Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cô Gái Mất Tích

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết giật gân Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch). “Những cô gái mất tích” là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nữ nhà văn Megan Miranda. Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ, điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ. Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Vào đêm Corinne mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise Carter- hàng xóm của Nic cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm. Chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà, Annaleise đột ngột mất tích. Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, “Những cô gái mất tích” sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?” Một số nhận định về cuốn sách “Những cô gái mất tích”:  “Cuốn tiểu thuyết kinh dị này tập hợp đủ mọi yếu tố mà các mọt sách tìm kiếm!” – TheSkimm  “Bạn có đang chú ý không đấy? Bạn sẽ tập trung ngay thôi bởi cuốn sách này sẽ làm bạn xoắn não với cấu trúc thời gian đảo ngược, và bạn sẽ không thể ngừng đọc cho tới trang cuối cùng.” – Elle  “Với nhịp độ nhanh và đầy nguy hiểm, Những cô gái mất tích sẽ khiến bạn hiểu vì sao đi vào rừng một mình vào buổi tối là chuyện quá liều lĩnh.” – Refinery29. *** [Review Sách] “Những Cô Gái Mất Tích”: Đóa Hồng Gai… Sắc Lạnh “Sự thật giống như hoa hồng, đều có gai, nhưng bạn sẽ không thoát khỏi ám ảnh khi chưa tìm ra nó.” - đây đích xác sẽ là cái cảm giác mà bạn chắc chắn sẽ phải trải qua xuyên suốt 500 trang sách của cuốn Những cô gái mất tích (nguyên gốc tiếng Anh: All the missing girls) của tác giả Megan Miranda. Và nếu bạn đang tìm kiếm một màu sắc mới mẻ ở thể loại trinh thám vốn dĩ đã tồn tại nhiều điều bất ngờ này thì chắc chắn Những cô gái mất tích sẽ là một sự lựa chọn không tồi dành cho bạn. Được viết bởi nữ nhà văn Megan Miranda, Những cô gái mất tích không đơn thuần chỉ là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng. Cuốn sách là sự pha trộn của các yếu tố tâm lý đan xen với những phút dồn dập vốn có của thể loại hành động, những khoảng lặng sắc lạnh của thể loại kinh dị hay cũng không thiếu những phút giây sâu lắng của tình cảm trên nền u ám và bí hiểm của thể loại trinh thám. Toàn bộ cuốn sách có thể được xem như một thước phim tua ngược đưa độc giả quay trở về quá khứ, nơi giao thoa của những bí mật, dối trá và sự thật đầy ám ảnh dẫn tới kết cục chết chóc. Đôi nét về tác giả Megan Miranda được xếp vào hàng “tác giả bán chạy nhất của The New York Times”. Cô lớn lên ở New Jersey, học ở Học viện Công nghệ Massachusetts, tốt nghiệp MIT và hiện sống ở Bắc Carolina cùng với chồng và hai con. Megan là nhà khoa học và giáo viên trung học cơ sở trước khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Fracture (tạm dịch Rạn nứt). Cuốn tiểu thuyết được viết dựa trên sự say mê những bí ẩn khoa học của cô, đặc biệt là những thứ liên quan đến não bộ. Cô dành nhiều thời gian cho việc trả lời cho câu hỏi “tại sao?” và “làm như thế nào?” với mọi thứ và điều đó giúp Megan được bay bổng trong những giả thuyết “nếu - thì” của mình. Những tác phẩm làm nên tên tuổi của nữ tiểu thuyết gia gồm một số cuốn sách dành cho lứa tuổi mới trưởng thành: Fracture (tạm dịch Rạn nứt), Vengeance (tạm dịch Báo thù) và Hysteria (tạm dịch Ảo Ảnh), Soulprint (tạm dịch Dấu ấn tâm hồn) và The Safest Lies (tạm dịch Lời nói dối an toàn). Những cô gái mất tích (All the missing girls) là cuốn tiểu thuyết dành cho người lớn đầu tiên của Megan. Ngay sau khi phát hành, tác phẩm nhanh chóng nhận được cơn mưa lời khen và đánh giá cao từ giới chuyên môn.  Đóa hồng gai huyền bí - một câu chuyện với những bí ẩn đầy sức hút Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Và cho tới khi bạn tìm ra sự thật, Những cô gái mất tích vẫn sẽ khiến bạn chìm đắm trong nỗi ám ảnh khi chưa tìm ra chúng, như một đóa hồng gai sắc lạnh nhưng vẫn khiến ta tò mò mà chạm vào gai nhọn, và thậm chí, không ngần ngại mà bẻ gãy nó. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ mà điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ.  Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell – tên thường gọi là Nic, rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô – Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Tất cả chỉ được đẩy lên đỉnh điểm khi Annaleise Carter – hàng xóm của Nic cũng đột nhiên mất tích chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà. Vào đêm Annaleise mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm.  Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, Những cô gái mất tích sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?”   … khiến con người ta lạc lối trong mê cung của thời gian “Con người… không thể học cách quên đi mà luôn muốn níu kéo quá khứ: dù anh ta có chạy xa và nhanh như thế nào, xiềng xích đó vẫn đuổi theo anh ta.” _ Friedrich Nietzsche. Đây là câu nói được tác giả Megan Miranda lựa chọn làm lời đề từ mở đầu cuốn tiểu thuyết của mình. Nhân vật nữ chính của chúng ta cũng bị quá khứ quấn chân. Sau khi người bạn thân nhất của Nicolette Farrell – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào, cô rời khỏi vùng nông thôn quê hương đến một nơi thật xa. Điều thực sự thu hút cô quay về là lời nhắn từ bố với nội dung: “Bố cần nói chuyện với con. Cô gái đó. Bố đã nhìn thấy cô gái đó.” Cô gái đó ám chỉ người bạn thân nhất đã mất tích mà không để lại chút manh mối nào của Nic - điều khiến cô rời khỏi quê hương đến một nơi thật xa. Tôi mở bức thư ra - một trang báo bị xé nham nhở, nét chữ của ông kéo dài qua cả đường kẻ, hơi nghiêng về phía bên trái, cứ như thể ông đang cố rượt đuổi để ghi lại các suy nghĩ của mình trước khi chúng vuột khỏi tầm nắm. … Tờ giấy bị xé, nét chữ nghiêng ngả, tên tôi trên phong bì. Và giờ một thứ gì đó sắc nhọn và hoang dã đã bị thả ra trong đầu tôi. Tên của cô gái đó, xuất hiện xung quanh như một tiếng vọng. Sắc lạnh nhưng không thiếu đi vị ngọt của tình yêu, Megan Miranda đã kể Những cô gái mất tích theo chiều ngược về quá khứ, cuốn độc giả lần theo từng manh mối của vụ án. Vẫn là những con đường quanh co, tăm tối dẫn tới kết cục chết chóc, song nó đã được biến hóa thành một mê cung phức tạp, khó lường và điểm tận cùng của sự thật sẽ làm bạn thực sự sửng sốt.  Lật giở từng trang sách, bạn đọc sẽ như đang lạc vào mê cung nơi những manh mối và đích đến vẫn còn là bí ẩn, nơi mà cả không gian và thời gian chỉ dường như là một thứ gì đó đầy mơ hồ và mờ ảo. Như vẻ ngoài vốn dĩ chỉ như một lớp vỏ bọc, càng đi sâu, cách dẫn dắt của Megan càng khiến cho bầu không khí trở nên căng thẳng và hồi hộp.  Thời gian không cạn kiệt. Nó thậm chí còn không có thật nữa kia. … Nó chỉ là một biện pháp đo lường khoảng cách mà chúng ta tạo nên để hiểu rõ về mọi vật. Giống như một inch. Hoặc một dặm. … Chiếc đồng hồ kia. Nó không đo thời gian. Nó tạo ra thời gian. Khi những cô gái… mất tích Corinne, mãi mãi tuổi 18 trong ký ức của thị trấn Cooley Ridge, một cô gái tính cách có phần “điên dại” mà có lẽ bị ảnh hưởng một phần bởi sự bạo lực trong gia đình mà cô sinh trưởng. Việc mất tích của cô sớm bị chìm vào quên lãng và “đóng băng” suốt 10 năm mà không một ai mảy may quan tâm và suy nghĩ, tất cả những gì còn sót lại là những lời đồn, một câu chuyện mà người ta cho rằng sự việc là thế, tất cả manh mối chỉ gói gọn trong chiếc hộp, mà có lẽ, đã phủ bụi nhiều năm ở một góc nào đó trong sở cảnh sát.  Và vào tối muộn sau đó, khoảng thời gian không rõ giữa lúc hội chợ đóng cửa và 6 giờ sáng, Corinne đã BIẾN MẤT. Những tuần tiếp sau đó, khả năng cái chết đã xảy ra trở nên rõ ràng. Nó hiển hiện mọi nơi xung quanh chúng ta, không mang hình hài nhưng lại khiến chúng tôi nghẹt thở, hiện hữu ở mọi biến thể tình huống khác nhau của sự kiện đã xảy ra. Kết quả của cô ấy luôn là cái chết, bằng một ngàn cách khác nhau. Có lẽ cô ấy đã rời đi bởi người cha bạo hành cô. Cũng có thể đó là lý do vì sao mẹ cô đã ly dị ông ta và rời khỏi thị trấn một năm sau đó. Hoặc có lẽ người bạn trai của cô, Jackson, bởi vì thường là do người bạn trai, và họ đã cãi nhau. Hay người đàn ông mà cô đã tán tỉnh ở hội chợ, người mà không ai trong chúng tôi không quen biết - người đứng ở quầy bán bánh mì kẹp xúc xích. Người mà Bailey đã thề cứ theo dõi chúng tôi. Hoặc cũng có thể cô ấy đã chìa ngón tay cái ra để xin đi nhờ về nhà, trong chiếc váy quá ngắn và chiếc áo dài tay, mỏng manh của cô, và có lẽ một người lạ mặt đi ngang qua thị trấn đã thấy cô, lạm dụng và bỏ lại cô. Có thể cô ấy chỉ đơn giản là rời đi. Đó là điều mà cảnh sát đã quyết định cuối cùng. Cô mười tám tuổi - là một người lớn, theo luật - và cô đã chịu đựng quá đủ với nơi này... Corinne không hoàn toàn hiện hữu trong cuốn sách, bởi lẽ cô là người bị mất tích cơ mà, nhưng hình ảnh của cô gái này dần dần hiện rõ qua từng lời kể, từng hồi ức và từng bí mật dần được lộ diện. Đọc Những cô gái mất tích, có lẽ bạn sẽ phải bối rối khi không biết nên nhìn Corinne là một con người như thế nào, bởi cô gái này đáng thương có, nhưng đáng trách cũng có. Tính cách của cô có thể xem như một bảng màu loang lổ với đầy sự hỗn loạn của các nét tính cách khác nhau.  Thế nhưng khi tiếp tục có một cô gái khác mất tích thì chuyện này không còn đơn giản như vậy nữa. Và tương tự, có một điều trùng hợp đến ngẫu nhiên rằng ngay khi Nic quay trở lại quê hương sau cả một thập kỷ, lại có thêm một cô gái nữa mất tích, bỗng dưng “hóa thinh không” như một màn deja vu lặp lại sau 10 năm dài đằng đẵng. Annaleise, người con gái thứ 2 bị mất tích, nhà của cô là hàng xóm gần nhất xét về mặt khoảng cách địa lý đối với ngôi nhà của Nic, một cô gái mà mà mới ngày hôm trước vẫn còn loáng thoáng xuất hiện trong tiềm thức của Nic bên khung cửa sổ thì ngày hôm sau đã biến mất một cách kỳ bí. Như khu rừng vốn dĩ âm u và huyền ảo, ở cô gái này hội tụ những điều luôn luôn bí ẩn. Trong mắt người khác, cô là một kẻ lập dị bị bạn bè khinh ghét, hành động kỳ cục và lủi thủi chìm đắm trong thế giới riêng của bản thân, thế giới của nghệ thuật với nhiếp ảnh và hội họa. Phòng của cô có vô vàn những bức tranh về các cô gái, trong đó có Corinne, mà ở họ đều mang vẻ gì đó buồn bã. Cho đến cuối cùng thì điều thực sự ẩn giấu sau những bức tranh ấy, có thể, vẫn còn là ẩn số.  Những đôi mắt mở to, những đôi mắt nhắm chặt, bằng một cách nào đó, tất cả đều cô độc.   … và những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật Ở phần đầu câu chuyện, độc giả có thể trở nên mơ hồ khi các mảnh ghép lần lượt chồng chéo lên nhau và những manh mối thậm chí còn chẳng đủ để kết luận điều gì. Nhưng có lẽ điều khiến các bạn bất ngờ hơn cả đó là quá khứ thậm chí còn không bí ẩn bằng những gì hiện hữu và vốn có, và những người bí ẩn hơn cả lại chính là người đóng vai “thám tử” trong câu chuyện này, những con người không biến mất mà vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều, mỗi người đều có những bí mật bị che giấu. Bởi lẽ, như sợi dây nối mạch truyện lại với nhau, giữa những con người này cũng có những điều bí mật mà một khi đã được phơi bày, tất cả sẽ lần lượt kéo nhau phơi bày ra ánh sáng.  Càng lật giở những trang sách về sau, bầu không khí càng trở nên dồn dập và bí bách. Cái hay ở đây là khi Megan Miranda có thể khiến cho độc giả vừa trải qua cảm giác hồi hộp và sợ hãi, nhưng cũng có thể khiến người ta phát sinh cái cảm giác khó chịu do mất kiên nhẫn khi sự thật mãi vẫn chưa được tiết lộ, để rồi cuối cùng, nếu muốn giải quyết được hết tất cả mớ tơ vò ấy, chúng ta bắt buộc phải đọc cho đến những trang sách cuối cùng.  Những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật, bí mật dường như nằm gói gọn tất thảy trong chiếc hộp nơi sở cảnh sát. Nhưng không, tất cả mới chỉ là vẻ bề ngoài. Thứ thực sự bí ẩn là thị trấn Cooley Ridge, nơi những con người và khu rừng bản địa cũng mang trong mình những bí mật tiềm tàng. Một câu chuyện với nhiều góc nhìn khác nhau và ai cũng có mặt tối của riêng mình. Nhưng thực sự thì cô ấy không biến mất ở đó. Còn nhiều điều khác nữa. Một mẩu thông tin mà chúng tôi đã giấu đi. Đối với Daniel, cô ấy đã biến mất bên ngoài hội chợ, đằng sau quầy bán vé. Đối với Jackson, là từ bãi đỗ xe. Còn đối với tôi, cô ấy dần tan biến sau khúc quanh của con đường trở về Cooley Ridge. Chúng tôi là một thị trấn đầy sợ hãi, tìm kiếm câu trả lời. Nhưng chúng tôi cũng là một thị trấn đầy sự giả dối.    Liệu bạn có dám “theo chiều ngược” để tìm ra ánh sáng? Hẳn là không phải ngẫu nhiên khi Những cô gái mất tích lại nhận được những đánh giá tích cực và khen ngợi từ công chúng, và lối kể chuyện “ngược” của Megan Miranda chính là minh chứng cho điều đó. Với các cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại trinh thám, thông thường sẽ có một “ai đó” đóng vai trò thám tử đi đào sâu và bóc tách vấn đề để từ đó bằng chứng ngày một nhiều lên, nhân chứng ngày càng lộ diện thì Những cô gái mất tích lại không như thế. Với cuốn sách này, sự thật vẫn ở đó, vẫn luôn tồn tại trước mắt, và khi thời gian qua đi thì có nghĩa là để đào sâu chân tướng, chúng ta phải lật ngược quá khứ.  Cách kể chuyện của tác giả có thể coi là khá “lạ” và cũng là một phương thức tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Ban đầu, độc giả có thể cảm thấy bố cục lỏng lẻo và sự thiếu liên kết giữa các chương, ứng với các ngày trong chuỗi từ ngày 15 trở về ngày 1. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được. Tuy nhiên, khi chúng ta đã quen với dòng thời gian này thì rất dễ dàng để nhận ra sức hút từ câu chuyện. Bởi lẽ chương sau sẽ là “ngày hôm qua”, cho nên cuối chương sau sẽ liên kết với chương trước để hình thành nên sợi dây với các mắt nối để giữ mạch truyện được trở nên thống nhất. Một cuốn sách tưởng đứt đoạn mà lại liền mạch không tưởng, một câu chuyện tưởng rời rạc với các chi tiết và hành động tưởng như chẳng liên quan, hóa ra lại can hệ đến nhau một cách “cố ý”.  Câu hỏi đặt ra là: sẽ ra sao nếu chúng ta đọc ngược lại câu chuyện để mọi thứ trở nên minh bạch và rõ ràng hơn? Dĩ nhiên, chẳng sao cả, vì bạn mới chính là người đọc cuốn sách này. Nhưng hẳn là Megan Miranda có dụng ý khi viết ra một câu chuyện như thế, nên lời khuyên cho bạn là vẫn nên “xuôi chiều ngược” để cảm nhận được cái lạ của Những cô gái bị mất tích.  “Triết học đã nói một điều khá đúng, rằng cuộc sống cần phải được thấu hiểu theo chiều ngược lại.” _ Soren Kiergaard.    Thay lời kết Dịu ngọt mà cũng không kém phần sắc lạnh, Những cô gái mất tích được bao trùm lên bởi một màu sắc u ám và tang thương, như những gì độc giả có thể thấy ngay từ phần bìa sách vậy. Hỗn độn nhưng lại liền mạch một cách ngẫu nhiên, cuốn sách như một bảng màu loang lổ mà sau cùng dần dần được pha trộn và sắp xếp lại các khối màu. Vẫn là cái nền huyền bí với các khối màu lạnh phác họa nên các đường nét huyền bí nhưng cái bầu không khí trong Những cô gái mất tích, bằng một cách nào đó, có thể khiến độc giả bị ám ảnh. Bạn sẽ được đắm chìm trong thế giới mờ ảo xen lẫn những điều bí ẩn do Megan Miranda tạo ra, và khi ấy, chính bạn sẽ là người giải mã mê cung.  Nếu bạn đang kiếm tìm một sắc màu mới trong những gam màu u buồn vốn có của dòng trinh thám hay kinh dị, ắt hẳn Những cô gái mất tích sẽ là một cuốn sách đáng thử. Một cuốn sách đi theo chiều ngược, ngược về phía bóng tối và sợ hãi, thách thức đặt ra cho bạn là, liệu bạn có dám quay đầu lại và xuôi theo chiều ngược ấy?   Tác giả: Annie - Bookademy *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết “Những cô gái mất tích” của Megan Miranda xoay quanh hai vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ trong một thị trấn nhỏ. Vụ việc đầu tiên xảy ra cách đây 10 năm, nạn nhân là Corinne, người bạn thân nhất của Nicolette Farrell. Vụ việc thứ hai xảy ra ngay sau khi Nic trở về quê hương để chăm sóc người cha ốm yếu, nạn nhân là Annaleise Carter, hàng xóm của Nic. Nic quyết tâm làm sáng tỏ cả hai vụ án, và từ đây, những sự thật kinh hoàng về những người cô yêu thương dần được tiết lộ. Review “Những cô gái mất tích” là một cuốn tiểu thuyết trinh thám giật gân với lối kể chuyện độc đáo. Tác giả Megan Miranda đã sử dụng cấu trúc thời gian đảo ngược, bắt đầu từ ngày 15 của tuần cuối cùng trong cuộc đời của Annaleise và ngược trở về ngày 1, thời điểm cô gái này biến mất. Cách kể chuyện này khiến người đọc bị cuốn hút và tò mò muốn tìm hiểu những gì đã xảy ra. Cuốn sách cũng được đánh giá cao về cách xây dựng nhân vật. Nic là một nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường. Cô sẵn sàng làm mọi thứ để tìm ra sự thật, ngay cả khi điều đó có nghĩa là cô phải đối mặt với những bí mật đen tối về những người thân yêu của mình. “Những cô gái mất tích” là một cuốn sách hấp dẫn và đáng đọc. Cuốn sách sẽ khiến bạn phải suy nghĩ lại về những người bạn bè và gia đình của mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Lối kể chuyện độc đáo, đảo ngược thời gian Nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường Cốt truyện hấp dẫn, đầy bất ngờ Khiến người đọc phải suy ngẫm về những mối quan hệ thân thiết Mời các bạn mượn đọc sách Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Các Hung Thần Lên Cơn Khát
Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Các hung thần lên cơn khát là một thiên hùng ca bi tráng về thời kỳ Công xã Paris. Nhân vật chính của câu chuyện là Évariste Gamelin, một họa sĩ trẻ tràn trề sức sống và lý tưởng, một người con hiếu thảo sống cùng mẹ già nghèo khó, một người bạn vô hại dễ thương, một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Cách mạng được bổ nhiệm làm hội thẩm của Tòa án Cách mạng Pháp. Tư tưởng cực đoan và sự sùng bái cá nhân của Gamelin đối với các nhà lãnh đạo công xã Robespierre, Marat,... và cơn ghen cuồng điên trong mối tình si chớm nở đã từng bước đưa anh từ một nghệ sĩ mộng mơ thành một tên giết người hàng loạt. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, và nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Điều gì sẽ đến khi lý tưởng trở thành ngọn hải đăng tỏa sáng dẫn đường, khi lý tưởng trở thành vị thần được tôn thờ mù quáng, khi lý tưởng được sùng bái một cách bất khả tư nghị? Và chuyện gì sẽ xảy ra khi con người trở thành nô lệ của dư luận, khi suy nghĩ bị dẫn dắt bởi đám đông. Đó là khi máy chém sẽ trở thành vị chủ tế, mạng sống và máu của con người được xem như vật hiến sinh, những buổi hành hình trở thành lễ hội náo nhiệt. Khi sự phi lý trở nên bình thường, khi quyền lực trao tay những kẻ vô tri, con người trở thành điên rồ và khát máu. Các hung thần lên cơn khát, một kiệt tác của A.France không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Dưới ngòi bút của một thiên tài, một xã hội thị dân Paris với đầy đủ các cung bậc cuộc sống, tình yêu, dục vọng, với ghen tuông được tái hiện. Các hung thần lên cơn khát còn là một bản trường ca về sự giao hòa giữa lý tưởng và tình người, về cách mạng và nhân văn, giữa duy tâm với duy vật, cả thánh thiện và tàn ác, về chiến thắng và chiến bại, về sự sống cùng cái chết, tất cả đã được Anatole France dệt thành một câu chuyện đa sắc sinh động. *** Anatole France (1844-1924) là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, thành viên Viện Hàn lâm và nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1921. Sự nghiệp văn chương của ông thực đồ sộ và mang dấu ấn những quan điểm của ông trong từng thời kỳ. Khi còn trẻ, với các tác phẩm “Sách của bạn tôi”, “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, “Bông huệ đỏ”, “Khu vườn của Epicure”,… Anatole France nổi tiếng là một nghệ sĩ đơn thuần, một nhà nhân văn cá nhân chủ nghĩa ít quan tâm đến cuộc đời. Nhưng khi đã đứng tuổi, ông bắt đầu chú ý đến những vấn đề thời đại, những nỗi băn khoăn, lo lắng của con người. Ông tham gia bảo vệ Dreyfus, một sĩ quan Pháp bị kết án oan về tội làm gián điệp. Trong số các tác phẩm ông viết trong thời kỳ này ta có thể kể: “Chiếc vòng thạch anh xanh”, “Ông Bergerer ở Paris”,… Đặc biệt trong các cuốn “Thiên thần nổi loạn” và “Các hung thần lên cơn khát”, ông đã tố cáo bạo lực và chuyên chế, phản đối những hành động quá khích phát sinh từ cách mạng. Luôn luôn tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân đạo, Anatole France đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cực tả. Ông quan niệm tự do là tài sản quý nhất của con người, nhưng không thể có tự do khi một giai cấp còn bị một giai cấp khác nô dịch. Ông mơ ước một nhà nước thực sự dân chủ không vi phạm quyền của mỗi công dân và bảo đảm hạnh phúc cho từng cá nhân trong xã hội. Là người vô thần, ông phản đối cả cuồng tín tôn giáo lẫn cuồng tín chính trị; là nghệ sĩ, ông luôn luôn để lòng mình rung động xen lẫn xót xa trước những niềm vui mong manh, giúp ta trong giây phút quên đi nỗi đau đớn của thân phận con người. Tiểu thuyết “Các hung thần lên cơn khát” (1912) là một trong những tác phẩm hàng đầu của Anatole France. Câu chuyện xảy ra trong thời kỳ thứ ba của Cuộc cách mạng 1789 Pháp, “Thời kỳ chuyên chính Jacobin” bắt đầu từ tháng sáu năm 1793 đến hết tháng bảy năm 1794. Đó là thời kỳ cuộc cách mạng nằm trong tình thế thù trong giặc ngoài cực kỳ hiểm nghèo. Để đối phó, một mặt Quốc ước tung quân chống ngoại xâm, dẹp bạo loạn trong nước, mặt khác, bên cạnh những biện pháp nhằm ổn định đời sống, đã dùng Tòa án Cách mạng làm công cụ thực hiện quốc sách khủng bố các phe phái, cá nhân chống đối. Và vì bản thân phái Jacobin cũng phân hóa, khủng bố lan tràn vào ngay nội bộ những người cách mạng trung kiên nhất. Đó là thời kỳ rối ren nhất, đẫm máu nhất trong cuộc Cách mạng 1789. Có thể gọi “Các hung thần lên cơn khát” là một tiểu thuyết lịch sử: Một loạt sự kiện được mô tả khá đầy đủ, chính xác đến từng ngày, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến trong đó một số lãnh đạo vĩ đại của Cách mạng, như Robespierre, như Marat, được phác họa bằng ngòi bút tài tình khiến người đọc có thể hình dung được cả hình dáng lẫn tâm hồn họ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Anatole France đưa lên sân khấu cả một đám thị dân Paris bình thường, để cho họ sinh hoạt, yêu đương, chơi bời, hy vọng, đau khổ… cả bọn đục nước béo cò thời nào cũng có. Khi nói đến những con người bình thường, tính hoài nghi cố hữu của ông thường kết hợp với sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế. Và mỗi lần như vậy, bút pháp bình dị của ông tự nhiên sống động, ấm áp hẳn lên. Đó là nỗi khổ đau triền miên của bà cụ Gamelin sống giữa người con trai đã mất tính người và người con gái tội lỗi đang lẩn trốn; bà cụ sợ từng tiếng động nhỏ, “vì địa vị thấp kém,… coi hèn nhát là một nghĩa vụ.” Chúng ta phải buồn cười với cô Élodie đa tình quyết tâm “đi nửa quãng đường, hoặc hơn nữa” để chinh phục người yêu. Để mô tả tâm hồn trong trắng của một cô gái điếm, tác giả đã để cho “mặt trăng lên cao rọi vào gian phòng sát mái một tia bạc làm bừng sáng mớ tóc bồng bềnh, từng chiếc mi vàng, cái mũi thanh tú, cái miệng tròn và đỏ của Athénaïs đang ngủ ngon giấc, hai bàn tay nắm chặt.” Ông đã dùng những lời lẽ thực trang trọng, đầy xúc động khi nói đến Fortuné Trubert, người chiến sĩ được giao trọng trách không hề cảm thấy “sự nhỏ bé của các phương tiện sẵn có” vì “đời sống của anh hòa nhập với đời sống của một dân tộc vĩ đại”. Nhưng ông đã dành nhiều trang nhất để diễn tả hai nhân vật trung tâm, hai con người có cá tính thực đặc biệt. Một người là họa sĩ Évariste Gamelin, người con hiếu thảo, hội thẩm Tòa án Cách mạng. Anh là một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Anh nghĩ, mỉa mai thay, làm thế để mai đây “mọi người Pháp sẽ ôm hôn nhau trong hạnh phúc”. Người kia là ông già Brotteaux nguyên là nhà quý tộc, yêu thiên nhiên, luôn luôn xúc động trước cảnh đẹp, môn đệ của Épicure. Tác giả đặt ông vào bao nhiêu tình huống, cho ông gặp bao nhiêu con người để ông có dịp nêu lên những ý nghĩ, những tình cảm của mình, của một người vô thần nhưng không cuồng tín, chống mọi hình thức chuyên chế hay bạo lực. Những ý nghĩ, những tình cảm đó được bộc lộ đôi khi mơ mộng, thường thường nhẹ nhàng, châm biếm, có lúc lố bịch, che giấu một tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhạy cảm, vị tha. Thế là rõ, Anatole France đã gián tiếp nêu lên quan điểm của mình. Đó là một quan điểm và còn có những quan điểm khác: bao nhiêu sử gia và nhà nghiên cứu đã viết và còn viết để đánh giá cuộc cách mạng Pháp. Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi cũng mong góp phần nhỏ bé kỷ niệm một cuộc cách mạng vĩ đại mà những lý tưởng vẫn luôn luôn thôi thúc loài người. Người dịch Trần Mai Châu ***   Sáng sớm hôm đó, Évariste Gamelin, họa sĩ, học trò của David*, thành viên phân khu Cầu mới, trước đây là phân khu Henri IV, đến nhà thờ dòng Barnabites. Từ ngày 21 tháng 5 năm 1790 cách đây ba năm, nhà thờ này được dùng làm trụ sở các đại hội của phân khu. Nó vươn cao trên một quảng trường hẹp và tối, gần hàng rào Tòa án. Mặt tiền nhà thờ có hai cây cột kiến trúc cổ điển với những công-xôn đảo ngược và bình lửa cháy đã dầu dãi với thời gian và bị con người xúc phạm. Người ta đã lấy búa đập các biểu tượng tôn giáo và thay bằng những châm ngôn Cộng hòa với dòng chữ đen tô đậm trên cửa chính: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái hay là Chết”. Évariste Gamelin bước vào gian giữa: các vòm nhà thờ trước kia bao lần vang lên lời ca của các tu sĩ bận áo thụng trắng thuộc giáo đoàn Saint Paul thì nay chứng kiến các công dân yêu nước đội mũ chụp đỏ hội họp bầu các thẩm phán của thành phố và thảo luận về công việc của phân khu. Các vị thánh đã bị lôi ra khỏi bệ; thay vào đó là tượng bán thân của Brutus, Jean-Jacques và Le Peltier. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền đặt sừng sững trên bàn thờ để trống. Jacques-Louis David (1748-1825): là họa sĩ thời cách mạng Pháp, đứng đầu trường phái Tân cổ điển. Chính tại gian giữa này, mỗi tuần hai lần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm, tiến hành các hội nghị công khai. Giảng đài có trang trí một lá quốc kì, được dùng làm diễn đàn kêu gọi quần chúng. Đối diện với giảng đài là một chiếc bục sơ sài làm bằng gỗ thô dành làm chỗ đứng cho đàn bà, trẻ con, thường đến khá đông, dự các buổi họp. Sáng hôm ấy, đứng trước một chiếc bàn kê ngay ở chân giảng đài là công dân Dupont-anh, mình mặc áo vét ngắn, đầu đội mũ chụp đỏ, làm nghề thợ mộc ở quảng trường Thionville, hiện là một trong mười hai ủy viên của ủy ban Giám sát. Trên bàn có bày một cái chai, mấy cái ly, một hộp bút và một quyển vở trong viết sẵn một kiến nghị đòi Hội đồng Quốc ước* trục xuất hai mươi hai đại biểu bất xứng. Hội đồng Quốc ước: là nghị viện cách mạng thay thế Quốc hội lập pháp từ ngày 21-9-1792 và cai trị nước Pháp cho đến ngày 26-10-1795. Évariste Gamelin cầm bút ký. “Tôi biết chắc, công dân Gamelin, cậu thế nào cũng ký, - ông ủy viên kiêm thợ thủ công nói. - Cậu là một phần tử trung kiên. Nhưng dân ở đây không nhiệt tình, lại thiếu đạo đức. Tôi đã đề nghị ban Thanh tra không cấp chứng chỉ ái quốc cho những người không ký.” “Tôi sẵn sàng dùng máu của mình ký vào kiến nghị đặt ra ngoài vòng pháp luật bọn phản quốc theo chủ nghĩa liên bang*. Họ đã muốn Marat* chết thì chính họ phải bị tiêu diệt.” Trong thời cách mạng Pháp, đây là những người chống lại những kẻ thù của tự do. Jean-Paul Marat (1743-1793): đại biểu phái Montagne trong Hội đồng Quốc ước, kịch liệt lên án và đòi chém đầu Louis XVI, bị một phụ nữ là Charlotte Corday ám sát năm 1793. “Điều nguy hiểm đối với ta chính là chủ nghĩa bàng quan. Phân khu này gồm chín trăm công dân có quyền bỏ phiếu nhưng chưa tới năm mươi người đi họp. Hôm qua lại chỉ có hai mươi tám người.” “Vậy phải bắt họ đến, nếu không thì nộp phạt.” “Này, này, - anh thợ mộc nhíu mày đáp, - nhưng nếu họ đến cả, công dân yêu nước chúng ta sẽ bị thiểu số… Công dân Gamelin, cậu có muốn làm một chén rượu chúc mừng những người cách mạng chân chính không?…” Trên tường nhà thờ, phía bên Phúc âm*, có những dòng chữ sau đây, kèm theo hình một bàn tay màu đen, ngón trỏ chỉ đường ra hành lang: Ủy ban dân sự, Ủy ban thanh tra, Ủy ban cứu trợ. Đi qua vài bước là cửa một phòng trước đây còn là gian nhà áo*, trên có ghi: Ủy ban quân sự. Gamelin đẩy cửa và thấy anh thư ký Ủy ban thanh tra đang ngồi viết trước một chiếc bàn bừa bộn sách vở, giấy tờ, thỏi thép, vỏ đạn và những mẩu đất chứa diêm tiêu. Côté de L’Évangile: Phía bên Phúc âm. Phía bên trái bàn thờ, đối với vị chủ tế. Nhà áo: là nơi các linh mục chuẩn bị trước khi làm lễ. “Công dân Trubert, chào cậu. Cậu khỏe không?” “Mình ấy à?… Mình rất khỏe…” Fortuné Robert trả lời những ai quan tâm đến sức khỏe của mình bằng một câu bất di bất dịch, muốn cho người ta biết về tình trạng của mình thì ít, mà muốn cắt đứt câu chuyện về đề tài đó thì nhiều. Anh ta mới hai mươi tám tuổi mà da đã khô, tóc thưa, gò má đỏ, lưng còng. Làm nghề bán kính ở bến Kim hoàn, anh là chủ nhân một tiệm có từ lâu đời, nhưng năm 1791 anh đã nhượng lại cho một viên thầy ký già để có thể toàn tâm làm nhiệm vụ của anh trong thành phố. Mẹ anh, một phụ nữ duyên dáng, chết lúc hai mươi tuổi mà các cụ già trong khu phố vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm xúc động, đã để lại cho anh đôi mắt dịu dàng, đắm đuối, nước da xanh xao, tính tình rụt rè, nhút nhát. Còn tính chính xác, cần cù thì anh đã kế thừa của cha anh, kỹ sư quang học, người cung cấp vật dụng cho hoàng gia, qua đời cùng một căn bệnh khi chưa đầy ba mươi tuổi. Vẫn tiếp tục làm việc, anh hỏi: “Còn cậu, công dân, cậu thế nào?” “Tớ khỏe. Có gì mới không cậu?” “Không, không có gì mới. Cậu thấy đấy: Ở đây, tất cả đều yên tĩnh.” “Thế còn tình hình?” “Tình hình vẫn thế.” Tình hình thực khủng khiếp. Đạo quân tinh nhuệ nhất của nền Cộng hòa phải đưa vào cố thủ Mayence; Valenciennes bị bao vây; dân Vendée* chiếm Fontenay; Lyon làm loạn; Cévennes nổi dậy, biên giới với Tây Ban Nha bỏ trống; hai phần ba các quận bị xâm lăng hay nổi dậy; còn Paris không tiền bạc, thiếu cả bánh mì thì nằm trong tầm đại bác của bọn Áo. Một số dân vùng Vendée và những nơi khác chống lại cách mạng vì chính sách dân sự hóa Giáo hội và bắt lính hàng loạt của chính quyền cách mạng. Fortuné Trubert vẫn yên lặng ngồi viết, chiếu theo quyết định của Công xã* giao cho các phân khu trách nhiệm động viên mười hai nghìn người để cứu viện Vendée, anh đang thảo các chỉ thị về việc tuyển quân và cung cấp vũ khí thuộc phạm vi phân khu Cầu Mới. Tất cả súng trường sẽ được giao cho những người được trưng dụng. Đội Vệ quốc của phân khu chỉ còn súng săn và giáo mác. Công xã: là chính quyền thành phố Paris thời kỳ Cách mạng. Từ ngày 10-8-1792, công xã áp dụng chính sách khủng bố. Gamelin nói: “Mình mang lại cho cậu báo cáo về tình trạng các quả chuông phải gửi đi Luxembourg để đúc đại bác.” Mặc dầu không có một xu trong túi, Évariste Gamelin vẫn được ghi vào danh sách những thành viên tích cực của phân khu: luật chỉ ban đặc quyền đó cho các công dân tương đối giàu, đã đóng góp số tiền bằng ba ngày lao động; và muốn là ứng cử viên thì phải đóng góp mười ngày. Nhưng muốn phát huy quyền bình đẳng và giữ vững tính tự trị, phân khu Cầu Mới cho phép các công dân nào chịu bỏ tiền túi sắm đồng phục Vệ quốc được quyền bầu cử và ứng cử. Đó là trường hợp Gamelin, công dân tích cực, thành viên ủy ban quân sự. Trubert đặt bút xuống nói: “Công dân Évariste, cậu hãy qua bên Quốc ước đề nghị họ gửi cho chúng ta chỉ thị đào xới các hang động, lọc đất đá để sản xuất diêm tiêu. Có đại bác đâu đã đủ, còn cần thuốc súng nữa.” Một chàng gù bé nhỏ, bút giắt tai, tay cầm giấy tờ, bước vào. Đó là công dân Beauvisage, trong ban Thanh tra. Anh ta nói: “Này các công dân, chúng ta vừa nhận được tin xấu. Custine đã rút khỏi Landau.” “Custine là tên phản bội!” Gamelin thét lên. “Phải chém cổ hắn,” Beauvisage nói. Bằng một giọng hơi hổn hển, Trubert bình tĩnh phát biểu: “Quốc ước đâu có thành lập ủy ban cứu quốc để chơi. Hành động của Custine sẽ được đem ra xét xử. Bất lực hay phản bội, cũng phải thay y bằng một vị tướng có quyết tâm chiến thắng. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Anh lật các giấy tờ và đọc lướt bằng cặp mắt mệt mỏi: “Muốn cho binh sĩ của ta hoàn thành nhiệm vụ, không rối loạn, không chùn bước, cần làm cho anh em hiểu rằng đời sống những người thân của họ được bảo đảm. Nếu cậu đồng ý, công dân Gamelin, trong phiên họp tới, cậu sẽ cùng mình đề nghị ủy ban cứu trợ phối hợp với bên quân sự giúp đỡ những gia đình khó khăn có con em tại ngũ.” Anh mỉm cười và ngân nga: “Sẽ ổn cả! Ổn cả!…” Như vậy là làm việc từ mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày trước một chiếc bàn mộc, để bảo vệ Tổ quốc lâm nguy, viên thư ký tầm thường của một ban trong phân khu không hề cảm thấy sự chênh lệch giữa mức độ to lớn của nhiệm vụ và sự nhỏ bé của phương tiện: anh cảm thấy sức mình hòa với nỗ lực chung của các công dân yêu nước, anh và đất nước là một, đời sống của anh hòa nhập vào đời sống của một dân tộc vĩ đại. Anh thuộc hạng người nhiệt tình và kiên nhẫn, sau mỗi thất bại lại chuẩn bị cho chiến thắng dường như không thể có được nhưng lại chắc chắn vô cùng. Họ phải thắng! Những con người chẳng là gì cả đó, những người đã đạp đổ vương quyền, cái anh Trubert, kỹ sư quang học tầm thường, cái anh Gamelin, họa sĩ vô danh, không thể chờ đợi sự khoan dung của kẻ thù. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa chiến thắng và chết. Do đó họ đầy nhiệt tình và cũng vô cùng thanh thản.   Mời các bạn đón đọc Các Hung Thần Lên Cơn Khát của tác giả Anatole France & Trần Mai Châu (dịch).
Bốn Mùa - Lịch Thiên Nhiên
K. Paustovski trong Bông hồng vàng đã viết về Mikhail Prisvin: “Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết ơn đối với con người vì con người đã đi sâu vào đời sống bí ẩn của thiên nhiên và ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho Mikhail Prisvin”. Mikhail Prisvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. Đầu thập niên 1970, ông đã từng “đến” và để lại trong lòng bạn đọc Việt Nam những ấn tượng rất sâu sắc qua tập sách Bốn mùa Lịch thiên nhiên. *** Mikhail Mikhailôvich Prisvin (1873—1954), nhà văn Liên—xô nổi tiếng, sinh tại thị trấn Eletxơ cổ kính của nước Nga. Ông đã sống nửa đời người trong điều kiện của nước Nga Sa hoàng cũ. Những tác phẩm đầu tay của ông thuộc vào thời kỳ này — ông bắt đầu viết từ năm 1906. Nhưng thời kỳ hưng thịnh sức sáng tác của nhà văn đã diễn ra trong những năm chính quyền xô—viết, trong một nước đang được cuộc cách mạng tái sinh. Prisvin là một người có số phận phức tạp và thú vị. Là tổ viên của những tiểu tổ cách mạng đầu tiên trong nước Nga chuyên chế, nhà nông học về mặt học vấn, hội viên Hội địa lý toàn Nga, nhà nhân chủng học, nhà vật hậu học, người đi săn say sưa và nhà du lịch, ông đã trở thành nhà văn nổi tiếng, đã viết được vài chục cuốn sách đủ loại (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện cổ tích, truyện ký, ký sự, v. v.). Prisvin đã nồng nhiệt đáp lại những giọng nói muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Dường như nhà văn muốn được tham gia vào tất cả những công việc đang tiến hành trong Tổ quốc thân yêu, và không chỉ là tham gia, mà còn muốn với đôi chân của mình đi qua khắp hàng nghìn cây số đường sá, rừng núi và cánh đồng của Tổ quốc, với đôi tay của mình sờ mó, vuốt ve những cành lá mềm mại cả của cây bạch dương vùng trung bộ nước Nga lẫn của cây bá hương vùng Xibêri. Nhưng đời sống con người quá ngắn ngủi, dù số phận có hào hiệp, rộng lòng kéo dài ra chăng nữa, như đối với Prisvin — nhà văn từ trần hưởng thọ trên tám mươi mốt tuổi. Đời sống của con người quá ngắn ngủi, và vì thế mỗi người sinh ra trên đời này phải chọn cho mình cái gì là chủ yếu nhất. Đối với Prisvin cái chủ yếu nhất là Thơ. Ông không bao giờ làm thơ. Trái lại, tất cả những cái gì ông đã viết ra, thì đó là văn xuôi «thông thường› nhất. Ông rất thích sự chính xác. Ông không bao giờ bị cám dỗ bởi sự bịa đặt, mà muốn kể lại cho bạn đọc của mình sự thật rất bình dị. Nhưng «sự thật rất bình dị› ấy trong các tác phẩm của Prisvin thực ra hết sức tinh vi, rất phức tạp và nên thơ cao độ, vì Prisvin viết về một trong những mặt phức tạp nhất và nên thơ nhất của cuộc sống — viết về thiên nhiên. Prisvin đã dành trên năm mươi năm hoạt động sáng tác của ông vào việc nghiên cứu, mô tả và ca ngợi thiên nhiên. Là một người biết rất rõ về phong cảnh miền bắc nước Nga, Prisvin đã viết nhiều sách, và mỗi cuốn dường như là bài ca hùng tráng về đất đai Nga thân yêu của ông. Cả Lịch thiên nhiên, cả Nước nhỏ giọt trong rừng, cả Kho mặt trời, Nhân sâm, Bốn mùa, Rừng thông cao vút, và cả những sách khác của nhà văn đều như thế cả. Những tác phẩm của Prisvin được xuất bản hàng triệu bản, cho đến nay đã và đang được nổi tiếng rất rộng rãi. Bạn đọc của Prisvin rất đông đảo và đa dạng. Những người thuộc các nghề nghiệp, các khuynh hướng, các trạc tuổi rất khác nhau đã đánh giá Prisvin là một nhà thơ chân chính của đất nước mình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hai tác phẩm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Prisvin— Bốn mùa và Lịch thiên nhiên. Hai tác phẩm ấy là một loạt chuyện kể về thiên nhiên Nga, không có một chủ đề nhất định. Đúng hơn đó là những nét phác họa diễn đạt rất hình ảnh, những bức tranh truyền cảm, có khi là những cảnh rất nhỏ — chỉ trong vài câu, — những quan sát trực tiếp của nhà vật hậu học nghiệp dư, của nhà tự nhiên. Mùa xuân, Mùa hè, Mùa thu, Mùa đông — nhà văn đã gọi tên các chương trong hai tác phẩm của mình như thế. Không ai có thể kể lại như Prisvin về vẻ đẹp tuyệt vời của ngày hè nóng bức, về tiếng reo vui tươi của con suối rừng, về câu chuyện bí ẩn của đàn gà lôi non, về những mạng nhện hạ xuống trên cánh đồng, những lá vàng mùa thu kêu sột soạt dưới chân người đi săn, những giọt mưa lấp lánh sa xuống đất. Vẻ hùng vĩ của rừng núi Nga mùa thu, những đường viền đăng ten của nàng mỹ nữ mùa đông, vẻ kiều diễm của đất đai đã thức dậy trong mùa xuân, vẻ tươi sáng trang trọng của bầu trời hè trong vắt — đây chính là Thơ ca chân chính rất gần gũi và dễ hiểu đối với trái tim của nhà văn. Bí mật của sức hấp dẫn lạ thường của Prisvin chính là ở cái nhìn tinh vi của ông, ở niềm vui không bờ bến của những phát hiện thường xuyên của ông. Trong mỗi chi tiết nhỏ nhặt, Prisvin tìm thấy được điều thú vị và quan trọng. Trong mỗi ngọn cỏ, trong mỗi lá cây, nhà văn thấy được nội dung sâu sắc của cuộc sống trên trái đất, và kể lại một cách rất hay đến nỗi bạn đọc cảm thấy thế giới quen thuộc của thiên nhiên chung quanh dường như sống lại và tràn đầy âm thanh. Ngôn ngữ của Prisvin rất bình dân. Nhưng chính trong tính chất bình dân đó có cả một sự chính xác kỳ lạ lẫn tính muôn màu muôn vẻ. Thật đúng là Prisvin đã dùng ngôn ngữ để vẽ, chẳng khác gì họa sĩ sử dụng cây bút lông. Văn xuôi của ông lấp lánh muôn nghìn màu sắc của chính thiên nhiên, chan chứa thanh tươi và ánh sáng. Prisvin trân trọng quý báu vốn tiếng Nga nhịp nhàng, du dương, như trân trọng quý báu tính chất nên thơ của đất đai Nga thân yêu của ông. Những tác phẩm Bốn mùa và Lịch thiên nhiên của Prisvin đều chứa đựng một tinh thần yêu nước sâu sắc. Những sách ấy giáo dục tình yêu vô hạn đối với đất nước, thiên nhiên và những con người của đất nước. Những con người trong hai tác phẩm ấy của Prisvin là những chủ nhân chân chính của đất nước mình. Trong đó bạn đọc sẽ thấy cả những nhà khảo cổ học, cả những nông dân ở các làng lân cận, cả những cậu bé hiếu học, cả những người đi săn say mê. Và đối với tất cả những người đó, cũng như đối với bản thân tác giả, tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ thật là vô cùng quý báu. Đất đai cho con người để mà sống — đó chính là tư tưởng chủ yếu của Prisvin. Một nhà văn Liên—xô nổi tiếng khác, người đồng thời của chúng ta vừa mới từ trần, Cônxtantin Pauxtôpxki, đã nói về điều đó một cách rất đúng và rất hay: Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy lòng biết ơn đối với con người, vì con người đã đi sâu được vào bí mật cuộc sống của nó và đã ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì lòng biết ơn ấy trước hết phải dành cho nhà văn Mikhain Mikhailôvich Prisvin.   Mời các bạn đón đọc Bốn Mùa - Lịch Thiên Nhiên của tác giả Mikhail Prisvin.
Tù Nhân Của Thiên Đường
Năm 1957 tại Barcelona. Chỉ còn một tuần nữa là đến Giáng Sinh, Daniel Sempere đã lập gia đình và có một cậu con trai kháu khỉnh, trong khi đó người bạn thân của anh, Fermín, cũng đang bận rộn chuẩn bị lễ cưới chính mình vào năm mới. Mọi việc tưởng chừng rất êm đẹp, bỗng một ngày nọ xuất hiện kẻ lạ mặt với bộ dạng khó nhìn, chân đi khập khiễng bước vào hiệu sách của Daniel. Quyển sách ông ta muốn mua là một bản Bá Tước Monte Cristo có minh họa cực kì đắt tiền, kèm theo lời đề tặng: “Tặng Fermín Romero de Torres, Người từ cõi chết trở về Và nắm giữ chìa khóa đi vào tương lai” Ông ta là ai và muốn gì ở Fermín? Câu trả lời nằm trong một bí mật kinh hoàng đã bị chôn giấu hơn hai mươi năm. Daniel và Fermín sẽ phải dấn thân vào một hành trình tìm kiếm quá khứ và chính bản thân họ, khi các mảnh ghép bắt đầu lộ ra và hướng mọi thứ đến trung tâm của Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. *** Bộ sách Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên gồm có: Trò chơi của thiên thần (tiền truyện) Bóng hình của gió Tù nhân của thiên đường *** "Bóng hình của gió" và "Tù nhân của thiên đường" lần lượt là phần 1 và 3 trong 4 phần của bộ "Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên" mà các bạn có thể đọc tác phẩm để biết rõ hơn về cái "nghĩa trang" đầy sự thú vị này. Mình cũng không hiểu Nhã Nam đã làm gì với phần 2. Where is my part 2. Mặc dù lời đề tựa tác giả có nói cả 4 cuốn đều có thể được đọc một cách độc lập mà không cần phải đọc cuốn trước đó, nhưng đây là một câu chuyện liền mạch xuyên xuốt chỉ một cốt chuyện chính. Các phần ghép lại với nhau thành một mảnh ghép hoàn chỉnh hướng về "Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên"      Nói về bóng hình của gió. Cái "nghĩa trang" kì quặc kia đã xuất hiện ngay ở trang đầu tiên của tác phẩm. Tên của nó làm cho mình có một sự hưng phấn và thích thú đặc biệt bởi đó chính là nơi cất dấu những cuốn sách cũ, những cuốn sách đã bị lãng quên. Tông màu chủ đạo của tác phẩm đều u tối. Gần như hầu hết những phân cảnh quan trọng của truyện đều trong tình trạng mưa, buổi tối, xương mù, mùa lạnh. tạo cho chúng ta một không khí u ám, tối tăm, lạnh lẽo về một thành phố đổ nát sau chiến tranh thế giới. Nhân vật chính bảo vệ một cuốn sách, và nó tên là "Bóng hình của gió" đồng thời cũng là cuốn cuối cùng còn lại, làm cho mình, khi cầm chính cuốn "bóng hình của gió" trên tay như nhập hồn vào chính nhân vật đó để trải qua cuộc phiêu lưu của cậu ta, cùng cậu ta khám phá những bí mật u tối của quá khứ như thể chính mình đang ở trong tác phẩm vậy. Những cược phiêu lưu để tìm về quá khứ của con người, của những cuốn sách đáng lẽ ra đã bị chon vùi nhiều năm về trước thực sự cuốn hút và không thể dời mắt khỏi tác phẩm. Tình yêu được viết dưới ngòi bút của một nhà văn Tây Ban Nha khác hẳn với tình yêu của các tác giả khác mình đã từng đọc. Nó là một thứ tình yêu nồng cháy, lãng mạn đến tan chảy, và cũng rất nông nổi bồng bột, thứ tình yêu của tuổi trẻ, của nam nữ đôi mươi còn chưa chín chắn và hành động theo tiếng gọi của con tim. Một tác phẩm không thể tuyệt hơn để đọc vào những ngày mùa đông lạnh giá âm u.      9/10      Tù nhân của thiên đường tiếp tục liền mạch nói về những năm tiếp theo của các nhân vật chính. Có thể đọc mà không cần phần 2. Tác phẩm này thực lòng không thể sánh được với bóng hình của gió. Nó tập chung vào quá khứ của một nhân vật. Không gian truyện eo hẹp và đơn giản hơn nhiều so với phần 1. Nhưng nội dung cởi nút rất nhiều bí mật, những bí mật mà chính mình không nhận ra khi đọc xong phần một. Sự tò mò về số phận các nhân vật sẽ đi về đâu và họ sẽ sống tiếp cuộc sống của họ ra sao làm mình không thể trì hoãn việc đọc tác phẩm này, và nó đã không làm mình thất vọng. Nếu "Bóng hình của gió" là một kiệt tác thì "Tù nhân của thiên đường" như là bản vá giải đáp những bí mật mà người đọc thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của chúng khi đọc phần 1. Để rồi thốt lên "Ồ" khi gấp lại. Nêu đã đọc "Bóng hình của gió" bạn không thể bỏ qua tác phẩm này. Mình dám chắc      7.5/10 *** Carlos Ruiz Zafón được xem là một trong những nhà văn Tây Ban Nha thành công nhất hiện nay. Các tác phẩm của Zafón đã bán được hơn 38 triệu bản, dịch ra hơn 40 thứ tiếng và luôn nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại. Năm 2001, cuốn sách Bóng hình của gió vừa được xuất bản đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và đông đảo độc giả trên toàn thế giới. Tù nhân của thiên đường là phần tiếp theo của cuốn sách, trong khi Trò chơi của thiên thần lại là phần tiền truyện trong loạt tiểu thuyết này. Cuốn sách cuối cùng trong bộ tác phẩm trên ra mắt năm 2017 với tựa đề The Labyrinth of Spirits. Đây cũng là tác phẩm cuối cùng của Carlos Ruiz Zafón, trước khi ông phát hiện mình mắc căn bệnh ung thư năm 2018. *** Barcelona, tháng Mười hai, 1957 Năm ấy vào mùa Giáng sinh, mỗi buổi sớm mai được bao phủ trong làn sương giá dưới bầu trời xám xịt. Sắc xanh nhạt bao phủ lên thành phố và người ta đi qua đi lại, quấn kín đến tận tai và vẽ nên những đường hơi nước bằng hơi thở của họ trong tiết trời giá lạnh. Chẳng mấy ai nán lại để nhìn vào hiệu sách 'Sempere & Con trai', lại càng ít người đánh bạo bước vào để hỏi cuốn sách đã chờ đợi họ suốt cuộc đời mà việc nó bán được, ngoài đem lại niềm vui thi ca, sẽ góp phần làm vơi nhẹ tình trạng tài chính đang khốn khó của cửa hàng. “Con nghĩ hôm nay sẽ là ngày đó. Hôm nay vận may của chúng ta sẽ thay đổi,” tôi tuyên bố khi đang nhâm nhi ly cà phê đầu tiên trong ngày, với một niềm lạc quan thuần khiết ở trạng thái lỏng. Cha tôi, người đã chiến đấu với cuốn sổ cái từ tám giờ sáng, xoay xoay cây bút chì và cục tẩy, ngước lên từ quầy và theo dõi đám khách hàng khó với đang mất hút vào con phố. “Chúa nghe được lời con, Daniel, vì cứ thế này, nếu chúng ta không bù được lỗ trong mùa Giáng sinh, ta sẽ không đủ sức trả hóa đơn tiền điện tháng Giêng đâu. Chúng ta sẽ phải làm gì đó.” “Hôm qua Fermín có một ý,” tôi ướm thử. “Anh ta nghĩ đó là một kế hoạch thông minh và sẽ cứu hiệu sách này khỏi vụ phá sản sắp xảy ra.” “Chúa phù hộ chúng ta.” Tôi dẫn lại lời Fermín, từng chữ một: “Nếu nhỡ tình cờ người ta bắt gặp tôi đang mặc quần lót chỉnh lại mấy tấm kính của cửa hàng, một số quý cô đang cần những cảm xúc văn chương mạnh mẽ sẽ bị hút vào và bị xui khiến phải chia tay với một mớ tiền mặt. Theo ý kiến chuyên gia, tương lai của văn chương phụ thuộc vào phụ nữ, và Chúa chứng giám, chỉ có phụ nữ chưa sinh ra mới có thể cưỡng lại sức cám dỗ nguyên sơ của cái vóc dáng kỳ diệu này,” tôi thuật lại. Nghe sau lưng mình cây bút chì của cha rơi xuống sàn, tôi liền quay lại. “Fermín đã nói vậy đấy,” tôi thêm vào. Tôi nghĩ cha sẽ mỉm cười trước đề nghị của Fermín, nhưng nhận thấy ông vẫn yên lặng, tôi lén nhìn ông. Chẳng những Sempere Bố không thấy gợi ý này có chút gì hài hước, mà ông còn mang cái vẻ suy tư, cơ hồ đang cân nhắc điều đó thật nghiêm túc. “Chà, chà... có lẽ Fermín đã vô tình chạm đúng nguyên nhân rồi,” ông lẩm nhẩm. Tôi nhìn ông mà không tin nổi. Có lẽ tình trạng hiếm khách diễn ra mấy tuần vừa rồi cuối cùng đã ảnh hưởng đến óc xét đoán đáng tin của cha tôi. “Bố đừng nói là sẽ cho phép anh ta mặc quần chẽn* đi quanh hiệu sách đấy nhé.” • Nguyên văn: Y-fronts, quần chẽn của đàn ông với đường may nổi và mở ra ở phía trước, may theo hình chữ Y lộn ngược. “Không, dĩ nhiên là không. Là về mấy tấm kính hiệu sách. Con nhắc đến làm bố nghĩ ra một ý... Có lẽ rốt cuộc vẫn còn cơ hội để chúng ta cứu mùa Giáng sinh này.” Ông biến mất vào phòng sau, rồi xuất hiện trở lại, vận bộ trang phục mùa đông quen thuộc: chiếc áo khoác, chiếc khăn, và chiếc mũ mà tôi nhớ ông đã mang từ hồi tôi còn bé. Bea ngờ rằng kể từ năm 1942 cha tôi chẳng hề mua quần áo mới và mọi thứ dường như chứng minh vợ tôi đúng. Khi xỏ găng tay, cha bất giác mỉm cười, mắt ông hấp háy niềm phấn khích như trẻ nhỏ, dáng vẻ mà chỉ những công việc trọng đại mới gợi lên được ở ông. “Bố để mình con trông hiệu sách một lát,” ông tuyên bố. “Bố định làm một việc vặt.” “Con có thể hỏi bố định đi đâu được không ạ?” Cha nháy mắt với tôi. “Một điều bất ngờ. Rồi con sẽ thấy.” Tôi theo ông ra cửa, và thấy ông rảo bước về phía Puerta del Ángel, lại thêm một dáng người nữa trong làn sóng xám xịt những khách bộ hành đang băng qua một mùa đông dài khác của bóng tối và tro bụi. Mời các bạn đón đọc Tù Nhân Của Thiên Đường của tác giả Carlos Ruiz Zafón.
Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại
“Đến tuổi nào đó, bạn sẽ đủ ‘chín’ để bắt đầu đọc truyện cổ tích trở lại.” - C.S.Lewis Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại, tập tiếp theo của bộ truyện Lạc Vào Miền Cổ Tích, kể về chuyến phiêu lưu lần thứ hai của cặp sinh đôi Alex, Conner vào thế giới cổ tích. Và lần này, hai chị em phải đối mặt với kẻ thù đáng sợ nhất, hùng mạnh nhất của vùng đất, để giải cứu mẹ mình cũng như mọi người dân ở đây. Với lối viết truyện hấp dẫn, duyên dáng của tác giả, bộ truyện đã mở ra một thế giới phiêu lưu kỳ bí và đầy mê hoặc cho độc giả từ 8 tuổi trở lên. Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại gồm có: TRỖI DẬY VÀ TRỞ LẠI DÒNG SUY NGHĨ TRÊN TÀU LỬA CHUYỆN BẮT ĐẦU TỪ MỘT CHÚ CHÓ BỮA TRƯA Ở THƯ VIỆN VĂN PHÒNG HIỆU TRƯỞNG LỜI CẦU HÔN TRẬN ĐỊA THẦN LÙN NGỖNG NGÔI NHÀ NHỎ CUỘC HỌP MẶT TRONG RỪNG MÓN NỢ CỦA ĐỒ BỎ XÓ NỮ HOÀNG VÀ CHÀNG ẾCH MỘT BUỔI CHIỀU KHÔNG MẤY THÚ VỊ LỌ LINH HỒN ĐŨA THẦN HUYỀN DIỆU BA HẠT ĐẬU THẦN BÀ NGOẠI BAY BÀ CHÚA TUYẾT BÀ MẸ KẾ ĐỘC ÁC LÂU ĐÀI TRÊN MÂY HÌNH ẢNH PHẢN CHIẾU MỤ PHÙ THỦY BIỂN TROLLBELLA, NỮ HOÀNG QUỶ TINH CHÚ LÙN THỨ TÁM PHU NHÂN CỦA PHƯƠNG ĐÔNG ĐÁ, RỄ CÂY, VÀ LÒNG CĂM GIẬN THỨ QUÝ GIÁ NHẤT CỦA PHÙ THỦY HẮC ÁM GIẤC MƠ PHÉP MÀU VĨ ĐẠI NHẤT DÙ HAY HAY DỞ TẠM BIỆT LỜI CẢM ƠN Bộ truyện Lạc Vào Miền Cổ Tích gồm có: Bùa Ước Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại Lời Cảnh Báo Của Anh Em Nhà Grimm ... *** Hầm ngục là một nơi vô cùng thảm đạm. Ánh sáng hiếm hoi chập chờn hắt xuống từ những ngọn đuốc đóng đinh trên tường đá. Thứ nước hôi thối từ con hào bao quanh lâu đài bên trên rỉ xuống hầm ngục. Những con chuột to xù rượt đuổi nhau sục tìm thức ăn. Quả không phải chỗ dành cho một nữ hoàng. Vừa quá nửa đêm, tất cả chìm trong im lặng, chỉ thi thoảng mới có tiếng dây xích sột soạt. Xuyên qua cái tĩnh mịch nặng nề đó, tiếng bước chân dội vang khắp sảnh khi có người đi xuống những bậc thang xoắn ốc, tiến vào hầm ngục. Một phụ nữ trẻ xuất hiện cuối bậc thang, cả người được phủ kín bằng tấm áo choàng dài màu ngọc bích. Nàng thận trọng lần bước giữa dãy phòng giam, gây hiếu kỳ cho các tù nhân trong đó. Với mỗi bước đi, nhịp chân nàng lại chậm hơn và nhịp tim đập lại thêm gấp gáp. Tù nhân được xếp chỗ theo tội lỗi đã phạm. Nàng càng dấn bước sâu vào trong hầm ngục lại càng gặp phải những tù nhân độc ác và nguy hiểm hơn. Cái đích mà nàng đang hướng đến là phòng giam ở cuối hành lang, nơi đó, viên cai ngục to lớn đang canh giữ một tù nhân đặc biệt. Nàng đến đây để tìm lời giải đáp cho một câu hỏi. Câu hỏi đơn giản thôi, nhưng nó đã xâm chiếm suy nghĩ của nàng mỗi ngày, khiến nàng thao thức hàng đêm và là thứ duy nhất hiện ra trong giấc mơ của nàng mỗi khi nàng có thể thiếp đi giây lát. Chỉ có một người có thể cho nàng câu trả lời cần biết và người đó đang ở bên kia chấn song phòng giam phía trước. “Tôi muốn gặp bà ta,” người phụ nữ khoác áo choàng bảo viên cai ngục. “Không ai được phép vào thăm bà ta cả,” viên cai ngục đáp, có vẻ thích thú với lời đề nghị lạ lùng. “Tôi đang chấp hành mệnh lệnh nghiêm ngặt của hoàng gia.” Người phụ nữ này liền hạ mũ trùm đầu xuống để lộ gương mặt. Nàng có làn da trắng như tuyết, tóc đen như gỗ mun và đôi mắt xanh như rừng thẳm. Vẻ đẹp của nàng nổi tiếng khắp vương quốc và câu chuyện về nàng lại còn vang xa hơn thế. “Nữ hoàng, xin hãy thứ lỗi cho thần!” viên cai ngục kinh ngạc tạ lỗi. Anh ta vội vã gập người cúi chào thật thấp. “Thần không trông đợi có người từ cung điện đến đây.” “Không cần tạ lỗi đâu,” nàng nói. “Nhưng làm ơn đừng tiết lộ việc ta đến đây tối nay.” “Dĩ nhiên rồi ạ,” viên cai ngục gật đầu. Người phụ nữ đến trước chấn song, chờ viên cai ngục nâng chúng lên nhưng anh ta lại ngập ngừng. “Người có chắc là muốn vào đó không, thưa Nữ hoàng?” Viên cai ngục hỏi. “Chẳng liệu được bà ta có thể làm chuyện gì đâu.” “Ta phải gặp bà ta,” nàng kiên quyết. “Bằng mọi giá.” Viên cai ngục bắt đầu quay tròn tay đòn bẩy và chấn song phòng giam được nhấc lên. Người phụ nữ hít một hơi thật sâu và tiếp tục bước qua đó. Nàng tiến vào một hành lang dài hơn, tối hơn; từng chấn song, từng rào chắn lần lượt được nhấc lên và hạ xuống khi nàng vượt qua chúng. Cuối cùng, nàng đã đến cuối hành lang, chấn song cuối cùng được nâng lên và nàng bước vào phòng giam. Tù nhân ở đây là một phụ nữ. Bà ta ngồi trên một chiếc ghế cao giữa phòng giam, ngước nhìn chằm chằm lên khung cửa sổ nhỏ hẹp. Mất ít phút để tù nhân nhận ra có vị khách viếng thăm đằng sau. Đó là người đầu tiên đến thăm bà ta từ bấy đến nay, chẳng cần nhìn bà ta cũng biết là ai; chỉ có thể là một người duy nhất đó thôi. “Xin chào, Bạch Tuyết,” tù nhân khẽ nói. “Xin chào người, Mẹ Kế,” lời đáp của Bạch Tuyết run rẩy và lo lắng. “Hy vọng mẹ vẫn khỏe.” Mặc dù Bạch Tuyết đã chuẩn bị trước những điều muốn nói, giờ đây nàng vẫn cảm thấy khó thốt nên lời. “Ta nghe nói giờ ngươi là nữ hoàng,” người mẹ kế tiếp. “Đúng vậy,” Bạch Tuyết đáp. “Con đã kế thừa ngôi vị như dự định của cha.” “Vậy thì sao ta lại có vinh hạnh này đây? Ngươi đến để xem ta héo hắt đi chăng?” người mẹ kế gằn giọng. Giọng nói ấy đầy quyền uy và sức mạnh; người ta kháo nhau rằng nó làm cho ngay cả người đàn ông mạnh mẽ nhất cũng phải tan chảy như nước đá. “Trái lại,” Bạch Tuyết đáp. “Con đến để tìm hiểu.” “Hiểu gì mới được chứ?” người mẹ kế cay nghiệt đáp trả. “Hiểu vì sao…” Bạch Tuyết ngập ngừng. “Vì sao mẹ lại phải làm những việc đó.” Khi cuối cùng cũng nói lên được lời này, Bạch Tuyết cảm thấy như có một gánh nặng vừa cất khỏi vai mình. Rốt cuộc nàng cũng hỏi được điều bấy nay vẫn đè nặng trong tâm trí. Khó khăn thế là cũng qua một nửa rồi. “Có nhiều chuyện về thế giới này mà ngươi không hiểu đâu,” người mẹ kế nói và quay lại nhìn đứa con của chồng mình. Đó là lần đầu tiên Bạch Tuyết nhìn thấy gương mặt mẹ kế sau một quãng thời gian dài. Đó là gương mặt một người phụ nữ đã từng mang vẻ đẹp hoàn hảo, người phụ nữ từng là hoàng hậu. Vậy mà giờ đây, người ngồi trước mặt nàng chỉ còn là một tù phạm, mà vẻ đẹp đã phai thành một gương mặt cau có, buồn bã. “Có lẽ là thế,” Bạch Tuyết đáp lời. “Nhưng mẹ có thể trách con vì cố gắng tìm hiểu lý do đằng sau hành động của mẹ không?” Những năm vừa qua trong đời Bạch Tuyết là giai đoạn gây xôn xao tranh cãi nhất trong lịch sử hoàng tộc của vương quốc. Ai ai cũng biết câu chuyện nàng công chúa xinh đẹp trú ẩn nơi ngôi nhà của Bảy Chú Lùn, trốn tránh mụ dì ghẻ ganh ghét. Ai ai cũng biết về quả táo tẩm độc nổi tiếng và vị hoàng tử quyết đoán đã đem Bạch Tuyết trở về từ cõi chết. Câu chuyện thật đơn giản, nhưng hậu truyện không như thế. Ngay cả khi bận bịu với việc triều chính và cuộc hôn nhân mới mẻ, Bạch Tuyết vẫn nhận thấy mình thường xuyên tự hỏi liệu lời đoán định về sự ích kỷ của mẹ kế nàng có đúng không. Điều gì đó bên trong vị nữ hoàng trẻ tuổi này vẫn không tin một người lại có thể độc ác đến vậy. “Mẹ có biết ngoài kia người ta gọi mẹ là gì không?” Bạch Tuyết hỏi. “Bên ngoài những bức tường nhà giam này, nhân gian gán cho mẹ là Hoàng hậu Độc Ác.” “Nếu thế gian đã gán cho ta tên gọi đó, vậy thì đó là cái tên mà ta sẽ học cách để sống cùng,” Hoàng hậu Độc Ác đáp. “Một khi thế gian này quyết định, không có nhiều thứ người ta có thể làm để thay đổi cách nghĩ của nó.” Bạch Tuyết lấy làm ngạc nhiên trước sự dửng dưng của người mẹ kế, nhưng Bạch Tuyết cần bà phải để tâm. Nàng cần biết trong bà vẫn còn chút nhân tính. “Họ muốn xử tử mẹ sau khi tra rõ tội lỗi mẹ đã phạm với con! Cả vương quốc này muốn mẹ phải chết!” Giọng Bạch Tuyết nhẹ dần, chỉ còn là lời thì thầm yếu ớt khi nàng cố chống lại những cảm xúc dâng trào. “Nhưng con sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Con không thể…” “Vậy ra ta phải cảm ơn ngươi vì tha chết cho ta sao?” Hoàng hậu Độc Ác hỏi vặn. “Nếu ngươi trông chờ ai đó phủ phục xuống chân ngươi và bày tỏ lòng biết ơn, ngươi đã vào nhầm phòng giam rồi đấy.” “Con không làm thế vì mẹ đâu. Con làm thế vì bản thân con,” Bạch Tuyết đáp. “Dù sao đi nữa, người là người mẹ duy nhất con từng biết. Con quyết không tin mẹ lại là quái vật vô lương tâm như người ta nói. Bất kể điều đó có đúng hay không, con tin rằng sâu thẳm trong mẹ còn có một trái tim.” Nước mắt lăn dài trên gương mặt trắng trẻo của Bạch Tuyết. Tuy đã hứa với lòng mình sẽ vững tâm, nàng vẫn không kiềm chế được cảm xúc khi đứng trước người mẹ kế. “Vậy thì ta e rằng ngươi đã sai rồi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Lương tâm duy nhất ta có đã chết từ lâu và trái tim duy nhất mà ta sở hữu là một trái tim bằng đá.” Hoàng hậu Độc Ác đúng là có một quả tim đá, nhưng không phải trong người bà ta. Một hòn đá có hình dạng và kích thước hệt như trái tim người được đặt trên cái bàn nhỏ ở góc phòng giam. Đó là vật duy nhất Hoàng hậu Độc Ác được phép giữ bên mình khi bà ta bị bắt. Bạch Tuyết nhận ra hòn đá đó từ những ngày thơ ấu. Nó bao giờ cũng rất quý giá đối với mẹ kế nàng, Hoàng hậu Độc Ác chưa bao giờ để nó ra khỏi tầm mắt. Bạch Tuyết chưa từng được phép chạm vào hay cầm lấy nó, nhưng bây giờ thì không gì có thể ngăn cản nàng. Nàng bước ngang qua phòng giam, cầm vật đó lên và tò mò nhìn. Nó gợi lại biết bao nhiêu hồi ức. Mọi sự thờ ơ và nỗi buồn mẹ kế đã gây cho nàng khi nàng còn là một đứa trẻ ùa về. “Cả đời này con chỉ muốn một điều duy nhất,” Bạch Tuyết nói. “Tình yêu thương của mẹ. Khi còn là một cô bé, con từng dành hàng giờ lẩn trốn trong lâu đài, những mong mẹ sẽ nhận thấy thiếu vắng con, nhưng mẹ chưa từng nhận ra. Mẹ ở trong phòng hết ngày này qua ngày khác với tấm gương, kem dưỡng da của mẹ và hòn đá này. Mẹ dành nhiều thời gian cho những người lạ mặt với các bí quyết chống lão hóa hơn là cho con gái của mẹ. Nhưng vì sao chứ?” Hoàng hậu Độc Ác không trả lời. “Bốn lần mẹ cố gắng giết con, ba lần chính tay mẹ thực hiện,” Bạch Tuyết tiếp, lắc đầu không tin được. “Khi mẹ phục sức như một bà già và đến tìm con nơi nhà của các chú lùn, con biết đó là mẹ chứ. Con biết mẹ rất nguy hiểm, nhưng con vẫn để mẹ vào nhà. Con vẫn hy vọng rằng mẹ sẽ thay đổi. Con đã để mẹ làm tổn thương con.” Bạch Tuyết chưa bao giờ tiết lộ điều này với bất cứ ai, nàng chỉ biết vùi mặt vào tay khóc sau khi thốt nên lời. “Ngươi nghĩ ngươi biết thế nào là tan nát cõi lòng ư?” Hoàng hậu Độc Ác nói với vẻ gay gắt đến độ khiến người con riêng của chồng giật mình. “Ngươi chẳng biết gì về nỗi đau cả. Ngươi không bao giờ nhận được chút trìu mến nào từ ta nhưng từ khi được sinh ra, ngươi đã được cả vương quốc này yêu mến. Người khác, trái lại, không được may mắn thế. Với Người khác, Bạch Tuyết à, đôi khi tình yêu duy nhất của đời họ cũng bị tước đi.” Bạch Tuyết không biết phải nói gì. Bà ấy đang nói về tình yêu nào đó? “Mẹ đang nói về cha con sao?” Bạch Tuyết hỏi. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và lắc đầu. “Tính ngây thơ quả là một phẩm chất được nhiều ưu ái,” bà ta nói. “Tin hay không thì tùy, Bạch Tuyết à, ta từng có cuộc đời của riêng ta trước khi bước vào cuộc đời ngươi.” Bạch Tuyết lặng đi và hơi xấu hổ. Dĩ nhiên nàng biết mẹ kế từng có một cuộc đời khác trước khi kết hôn với cha nàng, nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ tới những gì có trong cuộc đời đó. Mẹ kế của nàng luôn rất kín đáo, Bạch Tuyết chẳng có lý do gì để nghĩ sâu xa cả. “Tấm gương của ta đâu?” Hoàng hậu Độc Ác gặng hỏi. “Nó sẽ bị phá hủy,” Bạch Tuyết đáp lời bà. Đột nhiên, hòn đá của Hoàng hậu Độc Ác trong tay Bạch Tuyết trở nặng. Bạch Tuyết không rõ liệu có thật vậy không hay nàng chỉ tưởng tượng thế thôi. Cánh tay cầm hòn đã trở nên mỏi nhừ và nàng phải đặt nó xuống. “Có quá nhiều điều mẹ không nói cho con,” Bạch Tuyết nói. “Có quá nhiều điều bao nhiêu năm nay mẹ giấu con.” Hoàng hậu Độc Ác cúi đầu và nhìn chằm chằm xuống đất. Bà giữ im lặng. “Con có lẽ là người duy nhất trên thế gian dành cho mẹ lòng thương cảm. Làm ơn nói con biết rằng lòng thương đó không phải là vô ích,” Bạch Tuyết van xin. “Nếu có chuyện gì trong quá khứ tác động đến những quyết định gần đây của mẹ, hãy cho con biết.” Vẫn không có câu trả lời nào. “Con sẽ không rời khỏi đây đến chừng nào mẹ kể con nghe!” Bạch Tuyết kêu lên, lần đầu trong đời nàng lớn tiếng. “Được thôi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. Bạch Tuyết liền ngồi xuống một chiếc ghế cao khác trong phòng giam. Hoàng hậu Độc Ác nấn ná trong giây lát trước khi bắt đầu và Bạch Tuyết càng thêm chờ đợi. “Người ta sẽ mãi mãi lãng mạn hóa câu chuyện của ngươi,” bà ta bảo Bạch Tuyết. “Sẽ không có ai đoái hoài đến câu chuyện của ta. Ta sẽ tiếp tục bị hạ nhục, biến thành một kẻ độc ác ghê tởm cho đến muôn đời. Tuy nhiên, điều mà thế giới không thể nhận ra là một nhân vật phản diện chỉ là một nạn nhân mà chuyện của họ vẫn chưa được kể. Tất cả những gì ta đã làm, sự nghiệp cả đời ta và tội lỗi của ta chống lại ngươi, tất cả là vì ông ấy.” Bạch Tuyết cảm thấy trái tim mình trở nên nặng nề. Đầu óc nàng choáng váng và sự tò mò chiếm lĩnh toàn bộ con người nàng. “Ai cơ?” nàng vội hỏi đến độ quên kiềm chế sự nóng vội trong giọng nói. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và để những ký ức trở lại. Hình ảnh những nơi chốn, những người bà đã biết trong quá khứ hiện ra từ thẳm sâu tâm trí như ánh đom đóm trong hang động. Có rất nhiều điều bà đã chứng kiến trong những năm tháng thanh xuân, quá nhiều thứ bà ước rằng mình nhớ và quá nhiều thứ bà muốn quên đi. “Ta sẽ kể ngươi nghe về quá khứ của ta, hay ít nhất là quá khứ của người từng là ta,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Nhưng ta cảnh báo ngươi. Chuyện của ta không phải là một câu chuyện có kết thúc hạnh phúc mãi mãi.”   Mời các bạn đón đọc Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại của tác giả Chris Colfer.