Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bến Không Chồng

Cuốn tiểu thuyết trong bộ ba giải thưởng Hội Nhà văn 1991, Bến không chồng đã đứng được với thời gian nhờ một vẻ đẹp trong khuôn hình cổ điển: mộc mạc và chân phương trong cốt truyện, trong cách dẫn dắt và ngôn từ; như nhận xét của giáo sư Phong Lê - “một ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà giản dị, tự nhiên, và với ưu thế đó, Bến không chồng là tác phẩm khẳng định được ngay vị trí của nó trong lòng độc giả mà không hề gây tranh cãi”. Cốt truyện xung quanh cuộc trở về của Vạn - người lính Điện Biên - ở làng Đông quê hương anh. Người lính dũng cảm trong chiến đấu trở về trong thời bình nhưng không hòa nhập được vào nhịp sống bình thường, vẫn giữ nguyên tác phong trận mạc để chỉ huy cộng đồng làng xã. Anh không dám vượt qua rào cản tâm lý để đến với chị Nhân, nhưng rồi cuộc sống xô đẩy anh cùng hai người phụ nữ trong đời anh đến những lựa chọn quyết liệt. Những người phụ nữ ở làng Đông mỗi người đi tìm hạnh phúc theo cách của mình, nhưng thời cuộc và chiến tranh cùng biết bao sai lầm trong tư duy một thời đã ám ảnh họ mãi ở một “bến Không Chồng” vừa hữu hình vừa dai dẳng trong tiềm thức. Bến không chồng, ở thời điểm mở đầu 90, quả đã góp được một cái nhìn mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến; với gánh nặng không phải chỉ là chiến tranh, về phía khách quan; mà còn là những lầm lạc của con người, trong một bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai “do lịch sử để lại” đã không đủ tầm và sức để vượt qua. Những nhận xét này đã khẳng định được vị trí của cuốn tiểu thuyết, và còn lan tỏa hơn khi đã được dịch ra tiếng Pháp, Ý cũng như được chuyển thể thành phim truyện cùng tên. *** Khi lựa chọn đề tài về chiến tranh, về thân phận người lính hoặc về cuộc sống làng xã Việt Nam sau chiến tranh để viết, nhiều nhà văn kì cựu phải thực sự am hiểu về vấn đề này hoặc có thể họ chính là những người đã trải qua một thời bom đạn cùng với đất nước. Có một nhà văn đã vẽ lên được bức tranh toàn cảnh làng quê Việt Nam trong những năm sau chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ về chuyện đời, chuyện người thông qua cuốn tiểu thuyết dầy 400 trang.  Tiểu thuyết "Bến không chồng" của nhà văn Dương Hướng gồm 25 chương – một tác phẩm xuất sắc viết về đề tài chiến tranh không hề có tiếng súng đã gây tiếng vang trên văn đàn, được dịch ra nhiều ngôn ngữ quốc tế, nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, giải thưởng Nhà nước năm 2016. Và được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên, gần đây nhất là bộ phim truyền hình “Thương nhớ ở ai”. Một tác phẩm rất nổi tiếng, có ý nghĩa vô cùng đặc biệt bởi tác giả chính là người con của quê hương Thụy Liên, tác phẩm ấy cũng được lấy chất liệu từ chính mảnh đất Thụy Liên - vùng lập điền lấn biển, ruộng đồng chua mặn, dân thưa. Thập kỷ 60, xã chỉ có khoảng trên dưới một nghìn nóc nhà, mà chi viện cho tiền tuyến một lực lượng khổng lồ sức người, sức của với trên 1.500 thanh niên trai tráng. Ở quê nhà, gái thay chồng “Tay cày, tay cuốc đảm đang”, tạo ra cánh đồng 5 tấn thóc/ha đầu tiên ở miền Bắc. Nhưng chiến tranh đã để lại cho vùng đất này nhiều đau thương mất mát, 230 trai làng ra đi mãi mãi không về, để lại bao góa phụ, 31 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tiểu thuyết “Bến không chồng” của nhà văn Dương Hướng như một thiên dã sử, được quê hương Thụy Liên tôn vinh dựng bia đá lưu danh chuyện và đời.         Bến không chồng- nhà văn Dương Hướng đã đi sâu khai thác bi kịch của người lính hậu chiến tranh mà nhân vật trung tâm là Nguyễn Vạn, là Nghĩa, là Thành. Những người lính trở về từ chiến trường Điện Biên với chiến tích lẫy lừng. Nơi chiến trường họ oai hùng, khí khái bao nhiêu thì trở về cuộc sống đời thường họ lạc lõng, cô độc bấy nhiêu. Họ dù cố gắng nhưng không thể hòa nhập được với cuộc sống mới. Họ lạc lõng ngay trong chính gia đình, giữa những người thân yêu nhất của mình. Những người lính còn chịu nhiều di chứng khi bước ra từ chiến trường. Chiến tranh đã để lại di chứng trên cơ thể  mà họ nào có biết. Chiến tranh đồng nghĩa với những đau thương mất mát, những cuộc chia li kẻ ở người đi. Trong Bến không chồng của Dương Hướng, những hy sinh mất mát là vô cùng to lớn. Từ bi kịch của những người trực tiếp chiến đấu nơi hòn tên mũi đạn cho đến nỗi khắc khoải chờ mong của những người mẹ, người vợ nơi quê nhà. Trong Bến không chồng còn nhiều cảnh ngộ bất hạnh. Những nỗi niềm, tâm trạng ảo não của  Thủy, Dâu, Thắm, Cúc, cô Thao, mụ Hơn,…hay chính xác hơn đó là những người phụ nữ làng Đông. Chung quy lại, có thể thấy rằng bi kịch của những người phụ nữ trong Bến không chồng là sau chiến tranh không một người phụ nữ nào có chồng! “Bến không chồng” là địa danh có thật nó gắn với nhiều câu chuyện buồn vui của xã Thụy Liên...Bến sông ấy vốn chẳng có tên, cái bến sông có hai cây quéo cổ thụ gắn với bao vui buồn của người dân. Hai cây quéo xòe bóng mát khúc sông. Đến nay, bến sông ấy không còn hai cây quéo cổ thụ nữa. Trong một trận bão, hai cây cổ thụ cùng bị đánh tả tơi, bật gốc. Bến sông không tên nay đã được gọi là “Bến không chồng”, bởi nó được đặt tên trong tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Dương Hướng. Và lâu rồi, những câu chuyện huyền thoại cũng chỉ còn lại trong ký ức của những người dân quê. Nhưng một ký ức mới lại bồi đắp cho người dân quê nơi đây. Bởi nếu ai đó đọc “Bến không chồng” có dịp ngang qua làng quê này mà hỏi cầu Đá Bạc, hỏi về “Bến không chồng” thì ai cũng nhắc đến Dương Hướng. Hỏi đến ông, người làng lại nhắc đến "Bến không chồng". Ông viết truyện mà thật đến nỗi đọc tiểu thuyết, người làng nhận ra từng nhân vật ngoài đời được ông chọn làm nguyên mẫu. Sách là kho tàng tri thức của nhân loại. Cuốn sách "Bến không chồng" giúp người đọc hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn về chuyện đời, chuyện người làng quê Việt Nam trong những năm sau chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ. Hiện nay, sách đã có tại thư viện Trường THCS Thụy Liên. Các thầy cô giáo, các bạn học sinh chúng ta hãy tới thư viện tìm đọc, để hiểu thêm mảnh đất, con người quê mình. *** Nhà văn Dương Hướng tên khai sinh là Dương Văn Hướng, quê ở thôn An Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.  Ông là Đảng viên Đảng CSVN; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Nhà văn Dương Hướng bắt đầu viết văn từ năm 1985, ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Hiện ông đang làm biên tập báo Hạ Long tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. * Giải thưởng và tặng thưởng:           Tặng thưởng truyện ngắn hay tạp chí Đất Quảng với truyện ngắn “Quãng đời còn lại”, năm 1987.           –Giải thưởng Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với truyện ngắn “Đêm trăng”.           –Giải thưởng văn học Hạ Long với tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời”, năm 2012.           –Tặng thưởng truyện ngắn hay Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với tác phẩm “Người mắc bệnh tâm thần”, năm 1989.           –Giải A văn nghệ Hạ Long với tập truyện “Người đàn bà trên bãi tắm”.       –Tặng thưởng truyện ngắn hay Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với tác phẩm “Bến khách”, năm 2007.           –Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 với tiểu thuyết “Bến không chồng”. * Các tác phẩm tiêu biểu:           –Bến không chồng (tiểu thuyết – năm 1990)           –Người đàn bà trên bãi tắm (tập truyện ngắn)           –Dưới chín tầng trời (tiểu thuyết -năm 2007)           –Gót son (tập truyện ngắn – năm 1989)           –Trần gian đời người (tiểu thuyết -năm 1991)           –Tuyển chọn Dương Hướng (năm 1997)   Mời các bạn đón đọc Bến Không Chồng của tác giả Dương Hướng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đảo Bác Sỹ Moreau - Herbert George Wells
HG Wells (1866 – 1946), văn hào Anh, cùng với Jules Verne, là 1 trong 2 nhà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng nhất mọi thời. Các tác phẩm chính của ông bao gồm: Cỗ Máy Thời Gian (The Time Machine – 1895), Đảo Bác Sỹ Moreau (Island of Doctor Moreau – 1896), Người Vô Hình (The Invisible Man – 1897), và Chiến Tranh Liên Hành Tinh (The War of the Worlds – 1898). Wells cũng là 1 sử gia cự phách. Bộ Đại Cương Lịch Sử Thế Giới (The Outline of History – 1919) của ông là 1 tác phẩm mẫu mực về sử học. Đảo Bác Sỹ Moreau là tiểu thuyết thứ 3 trong đời viết văn của H G Wells. Truyện kể về 1 khoa học gia lập dị sống cùng người học trò, đơn độc trên đảo hoang vu, cách biệt với thế giới văn minh. 2 thầy trò từ năm này qua tháng khác chỉ miệt mài nghiên cứu. Ngoài họ ra, cùng trú ngụ trên đảo còn có 1 lũ thổ dân xấu xí, thú không ra thú, người không ra người. Lũ thổ dân từ đâu mà ra, tại sao lại xấu xí dị hình đến vậy? Ngòi bút tài tình của H G Wells sẽ dần dần tháo gỡ các nút thắt bí mật, đưa người đọc đến 1 thế giới kỳ bí, hoang đường… Ra đời đến nay hơn trăm năm, Đảo Bác Sỹ Moreau vẫn không ngừng cuốn hút các thế hệ độc giả. Tác phẩm đã được các hãng điện ảnh lớn ở Hollywood 3 lần dựng thành phim: Lần đầu vào năm 1933, với sự tham gia diễn xuất của Charles Laughton và Béla Lugosi, lần hai vào năm 1977, với Burt Lancaster và Michael York, lần gần nhất năm 1996, với Marlon Brando và Val Kilmer. Bản dịch này được thực hiện dần dần, như 1 thú tiêu khiển trong những lúc có thời gian rỗi. Lời văn có lẽ chưa được chuốt, đây đó ắt hẳn còn nhiều chỗ sai, mong được độc giả thể tất. Nguyên tác của H G Wells không có ghi chú. Các chú thích trong truyện đều của người dịch. Nguyễn Minh South Australia, 2011 *** Ngày 1 tháng 2 năm 1887, chiếc Lady Vain đâm nhằm tàu vô chủ, đắm tại vị trí 1 độ vĩ Nam,107 độ kinh Tây. Trong số hành khách mất tích có chú tôi, một thường dân tên gọi Edward Prendick. Chú tôi lên tàu Lady Vain tại cảng Callao (1). Ngày 5 tháng 1 năm 1888, tức 11 tháng 4 ngày sau đó, tại 5 độ 3 phút vĩ Nam, 101 độ kinh Tây, người ta phát hiện chú Prendick đang trôi dạt trên một chiếc thuyền. Tên thuyền mờ quá, không đọc được, nhưng dường như đó là thuyền con của chiếc tàu buồm bị mất tích mang tên Ipecacuanha. Chú kể lại một câu chuyện thật lạ lùng, lạ đến nỗi ai cũng ngỡ chú đã phát điên. Về sau, chú lại bảo: từ khi tàu Lady Vain bị đắm, chú chẳng nhớ gì nữa. Các nhà tâm lý học khi ấy thảo luận mãi về chú. Họ cho rằng đấy là một trường hợp bị mất trí tạm thời, do sang chấn cả về thể xác và tâm lý mà ra. Tôi là cháu ruột, cũng là người ăn thừa tự chú Prendick. Khi soạn lại giấy tờ của chú, tôi tìm được câu chuyện dưới đây. Xuất bản câu chuyện ấy hay không?Tùy ở quý vị. Khắp quanh khu vực nơi chú tôi được cứu, chỉ có duy nhất một hòn đảo, tức hòn Noble, một đảo núi lửa nhỏ, không dân cư ngụ. Hồi năm 1891, tàu HMS Scorpion đã từng ghé đảo này. Thủy thủ tàu đổ bộ lên đảo, nhưng không tìm thấy một sinh vật sống nào, ngoại trừ mấy con bướm trắng, heo, thỏ, và vài giống chuột lạ. Như vậy, không có bằng chứng xác thực nào cho chi tiết lạ kỳ nhất trong câu chuyện của chú tôi. Vậy nên, tôi thiết nghĩ, xuất bản chuyện ấy ra cũng chẳng hại gì. Chuyện chú Prendick kể có những điều chắc chắc thật. Chú đúng là đã mất tích trong khoảng 5 độ vĩ Nam và 105 độ vĩ Đông, rồi lại tái xuất trong khoảng ấy vào 11 tháng sau. Cũng đúng là có chiếc thuyền buồm mang tên Ipecacuanha, với gã thuyền trưởng say rượu John Davies. Chiếc Ipecacuanha khởi hành từ Phi châu cỡ tháng 1 năm 1887, chở theo trên boong một con báo và mấy con thú nữa. Nó cập vài cảng ở Nam Thái Bình Dương, và mất tích sau khi rời Bayna vào tháng 12 cùng năm. Những số liệu ngày tháng ấy hoàn toàn ăn khớp với chuyện của chú tôi.   CHARLES EDWARD PRENDICK. (Câu chuyện dưới đây do chú tôi, Edward Prendick, thuật) *** H. G. Wells sinh tại số nhà 46 phố High, Bromley, Kent. Ông là con út trong gia đình 4 người con và thường được gọi yêu là "Bertie." Cha ông, Joseph Wells, là một người bán hàng kiêm vận động viên tường cầu; và mẹ ông, Sarah Neal, là người giúp việc. Nhờ chút tài sản thừa kế, gia đình ông mở cửa hàng bán đồ sành sứ và dụng cụ thể thao, nhưng kinh doanh khá ế ẩm. Joseph Wells phải dựa cả vào chơi tường cầu để kiếm thêm tiền nuôi gia đình. Năm 1874, H. G. Wells bị gãy chân phải nằm bẹp giường. Cha ông thường mượn sách ở thư viện về cho con đọc, và H. G. Wells bị hớp hồn bởi các thế giới trong sách vở kể từ đó. Năm 1877, cha Wells bị gãy chân, không thể chơi tường cầu được nữa, và gia cảnh Wells càng thêm khốn khó. Wells phải tìm việc hỗ trợ gia đình, và có giai đoạn ông phải là việc liên tục 13 tiếng không nghỉ mỗi ngày. Năm 1980, Wells được học bổng trường Đại học Khoa học Hoàng gia. Tại đây ông nghiên cứu sinh học và bắt đầu quan tâm đến tình hình xã hội, hình thành ham muốn thay đổi thế giới thành nơi tốt đẹp hơn. Giai đoạn theo học đại học cũng là lúc H. G. Wells bắt đầu sự nghiệp cầm bút. Ông thành lập một tạp chí trường và thường xuyên đăng các bài viết của mình, và trong số đó có cả tiền thân cho một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Wells: Người tàng hình. Wells là một cây bút đa tài. Ông viết rất nhiều thể loại, bao gồm cả truyện viễn tưởng lẫn các tác phẩm phi hư cấu về xã hội, con người. Nhưng người ta nhớ đến Wells nhiều nhất nhờ các tác phẩm Sci Fi, mà như lời của ông là "khoa học lãng mạn." Một số tác phẩm Sci Fi của ông được coi là tác phẩm tiên phong, mở ra các chi mới cho dòng văn Sci Fi, và đến nay vẫn nhiều tác phẩm Sci Fi vay mượn các yếu tố từ những sáng tác của Wells. Về sau, danh tiếng của H. G. Wells trong văn giới có phần bị sứt mẻ vì ông ủng hộ những quan điểm phần lớn người đương thời không chấp nhận được. Nhận định về Wells trong giai đoạn đó, George Orwell đã nói ông "chưa đủ điên rồ để hiểu được thế giới lúc bấy giờ." Wells mất vào ngày 13/08/1946, hưởng thọ 79 tuổi tại London. Trong ấn bản năm 1941 của The War in the Air, Wells viết ông muốn trên bia mộ của mình khắc dòng chữ: "Nói rồi không nghe. Lũ ngốc."   Mời các bạn đón đọc Đảo Bác Sỹ Moreau của tác giả Herbert George Wells.
Yêu Không Hối Tiếc - Hân Như
Vẫn là những con người đó, nhưng thế giới của CHỈ CÓ THỂ LÀ YÊU giờ đây sẽ nhường chỗ lại cho một thế hệ mới hơn, có suy nghĩ mới hơn, nhưng chân lý tình yêu thì chỉ có một.  18 năm sau, những đứa trẻ rồi sẽ khôn lớn… 18 năm sau, một tình yêu mới lại bắt đầu… 18 năm sau… Có những vụng dại khiến người ta phải ân hận.  Có thể bạn không thích sự trần trụi đó. Tôi cũng không thích. Nên tôi sẽ cố gắng thay đổi nó… Dành tặng bạn, nếu bạn từng đồng hành cùng CHỈ CÓ THỂ LÀ YÊU Dành tặng bạn, nếu bạn lần đầu bước vào thế giới của Hân Như. Dành tặng bạn, nếu bạn tiếp tục ủng hộ YÊU KHÔNG HỐI TIẾC *** Tác giả Hân Như tên thật Minh Ngọc Là học sinh chuyên Sinh cứ tưởng sẽ bén rễ sang nghiệp y nhưng Hân Như lại trở thành sinh viên khoa Tiếng Anh của trường Đại học ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Mẹ cô là giáo viên dạy văn - có nhiều sách văn nổi tiếng của Nga nên ngay từ nhỏ Hân Như đã được tiếp xúc với những câu truyện ngắn hay của xứ sở Bạch Dương và có niềm đam mê lớn với viết lách. Năm lớp 12, “Bàn tay” – tác phẩm đầu tiên của Hân Như đã  nằm trong tuyển tập Truyện chọn lọc viết về Nhà giáo Việt Nam “Bản tình ca mùa thu” (Nhà Xuất bản giáo dục). Trưởng thành từ những trang viết dành cho tuổi teen, Hân Như đã có những bước khởi đầu khi còn ngồi trên giảng đường Đại học. Với lối văn viết cảm xúc và không theo khuôn mẫu nên nhiều truyện ngắn của Hân Như để lại ấn tượng tốt với độc giả như: “Chỉ có thể yêu” (2011) , “Giấu Anh vào nỗi nhớ”(2012) , “Yêu không hối tiếc” (2012) , truyện dài “Interpol”… Năm 2011 được xem là năm thành công của cô gái trẻ này khi tiểu thuyết  “Chỉ có thể là yêu” được dựng thành phim với sự dàn dựng của đạo diễn Vũ Minh Trí (Phim chính thức lên sóng vào 6/12/2012). Trưởng thành ngòi bút theo từng giai đoạn, Hân Như luôn cố gắng tạo dựng màu sắc riêng cho những nhân vật trong truyện của mình. Cô luôn cố gắng đổi mới để độc giả không cảm thấy nhàm chán. Nhân vật Hải Long (trong “Chỉ có thể yêu”) là một chàng hiệp sĩ ảnh hưởng của chuyện cổ Pháp “Ba chàng hiệp sĩ ngự lâm”.  Nhân vật Thiên Nguyên – “Giấu anh vào trong nỗi nhớ của em” – một nhân vật nam chính không có gì nổi bật. Mới đây là nhân vật Nguyễn Đại – “The secret” – một giám đốc có nhiều tật xấu, sống ích kỉ… Không truy cầu danh tiếng, chỉ cầu sự bình an Hân Như chia sẻ bản thân cô là một con người cầu toàn, vì vậy trong công việc cô luôn đòi hỏi ở bản thân sự sáng tạo cao. Gia đình là nơi cô chia sẻ thành công của mình đầu tiên, đó là nơi xây dựng cho Hân Như ý chí và tiềm lực để theo nghề viết lách. Mẹ của Hân Như từng nói với cô: “Đã muốn phấn đấu với nghề văn thì không nên bỏ cuộc, không truy cầu danh tiếng chỉ cầu sự bình an”. Đó cũng chính là điều Hân Như mong mỏi và hướng đến. Bản thân cô viết sách là để thỏa mãn đam mê của mình và muốn được chia sẻ, đồng cảm cùng con người. "Truyền thông giết chết những cây bút trẻ, nó chỉ giúp cho bên phát hành sách của họ và chỉ đem lại hiệu quả nhất thời" - Hân Như chia sẻ. Khi còn là sinh viên Đại học Ngoại ngữ, Hân Như từng là Trưởng ban tuyên truyền của CLB sinh viên trẻ. Chính vì vậy, chị rất thích công việc tình nguyện. Vừa qua Hân Như đã cùng các bạn trẻ tham gia chương trình: “Thiện nguyện mùa đông” – Hướng về miền trung ruột thịt. Nhóm thiện nguyện trẻ Hà Tĩnh đã có 200 suất quà trong đó có 10 suất học bổng dành cho học sinh nghèo vượt khó đã được chia sẻ tới những đồng bào vùng lũ lụt tại Hương Khê -  Hà Tĩnh. Tiếp tục sự nghiệp viết văn của mình, Hân Như sẽ cho ra đời tập truyện “The Secret” vào giữa tháng 12 tới. Và sẽ tổ chức một buổi tọa đàm các tác giả trẻ để chia sẻ kinh nghiệm cho những người yêu viết và muốn viết. Buổi tọa đàm sẽ có sự góp mặt của các tác giả trẻ nổi tiếng như: Hân Như, Nguyễn Thủy, Quỳnh Thi, Lê Ngọc Mẫn,… Hân Như luôn muốn cố gắng trưởng thành ngòi bút của mình, hứa hẹn với nhiều truyện ngắn phản ánh, đi sâu vào thế giới của người trẻ ra đời. *** Trở lại Việt Nam Đậu chiếc xe đời mới vào gara ô tô, chàng trai nhanh nhẹn nhảy ra khỏi xe, lại gần người quản gia đang tỉa hoa với một vẻ chăm chú đặc biệt. - Chú Kim, mẹ cháu về chưa ạ?- Anh liếc chừng về phía ngôi biệt thự sang trọng. - Thưa cậu, bà chủ đã về từ lâu rồi ạ. Bà nói cậu về thì lên phòng bà ngay. “Ôi! Ôi! Xong rồi!”- Anh thầm than- “Lần này thì chết chắc với mẹ rồi.” Cửa phòng làm việc của mẹ anh không khép, anh hé mắt nhìn vào, thấy mẹ mình đang đứng khoanh tay nhìn ra ngoài cửa sổ. Vậy là bà đã trông thấy anh về, có muốn trốn cũng không được. Anh lại gần, ôm chầm lấy bà từ phía sau, nói bằng giọng nịnh nọt mà xưa nay anh vẫn làm nũng với bà: - Mẹ yêu, con về rồi đây. - Biết về rồi à?- Mẹ anh khẽ hừ giọng. - Con nhớ mẹ nên về mà. - Lần này lái xe đến tận đâu thế? - Ôi, mẹ thừa biết rồi mà, con có chạy lên trời cũng không thoát khỏi bàn tay của mẹ.- Anh nháy mắt cười và ngồi phịch xuống ghế. Quay lại nhìn con trai, người phụ nữ ấy khẽ lắc đầu thở dài. Đã bước sang tuổi 43, Thảo Nhi vẫn còn mang vẻ đẹp mặn mà như gái một con, dù rằng cô con gái thứ hai của chị vừa bước sang tuổi 16, đẹp như một đóa hoa. Nhiều năm nay, là phu nhân chủ tịch tập đoàn Silver Wings nhưng chị vẫn giữ được những nét giản dị, mộc mạc như hồi 20 năm về trước, khi chị còn là một cô sinh viên tỉnh lẻ về thành phố học, rồi vô tình gặp gỡ được con trai của tập đoàn Lotus Vũ Nam Phong. Sau khi đoàn tụ, chị sinh tiếp bé Trác Vân, rồi cả gia đình sang Hà Lan sinh sống để thuận tiện cho việc phát triển sự nghiệp của chồng chị. Hai đứa trẻ cũng lớn lên trên quê hương hoa Tuylip này cho đến tận bây giờ. Khánh Nam đã tròn 20 tuổi, giống ba mình như đúc, cũng cao lớn, cũng đẹp trai, thông minh và mê đua xe, nhưng thằng con trai này của chị còn mắc thêm tật phong lưu mà chị không sao sửa được cho nó. Ném cho đứa con một cái nhìn không hài lòng, chị rút từ trong ngăn kéo ra một đống hóa đơn và phiếu phạt, vất lên bàn, nghiêm giọng: - Con nghĩ sao nếu ba con trông thấy đống giấy tờ này? Đua xe trái phép để cảnh sát phải gửi vé phạt về nhà, rồi vào quậy ở quán bar... Còn có việc gì là con không dám làm không? Khánh Nam định mở miệng cãi lại nhưng nhìn thấy đôi mắt giận dữ của mẹ, anh chỉ há miệng ngáp ngáp mấy cái như thiếu hơi rồi lại im re. Mẹ anh thường ngày rất hiền, nhưng mỗi khi bà nổi nóng lên thì nghĩa là bà đang giận thật sự. - Còn nữa... Đưa con gái vào khách sạn ngủ. Con không nghĩ được việc gì hay ho hơn để làm à? - Mẹ... Ở đây mấy thằng bạn con đứa nào chả thế. Con vào khách sạn là lịch sự lắm rồi đấy. - Con còn dám cãi à?- Chị trừng mắt- Mẹ quyết định phải tách con với đám bạn hư đốn đó ra. - Ôi dào... Đằng nào thì con cũng vui vẻ với chúng được mấy ngày nữa đâu. Sang tháng là con cũng sang Harvard nhập học rồi còn gì. Mẹ yêu cứ lo lắng hão cho già người.- Anh khẽ đung đưa người trên chiếc ghế xoay êm ái. - Con hãy quên giấc mơ Harvard đi. - Cái...gì?- Khánh Nam suýt té ngã xuống đất khi nghe mẹ mình nói câu đó- Mẹ nói sao cơ ạ? - Mẹ và ba đã quyết định sẽ không cho con đi học ở Harvard. - Mẹ...mẹ điên à?- Anh hét lên- Ơ...con xin lỗi... con không có ý đó... Nhưng thật bất công. Mẹ biết là Harvard không phải là nơi ai muốn đến cũng được cơ mà. - Mẹ biết.- Chị bình tĩnh đáp lại con trai. - Thế tại sao ba mẹ lại có quyết định kì cục như thế? - Đó không phải là nơi ai muốn đến cũng được, mẹ biết điều đó. Nhưng đó cũng không phải là nơi tốt nhất cho con. - Vậy theo mẹ thì còn nơi nào là nơi tốt nhất cho con?- Anh bất mãn hỏi lại. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Có Thể Là Yêu 2: Yêu Không Hối Tiếc của tác giả Hân Như
Trúng Số Độc Đắc - Vũ Trọng Phụng
Trúng số độc đắc là một biến cố, thường đem đến cho con người những thay đổi thật lạ lùng. Cái ngày trúng số như chia cuộc đời con người gặp may ra hai phần, mà bao nhiêu thứ đều trái ngược nhau đến mức bi đát. Trúng số độc đắc đã vẽ lại con đường rất biện chứng, biến một anh ký viết ra một tay cự phú, với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh anh ta.  Thất nghiệp, Nguyễn Văn Phúc bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra, nói vào, chửa Phúc là ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn. Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng buôn thì lão chủ Tây ném đơn xuống đất...  Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số mọi thứ đều thay đổi. Gia đình thì thấy anh Phúc biến ra đại quý, còn người đời thì cung kính vô cùng. Cái số độc đắc không chỉ sinh ra hài kịch gia đình mà còn làm nổ ra những bi kịch ghê gớm. Nhân tình thế thái, thì ra cái số độc đắc là giọt rượu quý để ma lực làm cho nó đỏ hay xanh trước mắt người đời.  Viết Trúng số độc đắc, Vũ Trọng Phụng đã tập trung tất cả bút lực để theo dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và trong lòng của chỉ một nhân vật. Ông có cái nhìn rất sáng suốt, tính nhậy cảm thật tinh tế, không những trông thấy những tình cảm được biểu lộ mà cả những ý muốn sơ phát còn tiềm tàng, những ký ức bị quên đi bỗng hiện về, những cảm giác từ lâu sống dậy.  Với cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng lên án thế gian và người đời nghiêm khác, thế nhưng giọng kể chuyện, tả cảnh, tả tình cứ hồn nhiên, vui vẻ và có dịp là không quên hài hước.  Đây là tác phẩm cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh này thực sự là một tuyệt tác về nhiều phương diện. *** Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Đặc biệt ông nổi tiếng với những bài phóng sự và được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Những tác phẩm của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám chịu nhiều chìm nổi. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên, nhưng được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo, lại mồ côi cha mẹ từ lúc mới 7 tháng tuổi, mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi đỗ bằng tiểu học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi và thất nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị đuổi.Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp. Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – một xã hội bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người ta không khỏi ngậm ngùi, chua chát. ***  Trừ những ngày mưa không kể, sáng nào cũng vậy, cứ đúng chín giờ là anh Phúc đã ngồi trên một cái ghế xi măng trước nhà Kèn, trong vườn hoa Paul Beri[1]. Đã tám tháng nay nhàn cư như vậy cho nên từ người phu lục lộ quét vườn hoa cho đến mấy đứa sống cầu bơ cầu bất bằng đủ các nghề như trèo me, trèo sấu, câu cá, bắt tổ chim, có khi ăn cắp, giật khăn nữa: nói tóm lại là bọn ma cà bông vẫn lấy nhà Kèn làm khách sạn, đối với anh Phúc, đều đã trở nên ít nhiều thân thuộc. Hễ anh cứ ngồi vừa nóng ghế được năm phút, thì người phu gát đến chỗ chân anh. Mà lần nào cũng vậy, hễ anh co chân lên để tránh những hòn sỏi nhỏ do cái chổi tre hắt bắn lung tung, thì người phu cũng thản nhiên khẽ chào anh: “Cậu chơi!” để cho Phúc vui vẻ đáp: “Không dám! Ấy kìa bác…”. Độ nửa giờ sau, người phu ấy lại quay lại với Phúc, giơ cái điếu thuốc lào quấn bằng lá chuối mà bác ta vẫn gài mang tai khiến Phúc phải gập sách lại, ngừng đọc. Anh ta bèn lôi ngay ở túi áo ra bao diêm và gói thuốc lào. Bao giờ Phúc cũng để người phu hút trước, mình sau. Bao giờ người phu cũng để cho Phúc cái hân hạnh mời mình cả diêm lẫn thuốc, và sự ấy, Phúc coi là một thứ thuế đánh chỗ ngồi của chàng, không phải đóng thẳng cho Nhà nước nhưng đóng cho một người thay mặt Nhà nước vậy. Sau cuộc thù tạc nhỏ mọn ấy, Phúc lại đọc sách, người phu lại vác chổi ra đi. Còn bọn ma cà bông, giao thiệp với anh ta thì khác. Chúng gọi anh là “cậu áo trắng dài” chỉ vì cái lẽ rất dễ hiểu là xưa nay chúng không thấy Phúc vận gì khác ngoài cái áo trắng dài. Thoạt đầu, chúng cũng ngạc nhiên không hiểu sao trong đời lại có người vô công rỗi nghề đến bậc ngày nào cũng ra ngồi vườn hoa như thế, nhưng khi thấy Phúc bao giờ cũng đọc sách, chúng bèn đoán hẳn đó là một người học trò sửa soạn đi thi. Đối với bọn ấy, Phúc rất dè dặt. Có đứa đã đến ngồi cạnh chân anh ta, và sau khi hỏi chuyện mà không được đáp lời đằm thắm, đã ngồi ra nghịch những hòn cuộn dưới chân anh hàng nửa giờ mà chưa đi cho. Lại có đứa đã từng có lần moi trong một cái tay nải ra những quả me xanh hoặc sấu chín nó có thể làm cho Phúc nhớ lại cái thời học trò thơ ấu nữa, nhưng Phúc đã trả tiền, sợ ăn không thì thành ra thân mật quá, và thân mật với cái hạng hay văng tục ghê gớm, hay chửi ỏm tỏi, là rất nguy hiểm. Những khi bị bọn quỉ sứ ấy hỏi chuyện, Phúc chỉ đáp thế nào cho phải phép, cho khỏi là đáng ghét mà thôi. Tuy vậy, anh ta cũng đã nhớ tên và hiểu rõ cả tâm tính từng đứa một: thằng Bí Sến Vườn hay đánh chửi nhưng thẳng và tốt, thằng Tẹo mắt híp miệng nói leo lẻo nhưng mà gian, thằng Bôn Tây Lai có cả những tánh xấu của hai thằng kia, nghĩa là vừa hay bắt nạt vừa ăn gian, thằng Sáu Vẩu mềm nắn rắn buông, khôn ngoan đủ khoé, vân, vân… ... Mời các bạn đón đọc Trúng Số Độc Đắc của tác giả Vũ Trọng Phụng
Tình Yêu và Ước Vọng - Archibald Joseph Cronin
Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin là câu chuyện xúc động của hai y tá-Anne và Lucy, những người đã cống hiến tất cả bản thân để phục vụ người khác. Khi sự bất cẩn của cô em Lucy gây ra cái chết thảm khốc của một bệnh nhân trẻ tuổi, Anne đã nhận trách nhiệm bảo vệ cô em gái - một hành động đe dọa hủy hoại sự nghiệp chăm sóc điều dưỡng đang rực rỡ của cô. Và rồi Anne gặp một bác sĩ phẫu thuật trẻ lý tưởng, người quan tâm đến cô; Và mặc dù một trong những truyền thống lâu đời và nổi tiếng nhất của ngành y tế là mối quan hệ giữa bác sĩ và y tá vẫn không có tính cá nhân, bác sĩ và y tá là tất cả những con người-và đôi khi truyền thống bị phá vỡ. *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. *** TRỜI MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH, ĐÃ SÁU GIỜ sáng mà còn tối như nửa đêm. Khu truyền nhiễm bệnh viện Shereford im ắng, sự yên tĩnh đặc biệt của phòng bệnh. Một hơi thở yếu ớt, khò khè vang lên từ chiếc giường trẻ con, khuất sau tấm bình phong. Ngồi yên ở đầu giường của đứa bé, y tá Lee không rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ, tiều tụy. Cô đã thức canh suốt đêm và dù rất mệt nhọc, cô vẫn kiên nhẫn trông coi người bệnh nhỏ bé. Phiếu định bệnh treo ở thanh ngang trên giường ghi: "Bệnh bạch hầu" nét chữ sắc sảo. Đó là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, một ca bệnh nghiêm trọng. Đứa bé được mang tới tối qua sau một cuộc giải phẫu yết hầu thực hiện khẩn cấp. Lee đã phụ giúp bác sĩ Hassal trong suốt ca mổ, cứu sống đứa bé. Bây giờ một ống bạc nho nhỏ lấp lánh giữa lớp vải băng đã giúp đứa bé thở được. Hai ngàn đơn vị huyết thanh chống bạch hầu được bơm vào máu để chống chọi với vi trùng. Bệnh nhân nhỏ bé đã khá hơn, đang ngoi lên từ vực sâu cõi chết. Với cử chỉ nhẹ nhàng và chuẩn xác, Lee rút ống bạc khỏi cái bao nhét trong cổ họng bệnh nhân, lau chùi sạch sẽ. Vài giây sau cô nhét lại vào chỗ cũ, đứa bé thở dễ dàng hơn. Lee vặn nhỏ ngọn lửa của bếp dầu đặt sau tấm rèm, tia hơi nước thoát ra từ vòi của ấm nước bắt đầu sôi. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chuẩn bị chích cho đứa bé. Qua mấy động tác bình tĩnh và chính xác của cô, bệnh nhân đã nhận đủ số lượng mã tiền (Strychnine) chích vào đùi. Kim đâm vào, đứa bé chỉ phản ứng bằng cái rùng mình nhẹ, khó nhận biết. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin.