nhân vật chính.  Đến khi mọi việc diễn ra như những câu chuyện thần thoại, tựa một lời tiên tri đã định sẵn về số mệnh của Cem mà anh không thể nào chối bỏ. Tại sao lại không thể cưỡng lại vận mệnh, chính bởi cảm xúc sâu thẳm thật sự của Cem, nỗi dày vò và niềm kính trọng của anh đối với thầy Mahmut. Anh có một người cha, nhưng chưa bao giờ có cảm giác gần gũi với cha. Và Mahmut lại là người duy nhất đem đến cho anh cảm giác kết nối cha – con, nhưng chính anh phá hủy đi cái kết nối ấy, để rồi dần đánh mất đi ngay cả danh tính của mình. Cái giếng - biểu tượng của tội lỗi và ám ảnh Cái giếng xuất hiện nhức nhối trong tiểu thuyết Nàng tóc đỏ của Orhan Pamuk, mang đầy cảm giác tội lỗi và xấu hổ, ẩn nấp trong bóng tối, đầy de dọa và ám ảnh. Heraclitus nói rằng sự thật nằm ở đáy giếng Hành động của Cem được thể hiện đặc quánh ở biểu tượng cái giếng, nó len lỏi khắp cuộc đời anh, và làm “vấy bẩn” toàn bộ cuộc đời sau này, bằng tất cả những ám ảnh mà nó biểu lộ. Với biểu tượng cái giếng, sự mâu thuẫn, mất kết nối thế hệ, mà ở đây cụ thể là kết nối cha - con, ta có thể dễ dàng nhận thấy mối liên hệ giữa Paul Auster và Orhan Pamuk. Ở Nhạc đời may rủi, hay Moon Palace ta có thể nhìn thấy vòng xoắn trong mối quan hệ cha – con mà Paul đã dựng nên, đầy cô độc, và thất lạc. Cuộc đời Cem có cảm giác về mối quan hệ cha con lần đầu tiên bắt đầu từ cái giếng, và cuộc đời Cem, kết thúc ở chính cái giếng mà anh đã bỏ lại người thầy khốn khổ của mình khi ấy. Anh đã có thể chìm sâu giếng đáy giếng, nơi dòng nước lấp lóa, chực chờ đón anh, để anh phải đối diện với tất thảy tội lỗi mình gây ra, cũng là để anh giải thoát tất cả những bóng ma ám ảnh đeo đẳng anh cả đời. Chương cuối cùng của cuốn sách được kể bởi người phụ nữ tóc đỏ, khiến cho mọi thứ buồn tẻ trước đó trở nên bừng sáng. Nó là đoạn văn phi thường, khiến các chủ đề lỏng lẻo, mơ hồ của những câu chuyện trước đó chặt chẽ với nhau, mở ra cho người đọc những quan điểm mới đáng ngạc nhiên về các sự kiện của cuốn tiểu thuyết. Vòng xoắn cuối cùng của cuốn sách khiến ta nhớ đến cách Orhan Pamuk đã dùng trong Tên tôi là đỏ, nó khiến bí mật được khai mở, như ánh sáng lấp tỏa tỏa lên từ đáy giếng, đột ngột và chói mắt. Chương cuối cùng tuyệt vời của cuốn sách đã khiến nhiều nhà phê bình cho rằng: “Một cái kết khiến ta phải lật sách đọc lại từ đầu”. Istanbul - nàng thơ của Orhan Paumuk Istanbul, nhà của ông và nàng thơ của ông, là nhân vật luôn hiện diện trong tiểu thuyết của ông. Orhan Pamuk từng nói "Istanbul là số phận của tôi". Thành phố của ông luôn nằm giữa những ranh giới khắc khoải của Đông và Tây, thế tục và thiêng liêng, truyền thống và hiện đại, đã làm tăng thêm căng thẳng cho mọi câu chuyện ông sáng tác. Câu chuyện trong Nàng tóc đỏ diễn ra trên bối cảnh thành phố Istanbul từ những năm 1980, đang trong một guồng quay thay đổi điên cuồng, với những cao ốc mọc lên như nấm, những con đường dần xóa bỏ mọi không gian…  Cũng giống như trong Tên tôi là đỏ, Orhan Pamuk trăn trở với nghệ thuật vẽ tiểu họa đang dần phai tàn, thì ở Nàng tóc đỏ, truyền tải một ám ảnh khó quên, trữ tình và nghiệt ngã, về nghệ thuật đào giếng ở vùng nông thôn Thổ Nhĩ Kỳ trước khi máy móc xuất hiện và hiện đại. Khoảng cách giữa các thế hệ và hậu quả của sự thay đổi đột ngột đã khiến Cem, và những người khác giống anh dân mất kết nối với gốc rễ của họ. Khi Orhan Pamuk viết về đoạn nàng tóc đỏ nhìn đống đổ nát và nói rằng, không ai từng kể những câu chuyện cũ này cho các sinh viên nghe nữa, nhưng bằng cách nào đó, đôi khi mọi người vẫn biết, sâu thẳm, những điều họ đã quên, Orhan Pamuk muốn nói điều gì với chúng ta? Phải chăng đó là điều ông luôn muốn nói trong cả mười cuốn tiểu thuyết của mình, về nỗi day dứt, nỗi hoài niệm, u sầu của thành phố Istanbul trong ký ức. Mời các bạn đón đọc Nàng Tóc Đỏ của tác giả Orhan Pamuk & Thiên Nga (dịch).